Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sống Nhờ

Nhân vật chính trong tự truyện Sống nhờ (1942) là Dần gọi thế bởi cậu sinh vào giờ Dần. Dần sống ở nông thôn, một làng quê tỉnh Hải Dương; mồ côi cha từ lúc chưa sinh, lên sáu tuổi mẹ đi lấy chồng. từ ấy, Dần sống với bà nội và với các cô chú bên nội: rồi lại chuyển sang bên ngoại, với ông bà và các cậu, dì. Một thế giới họ hàng gồm cả hai bên nội ngoại thật là đông đúc, nhưng Dẫn vẫn rất thiếu tình thương. Chỉ vài ba tình cảm hiếm hoi của một người cô, một người mợ và hai phía ông – bà không thể làm ấm lên được bao nhiêu bầu không khí lạnh lẽo bao lấy một đứa trẻ mồ côi. Giữa những mắng mỏ, hắt hủi, đánh đạp. Dần chỉ còn tìm được nguồn an ủi và chỗ dựa là bà nội – người cho đến tuổi già còm cõi, gần đất xa trời vẫn còn góp nhặt từng đồng cho Dần đi học, và cố đỡ vực cho một đại gia đình trong suy sụp vì những đứa con phá tán cơ nghiệp bởi cờ bạc và rượu chè. “Sống nhờ” trong thế giới người thân, bị đun đẩy qua lại giữa hai bên nội ngoại, Dần từ nhỏ đã quen cảnh sống vất vưởng, lang thang. Lớn lên một chút, Dẫn cũng được đi học, cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, trước là ở trong làng, sau được gửi lên tỉnh. Nhưng thói quen lêu lổng và nỗi nhớ nhà khiến Dần chẳng thể nào chí thú trong việc kiếm chữ. Sao nhãng việc học, Dần tìm đến những đam mê của một tuổi trẻ cô đơn, buồn tẻ. Và, đến lúc mấp mé tuổi lớn, trong cảnh sa sút của gia đình và bao người thân lần lượt ra đi, Dần mới chợt giật mình thấy phải nuôi dần cái chí tự lập để thoát ra khỏi thân phận “sống nhờ”. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Trên mạch hồi ức của đứa trẻ từ tuổi lên sáu xa mẹ đến tuổi mười lăm chuẩn bị bước vào đời, luôn luôn in bóng hình ảnh người mẹ trong quyến luyến và cách xa. Đọc Sống nhờ để hiểu một tuổi thơ xót xa buồn khổ trong xã hội cũ. Xót xa không phải chỉ do tình cảnh mồ côi cha và mẹ đi lấy chồng. Mà vì cả một bối cảnh xã hội, do sự mưu sinh vất vả và sự mờ mịt của tương lai mà rất vắng thiếu tình yêu. Và để thấy, việc thay đổi trạng huống bơ vơ, buồn khổ, để cho mọi tuổi thơ được sống đầm ấm, êm vui dẫu có Cách mạng tháng Tám vĩ đại, vẫn không dễ chút nào. Đọc Sống nhờ, để thương cảm và chia sẻ với biết bao tuổi thơ bất hạnh; và để mong mỏi cho mỗi tuổi thơ như thế có được một chỗ dựa, một ý chí vươn lên tự lập mà thoát ra khỏi cảnh “sống nhờ”, dưới bất cứ hình thức nào. Cuốn sách là kết đọng mười năm tuổi thơ của một người giàu nhận xét, giàu xúc cảm – nhà văn Mạnh Phú Tư. Phải đọc vào truyện, phải soi vào mỗi trang chữ mới sống hết được các cảnh đời, mới cảm nhận được hết cái dư vị chua xót nhưng cũng đầy chất thơ trong một hồi tưởng và hình dùng, theo tôi nghĩ, khó ai đạt được sự sắc nét và thiết tha đến thế. Sống nhờ, dẫu trong dạng tự truyện xen hồi ức, nhưng Mạnh Phú Tư vẫn rất biệt tài trong tạo dựng các cảnh đời và khắc họa các chân dung – từ những ông chú, bà cô, ông cậu, bà mợ và hai phía ông bà nội ngoại trong gia đình Dần, đến những ông thầy: thầy lang, thầy phù thủy, thầy đồ Nho đồ Tây, rồi các loại bạn bè từ bé đến