Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Không Khóc Ở Kuala Lumpur

ĐỌC “KHÔNG KHÓC Ở KUALA LUMPUR” CỦA LINH LÊ Nếu Malaysia phải chọn một người để quảng bá du lịch cho Kuala Lumpur và cho đất nước Hồi giáo này, người đó sẽ không phải là Linh Lê. Hình ảnh Kuala Lumpur trong Không khóc ở Kuala Lumpur đầy ám ảnh, những trận mưa, sấm chớp kinh hoàng, những bi kịch nặng nề và ám ảnh, cả tiếng quạ kêu. Những tình tiết éo le đến mức không thể tin đó là sự thực. Những nhân vật sống bản năng đến khó tin. Nhưng rồi người đọc lại bị thuyết phục bởi một giọng văn rất thực, một tình cảm rất thực, thực tưởng như chính những trải nghiệm của nữ tác giả tuổi đời còn rất trẻ này. Không kỹ thuật, không tính toán, tả chân một cách như vô tình, lại đem đến cho tác phẩm một nét riêng, nhiều lúc sa đà vào chi tiết, nhưng nhiều lúc chính chi tiết làm cảm xúc như dồn nén, thậm chí nghẹt thở. Dường như với Linh Lê, không có chỗ cho những cá tính hời hợt. Tất cả đều được phơi bày. Cũng không có chỗ cho những cảm xúc bâng quơ. Hoặc là hạnh phúc ngất ngây, hoặc là đau khổ đến tột cùng. Và ở tận cùng của nỗi đau, khóc hay không khóc, dường như cũng không có gì khác biệt. Có cảm giác từng đoạn, từng đoạn, tác giả như “lên đồng” cùng tác phẩm và độc giả cũng bị dẫn dụ vào những dòng chữ đầy ám ảnh đó, có rất nhiều đoạn ám ảnh như vậy trong Không khóc ở Kuala Lumpur. Đọc liền một mạch, lật đến trang cuối cùng, gập lại cuốn sách, tôi liên tưởng tới một bộ phim Sitcom trên truyền hình, thể loại phim mà mọi diễn biến chỉ xảy ra trong bốn bức tường. Chỉ có điều, Sitcom gây cười và như một món giải trí nhẹ nhàng, trôi tuột trước khi đi ngủ. Còn với tiểu thuyết đầu tay này của Linh Lê, chúng ta bị ám ảnh. Một sự pha trộn giữa trong sáng và từng trải, ngây thơ và sâu sắc. Đó là những gì mà độc giả có thể cảm nhận được về tác giả trong tiểu thuyết đầu tay này của cô. Với những gì có trong Không khóc ở Kuala Lumpur, với một sự tinh tế và nhạy cảm hiếm có ở một nữ tác giả tuổi đời còn rất trẻ, văn học trẻ chào đón một hơi thở mới, thổi về từ Kuala Lumpur. BTV Lê Quang Minh - Đài truyền hình Việt Nam *** Không khóc ở Kuala Lumpur là truyện đầu tay của tác giả trẻ Linh Lê. Tác phẩm kể về những câu chuyện tình yêu của giới trẻ với muôn vàn sắc màu, có yêu thương, có hạnh phúc và không thể thiếu những buồn đau. Các bạn có thể tìm đọc cuốn sách trên trang đọc sách waka.  Truyện xoay quanh Việt An – một cô gái thông minh, sắc xảo, có ý thức cao về vẻ bề ngoài của mình. Ở cô tỏa ra vẻ đẹp kiêu ngạo, tràn đầy sức sống tuổi trẻ. Mười sáu tuổi, An quen một chàng trai tên Kiên. Anh học giỏi, đẹp trai, đã thu hút cô với dáng vẻ hiền lành của mình. Họ yêu nhau thắm thiết bằng tất cả sự nồng nhiệt, chân thành dành cho mối tình đầu thơ dại. Thế nhưng thanh xuân mấy ai giữ trọn được duy nhất một mối tình. Cô và Kiên chia tay. Mối tình ấy để lại vết sẹo đau đớn mà thỉnh thoảng vẫn nhói lên trong lòng An. Bước chân vào đại học, An nhanh chóng hòa nhập vào môi trường mới. Cô kết bạn với Hiên Lam và Chu Minh. Chu Minh là người thật thà, tốt bụng. Hiên Lam lại khác. Cô toát ra dáng vẻ bất cần, từng trải vì những vấp ngã trong quá khứ. Bộ ba thân thiết với nhau từ những ngày đầu vào đại học. Rồi Minh và An yêu nhau. Và ba người họ cùng nhau sang Kuala Lumpur du học. Học tại đất nước xa lạ, nhóm bạn bị cuốn vào không khí hiện đại của môi trường mới. Lam lao vào những