lớn của Dần, trong đó có đến ba cô… người yêu, đều chưa vượt tuổi vị thành niên. Có thể nói, Mạnh Phú Tư đã giúp cho người đọc hiểu, không kém Ngô Tất Tố, Nam Cao về đời sống làng quê Việt Nam xưa, trong cả bề mặt và bề sâu các vấn đề xã hội, phong tục và tâm lý dường như nghìn năm không đổi của nó. Đọc Sống nhờ từ tuổi bé, rồi nhiều lần đọc lại Sống nhờ qua các lứa tuổi, niềm hứng thú trong tôi gần như không giảm. Có thể nói đó là một trong số ít cuốn sách tiêu biểu và sáng giá của văn học hiện thực Việt Nam trước 1945. Cuốn sách viết về tuổi thơ, nhưng là để cho tất cả mọi lứa tuổi, tất cả những ai đã qua tuổi thơ cùng đọc. Giáo sư Phong Lê ***   Mạnh Phú Tư (1913-1959), tên thật là Phạm Văn Thứ, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ông là một tác giả văn xuôi nổi tiếng trước năm 1945, trong đó tác phẩm tiêu biểu là tiểu thuyết "Làm lẽ" được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Thanh Hà. Ông tiếp tục viết văn, làm báo. Năm 1959, ông mất ở Hà Nội khi đang làm biên tập viên báo "Văn học". Tác phẩm chính: Làm lẽ (1939), Gây dựng (1941), Nhạt tình (1942), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (1942), Người vợ già (1942), ... *** Tôi sinh vào giờ Dần. Bà tôi lấy ngay cái giờ đó để đặt tên cho tôi. Người bảo như thế cho tiện về sau, khi nào muốn lấy số tử vi hoặc có ốm đau xem bói cũng dễ nhớ giờ. Vừa mới lọt lòng mẹ, tôi đã là đứa trẻ mồ côi. Mẹ tôi có thai tôi được ngoài năm tháng thì cha tôi chết. Mẹ tôi nuôi tôi tới năm lên sáu, bỏ tôi lại rồi đi lấy chồng. Năm đó mẹ tôi chừng hai mươi ba tuổi. Cha tôi và mẹ tôi khi mới lấy nhau hãy còn như hai đứa trẻ: Chồng mười bẩy, vợ mười lăm. Những cặp vợ chồng trẻ như thế, hiện nay ở vùng tôi cũng hãy còn có rất nhiều. Thường thường gia đình nào cũng vậy, chỉ mong cưới được nàng dâu về để cho trong nhà được thêm đông đúc và có người giúp đỡ các công việc. Bà tôi cũng có cái ý nghĩ đó, nên đều lấy vợ sớm cho các con. Vả lại, nuôi con mà chưa gây dựng cho trai có vợ, gái có chồng thì vẫn chưa là đủ; bởi thế, khi thấy người đã bắt đầu già yếu, bà tôi chỉ nghĩ tới sự kiếm đủ vợ cho các con. Ngày mẹ tôi sa vào cảnh góa bụa, là ngày bà tôi bắt đầu hắt hủi mẹ tôi. Hình như bà tôi đã hiểu rằng một người đàn bà góa chồng vào cái tuổi mười bẩy, mười tám thì khó lòng ở vậy được. Lòng hắt hủi đã khiến bà tôi coi mẹ tôi như một người ngoài và chỉ còn nghĩ tới tôi, giọt máu đầu tiên và cũng là giọt máu cuối cùng của người con giai mà bà tôi thường khen là khấm khớ. Cả đến các chú, các thím tôi cũng tỏ vẻ ghét bỏ mẹ tôi. Bà tôi dành riêng cho hai mẹ con tôi một gian buồng bên cạnh buồng bà tôi. Mẹ tôi vẫn phải ăn chung và làm chung với các chú tôi. Trong khi mẹ tôi phải đi cuốc hoặc đi cấy ngoài đồng, ở nhà, một mình tôi tha thẩn góc sân, xó vườn để nghịch đất, đào giun. Chiều chiều, cứ khi nào gà đã lên chuồng, các công việc đã thu dọn xong cả, mẹ tôi lại dẫn tôi ra cầu ao rửa mặt và chân tay cho tôi. Mẹ tôi rủ rỉ hỏi tôi: - ở nhà, con có ăn no không? - Con ăn ba bát, chan với canh. Mẹ tôi bế tôi từ cầu ao về nhà để khỏi lấm chân. Mẹ tôi lại mắng yêu tôi: - Sao u dặn con ở nhà không được nghịch đất mà hôm nào chân tay cũng bẩn thỉu thế? Chẳng bao giờ tôi trả lời câu hỏi đó. Tôi chỉ đưa tay ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Đêm tới, mẹ tôi đưa tôi đi ngủ. Bao giờ mẹ tôi cũng duỗi thẳng một tay, đặt đầu tôi lên và một tay nhè nhẹ vỗ trên mông đít tôi. Tôi nằm nghiêng về một bên, đặt một tay lên ngực mẹ tôi. Có hôm tôi ngủ được ngay. Có hôm tôi trằn trọc mãi không ngủ được. Những hôm đó, tôi thấy bà tôi dịu dàng gióng một, nói với sang giường mẹ tôi: - Gái hóa cũng vạn người người ta ở vậy nuôi con đấy. Có gan một tý là được. Cái hạng người mà chưa chôn xong chồng đã tấp tểnh đi lấy chồng, chẳng trời nào chứng cho đâu. Tiếng nói của bà tôi cứ nhỏ nhỏ dần rồi bà tôi ngáy đều đều. Rồi chợt, bà tôi lại tỉnh giấc, chẳng hiểu là mẹ tôi còn thức không, nhưng cứ tiếp lời: - Những lúc đi đây đi đó, phải có ý có tứ mà giữ gìn. ăn uống cái gì của ai cho phải cẩn thận. Nhỡ mà nó bỏ thuốc thì rồi lại mẹ một nơi con một nẻo sớm... Không biết mẹ tôi có nghe những nhời đó chăng, nhưng hôm nay bà tôi nói những câu tương tự như thế tôi lại thấy mẹ tôi luôn luôn thở dài. Cái hơi thở làm nóng cả cổ và mặt tôi. Tôi không hiểu gì, tôi chỉ thấy trong người hơi sờ sợ. Những lúc đó, tôi nằm im thin thít, không dám cử động và nín cả thở. Cứ sau một hơi thở dài của mẹ tôi một lúc tôi lại ôm ghì lấy mẹ tôi. Có một buổi tối về mùa đông, hai mẹ con nằm trên chiếc giường rải rơm, và đắp trên người hai chiếc chiếu cói. Tôi vẫn nằm kê đầu lên tay mẹ tôi. Trời lạnh quá thành khó ngủ. Mẹ tôi thỉnh thoảng đùa cù tôi trên cạnh sườn. Tôi bật cười, giãy giụa. Hai chiếc chiếu cọ nhau sột soạt. Bà tôi cất tiếng hỏi: - Cái gì thế? Tôi sợ quá nín hẳn cười. Yên lặng. Bà tôi lại gắt: - Cái gì mà rả rích thế? Mẹ tôi vừa giở mình vừa đáp lại: - Có gì đâu. - Có tiếng ai cười đùa mà lại bảo có gì đâu. Nghe bà tôi nói vậy, tôi quay đầu nhìn ra. Một cái bóng đen lờ mờ từ phía bên kia thong thả tiến lại gần phía giường mẹ tôi. Thỉnh thoảng cái bóng đó lại khuất hẳn sau một cây cột rồi lại hiện ra. Tôi không hiểu là cái gì và nhớ tới những chuyện ma quỷ tôi sợ đến run cả chân tay. Mẹ tôi tưởng tôi rét quá kéo chiếc chiếu phủ kín cho tôi. Cái bóng ấy lại gần hẳn cạnh giường hai mẹ con tôi. Tôi kêu rú lên. Mẹ tôi hỏi: - Sao thế con? Lúc đó bà tôi mới lên tiếng: - Có ai thế? Mẹ tôi hơi sẵng tiếng: - Thằng Dần đấy chứ ạ! Bà tôi sờ soạng khắp cả giường: - Ai đây? Gái hóa: phụ nữ có chồng chết. - Con đấy mà. Bà tôi sờ tới tôi. Tôi sợ quá không dám cựa mình. - Ai đây? Mẹ tôi vội đáp hộ tôi: - Cháu đấy mà. Bà tôi lại quờ quạng khắp giường một lượt nữa rồi quay đi. Tôi lại nhìn thấy cái bóng ghê sợ lúc trước, ẩn hiện ngay giữa nhà và cứ xa xa dần mãi. Tôi không dám nhìn theo nữa. Khi tôi đã nghe thấy tiếng những nan ở giường bên kia sột soạt kêu, bà tôi lên tiếng nói: - ấy, có thân thì giữ... ở giường bên này, lúc đó tôi mới dám bắt đầu thở đều. Mẹ tôi sụt sịt khóc, nước mắt ướt đầm cái cánh tay tôi gối. Tôi không hiểu tại sao. Thấy mẹ khóc, tôi cũng đem lòng thương, tôi ôm chặt lấy cổ mẹ tôi. Và