cuộc yêu vô thưởng vô phạt để chơi bời cho bớt nhàm chán. Ngược lại An và Minh nảy sinh mâu thuẫn trong mối quan hệ. Hai người đứng trước bờ vực của sự chia tay. Trong hoàn cảnh đó, Ken xuất hiện. Giữa sự mệt mỏi trong mối quan hệ với Minh, Ken mang đến cho An cảm giác nhẹ nhõm. Sự mới lạ từ Ken đã cuốn hút An và làm sống dậy những nhiệt huyết, xúc cảm trong lòng An từ lâu đã bị chôn vùi sau mối tình với Kiên. An quyết định chia tay Minh để đến với Ken. Không chịu được sự tuyệt tình của An, Minh lựa chọn tự tử. Mọi chuyện chưa kịp lắng xuống, An lại phát hiện một sự thật bàng hoàng mà Ken che giấu. Ken và Lam vụng trộm. Một người là người yêu, một người là bạn thân, vậy mà hai người họ lại lén lút yêu đương sau lưng An. Hai người họ đến với nhau chỉ trong giây phút bốc đồng nhất thời. Ken vốn thuần khiết và ngay thẳng, nhưng phần bản chất đàn ông bên trong Ken đã không kịp khống chế nên mới lao vào cuộc vui với Lam. Hai người họ quyết định chấm dứt mối tình này bằng một chuyến đi du lịch. Đó cũng là chuyến du lịch cuối cùng trong cuộc đời họ. Ken và Lam chết vì tai nạn giao thông. Ken, Lam hay Chu Minh đều là một phần thanh xuân, là tuổi trẻ của An. Dẫu họ có đối xử với cô không công bằng nhưng họ đã sát cánh bên cô trong thời gian tươi đẹp nhất. Họ đã chứng kiến An vấp ngã và trưởng thành. Vậy mà giờ đây, tất cả đều đã ra đi, bỏ mặc An một mình trên cõi đời này. Tuổi thanh xuân của An cũng chấm dứt từ đây. Cái chết của những người bạn cũng chính là cái chết tâm đối với An. Không khóc ở Kuala Lumpur là thế giới những con người trẻ tuổi, trẻ lòng. Họ vốn là một tờ giấy trắng, không có gì trong tay nhưng họ có nhiệt huyết, hết lòng trong tình yêu, tình bạn. Họ sống hết mình với những khát khao cháy bỏng để cho dù đến chết cũng không hối tiếc. Nhưng bên cạnh đó, trong tâm hồn họ cũng lẩn khuất những góc tối không muốn ai biết đến. Ví dụ như với An là mối tình ngây dại đánh đổi tất cả ngây thơ, trong trắng với Chu Minh. Chính sự sứt mẻ, không hoàn hảo đã tạo dựng nên con người, đặc biệt là người trẻ. Ngây thơ làm nên thất bại. Nhưng từ những tổn thương ấy họ mới có thể trưởng thành. Với Không khóc ở Kuala Lumpur, Linh Lê đã tái hiện lại một thành phố Á Đông rực rỡ phù hoa. Nổi bật trên cái nền đó là cuộc sống của những du học sinh đầy khó khăn, luôn bị cám dỗ bởi những điều mới lạ. Ở nơi đấy, tuy có những buồn đau nhưng cũng có những kí ức tươi đẹp của sự trưởng thành. Tác giả đã tái hiện lại cuộc sống của những người trẻ bằng lối kể tự nhiên, dễ hiểu. Nhân vật được xây dựng có cá tính riêng. Tất cả tạo nên những sắc màu rực rỡ có vui, có buồn, có vấp ngã, có trưởng thành của tuổi trẻ. *** Mời các bạn đón đọc Không Khóc Ở Kuala Lumpur của tác giả Linh Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Nửa Đại Đội - Đỗ Kim Cuông
Sở chỉ huy tác chiến của tiểu đoàn đặt trong một vạt mả rộng nằm chếch về phía bắc thôn Văn Xá chừng hai cây số. Có đến hàng chục ngôi mộ to có thành gạch xây bao chung quanh tạo thành một thứ công sự vững chãi, tránh được đạn thẳng và mảnh pháo. Tiểu đội trinh sát chiếm lĩnh từ chập tối. Bây giờ, từng tổ quay trở lại đón các bộ phận vào vị trí. Cách khu mộ chưa đầy hai trăm mét đã là hàng rào ngoài cùng của khu căn cứ quân sự Tứ Hạ. Ở đây có sân bay, có trận địa pháo và khu kho tàng, tiếp vận quân cụ, súng đạn cho các đơn vị tiền phương thuộc vùng I chiến thuật, tuyến phía Bắc sông Bồ kéo