từ cái buổi tối ấy, tôi thấy sờ sợ bà tôi. Nhất là khi bà tôi đi đâu về hãy còn ở đàng xa mà thân hình chưa rõ, chỉ mới như một cái bóng cử động. Mẹ tôi đi lấy chồng giữa năm tôi lên sáu. Ngay từ khi mẹ tôi còn ở với bà nội tôi, cũng đã có người mối manh nói với bà ngoại tôi xin lấy mẹ tôi. Bà ngoại tôi phân vân mãi rồi sau hết nói lại riêng với mẹ tôi, cố tìm cách giấu hết mọi người bên họ nội. Sau đó người ta cứ hỏi tin tức mãi và cách ít lâu người mối lại ngỏ lời xin ăn hỏi. Bà ngoại tôi nhận nhời. Nhưng trước khi nhận lễ bà ngoại tôi cũng có nói lại công việc gả chồng cho mẹ tôi để bà nội tôi được biết. Cái hy vọng giữ được một người nàng dâu ở vậy nuôi đứa cháu giai bị tiêu tán. Không bao giờ bằng lúc này bà nội tôi đem lòng thù ghét bà ngoại tôi: - Tôi không thấy ai lại như bà. Con gái đầu lại gả chồng hai lần. Giá có lấy mười con gái mà gả chồng như bà thì rồi tha hồ mà nhà ngói cây mít. Mời các bạn đón đọc Sống Nhờ của tác giả Mạnh Phú Tư.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Em Là Của Anh - Johanna Lindsey
You belong to me (Em là của anh) kể về câu chuyện giữa nàng Alexandra và chàng công tử Vasili Petroff, cặp đôi oan gia được sắp đặt vào một cuộc hôn nhân chính trị: Không ai trên thế giới này có thể chế ngự được Alexandra Rubliov. Là một cô gái xinh đẹp, phóng khoáng nhưng cũng rất nóng nảy, Alex kiên quyết từ chối những cuộc hôn nhân do cha mình - ngài Constantin Rubliov sắp đặt. Tuy vậy, ông đã hy sinh danh dự và sự chính trực của mình, làm giả một bản thỏa thuận hôn ước để gả cô con gái khó bảo tới một vùng đất xa xôi. Alex sẽ được chồng chưa cưới hộ tống tới vùng đất của chàng để tổ chức hôn lễ. Chàng bá tước Vasili Petroff đã lên kế hoạch để từ chối cuộc hôn nhân mà chàng không hề mong muốn bằng việc đóng giả một tên vô lại một cách hoàn hảo - nhưng thật không may, nàng Alexandra tinh quái cũng lên một kế hoạch tương tự như thế. Nhưng để đi trên con đường của sự lừa dối thì không hề đơn giản. Rất nhiều ngã rẽ không mong đợi có thể dẫn hai người đồng hành bất đắc dĩ đến một định mệnh bất ngờ: một nơi gọi là tình yêu đích thực. Liệu tình yêu có dẫn lối cho hai người vượt qua mọi định kiến và tìm được một nửa đích thực của mình? *** Những ngọn đèn cầy tỏa ra anh sáng dìu dịu, những tấm trải giường bằng lụa, một tấm thảm rất dày ở trước lò sưởi. Càng nhìn khung cảnh đầy quyến rũ trong phòng ngủ của Vasili, Alexandra càng bực bội khi phải ngồi đợi anh. Có lẽ là cô đã quá nôn nóng. Hôm nay cô đã nói với cha là cô sẽ làm cho Vasili yêu cô; tuy nhiên cô không mong đợi một kỳ tích sẽ xảy ra ngay tối nay. Nhưng ít ra thì cô đã không còn cảm thấy hết hy vọng nữa. Nói chuyện với cha cô làm cho cô có lòng tin hơn, và làm cho cô nhận thức được là cô đã đánh mất lòng tin trong một thời gian dài. Bây giờ cô biết rõ là cái thai của cô đã không liên quan gì tới tâm trạng không vui của cô. Cô nhìn sang hướng khác thay vì ngó chăm chăm vào lò sưởi và nhìn thấy Vasili đã lặng lẽ đi vào phòng. Anh đang đứng tựa vào cột giường, cánh tay khoanh ngay trước chiếc áo ngủ màu đỏ sậm và đang nhìn cô. Như thường lệ, vẻ đẹp trai của anh làm cho cô khao khát, những đường nét trên khuôn mặt anh thật hoàn hảo, mái tóc màu vàng hơi rối của anh, thân thể cường tráng của anh. Cô sẽ phải làm gì để làm cho người đàn ông đẹp trai này yêu cô? "Anh đã làm gì với những cô nhân tình mà anh rải khắp thành phố này vậy? Anh nhướng một chân mày thắc mắc."Chúng ta sắp sửa cãi nhau hở, em yêu?" "Cũng có thể lắm." "Em có thể nghĩ được chuyện gì khác... hứng thú hơn để làm không vì đây là đêm động phòng của chúng ta?" "Nếu ý anh là chuyện làm tình thì Petroff, hãy tin em là chúng ta sẽ làm chuyện đó." Anh phì cười."Nếu vậy thì em nên biết là anh đã thăm viếng tất cả bọn họ trong lúc em đang cố gắng để không trở thành một quí bà dưới sự giám hộ của mẹ anh. Và anh thật lấy làm kinh ngạc là không một ai trong bọn họ có thể cám dỗ được anh lên giường với họ. Không còn chuyện gì khác ngoài chuyện anh trả tiền chia tay với bọn họ." "Em phải tin chuyện này à?" ... Mời các bạn đón đọc Cardinia's Royal Family #2: Em Là Của Anh của tác giả Johanna Lindsey.
Mưa Mùa Hạ - Ma Văn Kháng
 17 năm trước, tôi đã đọc Mưa mùa hạ của nhà văn Ma văn Kháng, đúng thời điểm dư luận "sốt" lên xung quanh những ý tưởng khá táo bạo mà nhà văn đề cập trong cuốn tiểu thuyết này. Nhiều người thích sự bạo dạn, mới mẻ trong ngòi bút của Ma văn Kháng khi ông lật tẩy, đả phá những vấn đề tiêu cực tồn tại trong xã hội một cách không thương tiếc. Thích cái sự ví von của ông ở hình ảnh đàn mối với những đêm giao hoan lạc thú khởi đầu cho những cuộc sinh sôi, nảy nở, bành trướng của loài sinh vật mà sức phá hoại của nó đã đi vào lịch sử "Tổ mối hổng sụt toang đê vỡ". Cũng không ít người tiếc khi không tìm thấy sự dung dị, chân chất mà ấm áp trong văn phong của ông như thời "Mùa lá rụng trong vườn". Người ta chê ông "nhiều triết lý", trang nào cũng triết lý, các nhân vật cứ gặp nhau là triết lý, mỗi người một diễn đàn, hùng biện say mê, ép cho bằng được kẻ đối thoại phải ngồi im trên trang sách mà nghe. Lại có người không thích sự bỗ bã, tục tĩu trong ngôn ngữ đời thường của một số nhân vật Thưởng, Hảo, ông Tiếu, Loan... Trên thực tế, bỗ bã, tục tĩu vốn là kiểu nói đầu lưỡi của những kẻ vô sỉ, bất lương nhưng không nhất thiết phải thể hiện đậm đặc ở những trang viết có sự xuất hiện của những loại người này, người đọc mới hiểu bản chất của chúng là xấu. Tiếng Việt rất phong phú, sự đa nghĩa của nó chắc chắn giúp nhà văn giải quyết ổn thoả sự khúc mắc của người đọc về sự thô tục trong ngôn ngữ của một số nhân vật. Và như vậy, Mưa mùa hạ có lẽ đã trau chuốt hơn nếu như tác giả không muốn tạo "ép phê' với người đọc bằng việc "bê" thứ ngôn ngữ đời thường thô ráp vào văn.             Ðọc lại "Mưa mùa hạ" khi tác phẩm vừa được tái bản lần 3, vẫn không thoát khỏi cảm giác bị ức chế bởi những màn triết lý dày đặc trong tác phẩm, thậm chí đôi chỗ cao siêu, rõ là được gọt giũa qua cảm quan của tác giả theo đường ray đã định sẵn nhưng không thể phủ nhận tính xã hội và thời đại mà Ma văn Kháng đã tạo ra cho tác phẩm bằng tài năng, tâm huyết và cả những nỗ lực mà dư luận cho là "cuộc thử nghiệm văn chương". Ông đã có lý khi cho rằng, lịch sử của dân tộc VN gắn với lịch sử của những con đê "cong như chiếc nỏ thần" và thuỷ quái chính là tên giặc thứ hai cùng với giặc phương Bắc đe doạ dân tộc ta từ khi mới dựng nước. Sự ví von ấy đã được ông áp dụng cho hiện tại và lũ giặc có sức phá hoại của mối cần được tìm diệt chính là lớp người xấu đại diện cho những tiêu cực đang tồn tại trong xã hội. Ðó là Hưng- một kẻ cơ hội bẩn thỉu. Làm việc trong cơ quan phòng chống bão lụt tỉnh nhưng chính Hưng lại là kẻ gây ra sự cố vỡ đê Lợi Toàn khiến bao người phải chịu cảnh màn trời chiếu nước. Là Loan, một cô gái có bộ mặt của Ðức Mẹ nhưng tâm hồn bị tiền và những thú đàng điếm của lớp trọc phú tiểu thị dân làm méo mó. Là Hảo, một kẻ có nhiều tài vặt nhưng tư tưởng bị hoen ố bởi những ham muốn tầm thường. Là Thưởng, một kẻ bất lương vô sỉ lợi dụng thời thế để buôn bán, lừa lọc... Ðối lập với bọn người xấu trên là những con người hết lòng vì công việc, vì đồng loại, cũng là những người kém may mắn trong sự nghiệp và đời sống tình cảm vì những lý do khách quan khi những thói đàng điếm, tiêu cực nhất thời thắng thế ở đâu đó. Trọng là hình tượng được xây dựng công phu, giống như sợi dây "nhạy cảm" xuyên suốt tác phẩm. Say mê công tác nghiên cứu tìm diệt tổ mối trong thân đê, trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu chống bão lụt trên khúc đê xung yếu, Trọng chính là đại diện của lớp trí thức trẻ tuổi có tài, có sức khoẻ, có tâm nhưng thiếu kinh nghiệm và có nhiều nông nổi khi đối mặt với tiêu cực. Trong thế trận mà cái tiêu cực ngang ngửa với các tích cực, người chiến thắng là người ngoài tâm, trí, sức phải biết dựa vào tổ chức và nguyên tắc. Nam và Ngoan là những người như thế. Họ đã khiến ông Cần- bố của Trọng vững tin hơn sau những thất vọng ở trường Ðại học nơi ông công tác, ở cái ngõ bé nhỏ 401 nhà ông, rặt những người xấu và sau cả cái chết của Trọng vì cứu khúc đê Nguyên Lộc. Khép lại tác phẩm bằng hình ảnh ông Cần lặng lẽ giữa bộn bề cảm xúc, dường như nhà văn muốn khẳng định sự thắng thế tất yếu của cái tích cực trong cuộc chiến quyết liệt với những tiêu cực được nguỵ trang bằng đủ hình thức tráng lệ trong xã hội. Cái xấu đã bị đánh bại (Hưng bị đình chỉ công tác chờ kỷ luật; Thưởng chết chìm dưới nước cùng túi vàng có được bằng những việc làm bất chính; Loan bị sa thải khỏi cửa hàng thương nghiệp...) nhưng vẫn hiển hiện trước người đọc một con đê phập phồng nhạy cảm chứa trong lòng sâu những tổ mối rỗng. Cuộc chiến chống tiêu cực vẫn tiếp diễn... Có lẽ vậy mà những ý tưởng, những vấn đề "Mưa mùa hạ" đề cập gần hai mươi năm trước không hề cũ trong cuộc sống hôm nay. Vẫn nóng hổi hơi thở thời đại khiến người đọc dễ thông cảm hơn với những đối thoại mang màu sắc triết lý, triết luận trong tác phẩm để cuốn theo những số phận gần gũi, thân thuộc như chính cuộc đời xung quanh. Có điều, nếu như viết về con người, cuộc sống "Mưa mùa hạ" có phần hơi "cứng", hơi lên gân, thiếu uyển chuyển khi thể hiện các mối quan hệ xã hội con người, chưa lý giải thấu đáo những bước ngoặt của tính cách, số phận thì những trang tác giả viết về đời sống sinh hoạt của mối lại hết sức trữ tình, lãng mạn. Thiên nhiên đã chắp cánh cho tâm hồn nhà văn bay bổng hay nhà văn muốn sử dụng bút pháp trữ tình để tạo sự tương phản với sức phá hoại khủng khiếp của loại sinh vật mù loà kia?. Có lẽ sự không nhất quán trong bút pháp giữa các trang văn... là một thử nghiệm của nhà văn Ma văn Kháng tạo ra hai thái cực thích và không thích "Mưa mùa hạ" 17 năm về trước và cả bây giờ. *** Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội) tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học trường Sư phạm Hà Nội. Ông từng là giáo viên cấp hai, dạy môn Văn và là hiệu trưởng trường cấp 3 thị xã Lao Cai nay là tỉnh Lào Cai. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1974. Từ năm 1976 đến nay ông công tác tại Hà Nội, đã từng là Tổng biên tập, Phó Giám đốc Nhà xuất bản Lao động. Từ tháng 3 năm 1995 ông là Tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam. Ông đã 8 lần đệ đơn xin thôi vị trí này. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ *** Cơn bão Nan-xi tan. Ngoài biển đông lại đang hình thành một vùng áp thấp nhiệt đới, có gió xoáy cấp bẩy, cấp tám. Các cơn bão gối đầu nhau, kế tiếp nhau đổ vào đất liền, như có ác ý muốn tàn phá đến tận cùng sự sống trên đất nước còn mang bao vết thương đau sau mấy chục năm đằng đẵng chiến tranh này. Chưa bao giờ có một mùa mưa bão dữ dằn và khốc hại đến vậy. Cơn bão số 4 ập vào vùng Đèo Ngang gây mưa lớn chưa từng có ở miền Trung. Đồng bằng sông Cửu Long chịu hậu quả của những cơn mưa lớn trên đất Lào, ngập lụt hàng trăm héc-ta. Bão số 7 phá phách suốt từ Thanh Hoá tới Tây Nguyên. Bão số 8 quét một vệt dài từ Nam Bình Trị Thiên đến Quảng Nam- Đà Nẵng. Bão số 10 gây thiệt hại lớn vùng bờ biển Quảng Ninh. Mưa lớn ở Tây Bắc, Việt Bắc. Mưa rất to ở trung du, ở đồng bằng Bắc Bộ, ở miền núi Trung Bộ. Nước sông Hồng lên cao, vượt thiết kế. Sông Hoàng, sông Yên, sông Bưởi, sông Cả, sông Mã, sông Chu, sông Gianh, sông La... vượt báo động cấp 3. Đồng ruộng ngập úng. Vụ mùa thất bát. Công trình thuỷ lợi vỡ. Đường giao thông lở từng quãng dài. Cầu cống trôi. Núi đổ. Nhà sập. Của cải mất. Người chết. Tất cả các triền đê đều tràn nước. Nhưng, cũng như quãng đê Nguyên Lộc, không một khúc đê nào bị vỡ hoàn toàn. Hiên ngang trước những thử thách nặng nề, những con đê, nỏ thần trừ thuỷ quái của dân tộc, vẫn vững vàng đối mặt với bão mưa, sóng gió phũ phàng! Mùa mưa bão vẫn còn. Thành phố tiêu điều sau mưa bão vẫn chưa kịp phục hồi các công trình bị tàn phá. Ngõ 401 lênh láng thứ nước cống đen nhánh. Điện thành phố mới khôi phục đã phải dành cho việc chống úng. Trong bóng tối lờ mờ của ngọn đèn dầu hoả trong căn buồng nhỏ vào những ngày này, có những giờ phút ông giáo Cần ngồi lặng như hoá đá. Trên chiếc bàn thờ nhỏ của ông, cạnh ảnh người vợ thân thương, giờ có thêm ảnh Trọng, con trai ông. Trọng đã hy sinh vì kiệt sức lúc hàn khẩu. Ông nhận được tin đau đớn ấy khi cơn bão tan. Và lễ tưởng niệm Trọng tổ chức khi cơn bão tiếp theo bắt đầu khởi phát. ... Mời các bạn đón đọc Mưa Mùa Hạ của tác giả Ma Văn Kháng.
Hiệp Sĩ Sainte Hermine - Alexandre Dumas
Hiệp sĩ Sante Hermine Hiệp sĩ Sainte Hermine là một di ngôn - là lời sau cuối chứa đựng trong nó trái tim yêu tha thiết cuộc sống bộn bề và đầy bủa vây trong xã hội chuyển từ chế độ Phong kiến sang Cộng hòa rồi Đế chế của một thiên huyền thoại. Hiệp sĩ Sainte Hermine cũng khiến cho những xô bồ gấp gáp thực tại bỗng nhiên như chùng lại để người đọc có thể đắm mình trong thế giới lãng mạn phảng phất ấy mang lại một vẻ đẹp thanh khiết trong cuộc sống quá nhiều bụi và khói xăng hiện tại. Lần đầu được đăng nhiều kỳ trên một tờ báo của Pháp nhưng vẫn chưa hoàn tất khi Dumas mất năm 1870. Ông Claude Schoppe, một chuyên gia chuyên nghiên cứu về Alexandre Dumas đã phát hiện ra cuốn sách và ông đã viết thêm ba chương cuối để hoàn tất tác phẩm. Khi xuất hiện trước công chúng, cuốn sách được đánh giá là "hay đến mức không thể tả nổi". Sở dĩ cuốn sách hấp dẫn như vậy là một phần nhờ vào nguồn tư liệu dồi dào về lịch sử mà Dumas đã dày công sưu tầm. Trên bối cảnh của cuộc cách mạng Pháp, cuốn tiểu thuyết đề cập đến sự lựa chọn đầy khó khăn của một nhà quí tộc giữa tư tưởng bảo hoàng và sự ngưỡng mộ cá nhân đối với Napoléon. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844.   Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) Hiệp Sĩ Sainte Hermine *** Một tấm bản đồ lớn được trải trên bàn làm việc của phó vương. Phó vương đi thẳng đến chỗ bản đồ, chỉ tay vào vùng Udine và nói với Lamarque: - Thưa tướng quân, hoàng đế đã ban cho tôi một món quà quý giá khi gửi ông đến bên tôi. Tôi sẽ cho ông biết những tin tức mà tôi được biết. Có thể Áo sẽ phá vỡ hoà ước với chúng ta và sẽ tấn công chúng ta vào ngày 12. Trước đây chưa đầy hai giờ, tôi đã được báo tin này và tôi đã huy động tất cả các tướng lĩnh của các cánh. quân về tập trung xung quanh Udine. Nhưng với những cánh quân từ Italie cần phải năm hoặc sáu ngày họ mới về đến đây. Tướng Lamarque lên tiếng: - Thưa phó vương, xin phép ngài cho tôi hỏi ngài một số câu hỏi. Ngài đang nhắc đến kẻ thù nào? Các đội quân của chúng hiện đang đóng ở đâu? Số lượng của chúng là bao nhiêu? - Về đối thủ của tôi, đó là quận công Jean. - Thế thì càng hay đấy. - Tại sao ông lại nói là càng hay? - Bởi vì ông ta là người ít kinh nghiệm nhất, là người phiêu lưu nhất trong ba anh em. Chắc chắn ông ta sẽ có những lầm lỗi có lợi cho ngài. Vị phó vương thở dài và khẽ nhún vai: - Thật tồi tệ tôi cũng không có kinh nghiệm nhưng chúng tôi sẽ cố gắng hết sức… À, mà ông hỏi tôi những ba câu hỏi cơ mà. ... Mời các bạn đón đọc Hiệp Sĩ Sainte Hermine của tác giả Alexandre Dumas.