dài ra thấu Đông Hà, Quảng Trị. Một tiểu đoàn xe tăng M113 nằm thường trực chi viện cho các đơn vị lính của sư đoàn 1 khi đi càn quét các làng vùng Phong - Quảng Điền. Số lượng trực thăng chiến đấu nằm trong các hầm chứa máy bay và tại đường băng có khi lên tới ba chục chiếc. Trước Mậu Thân 1968, căn cứ Tứ Hạ nhỏ, nó chỉ được phình to mở rộng sau Mậu Thân. Hàng chục ấp chung quanh Tứ Hạ bị quét sạch xuống phía đông đường quốc lộ, để lấy chỗ lập hàng rào, vọng gác phòng thủ. Bảy lớp hàng rào bùng nhùng, hàng rào mái nhà xen kẽ với các bãi mìn gài chết. Tứ Hạ trở thành một căn cứ hỏa lực mạnh: chi viện tích cực cho các trung đoàn, sư đoàn ngụy, Mỹ phối hợp lên càn miền Tây. Pháo Tứ Hạ có thể bắn lên được tới bờ nam sông Bồ. Chưa một lần Tứ Hạ bị trầy vi tróc vảy. Với khả năng tấn công của Việt cộng ở đồng bằng, hai năm trở lại đây theo dõi trực tiếp những trận đánh xảy ra ở các thôn ấp, vùng ven giáp ranh, những tên phái viên trong ban tham mưu tác chiến của Bộ chỉ huy tiền phương ngụy vùng I chiến thuật rút ra kết luận: Việt cộng không đủ sức để chạm vào hàng rào lông nhím Tứ Hạ. *** Nhà văn Đỗ Kim Cuông sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951, quê quán phường Hồng Phong, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, ông gia nhập quân đội, tham gia từ cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968, tại chiến trường Trị Thiên Huế với tư cách là một người lính bộ binh, trực tiếp chiến đấu cho đến Đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất.  Năm 1976, Đỗ Kim Cuông được trở lại giảng đường Đại học tại Khoa Ngữ văn Viện đại học Huế. Sau khi tốt nghiệp, ông về giảng dạy tại Trường cao đẳng sư phạm Nha Trang - Khánh Hoà. Ông nguyên là Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh Khánh Hoà, kiêm Tổng Biên tập tạp chí Văn Nghệ Nha Trang, đại diện tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) tại Nam Trung Bộ.  Đỗ Kim Cuông đã từng giữ chức Vụ trưởng Vụ Văn hoá văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2010 - 2021), sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.  Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1990), Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.  Tác phẩm đã xuất bản: - Người đàn bà đi trong mưa (tiểu thuyết, 1987); - Một nửa đại đội (tiểu thuyết, 1989); - Hai người còn lại (tiểu thuyết, 1989); - Thung lũng tử thần (tiểu thuyết, 1990); - Miền hoang dã (tiểu thuyết, 1991); - Mảnh sân sau u ám (tiểu thuyết, 1993); - Vùng trời ảo mộng (tiểu thuyết, 1993); - Tự thú của người gác rừng (tập truyện ngắn, 1996); - Đêm ngâu (tập truyện ngắn, 1999); - Cát trắng (tiểu thuyết, 1997); - Người dị hình (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn, 2000); - Thủ lĩnh vùng sông Tô (tiểu thuyết, NXB Công an Nhân dân, 2001); - Phòng tuyến Sông Bồ (tiểu thuyết, NXB Hội Nhà văn 2009); - Lỗi hẹn với Sê pôn (tiểu thuyết, 2011); - Chớp biển (tập truyện ngắn, 2010); - Lời hẹn với Sê pôn (tập truyện ngắn, 2012); - Gió rừng (tập truyện ngắn, 2012); - Trang trại Hoa Hồng (tiểu thuyết, 2014). Mời các bạn đón đọc Một Nửa Đại Đội của tác giả Đỗ Kim Cuông.
Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác - Trần Huy Quang
 Cuốn "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" của Trần Quang Huy do nhà xuất bản Văn Học phát hành, được in từ nhiều chuyện ngắn hay khác nhau như: nước mắt đỏ, em là hoa thủy tiên... Cuốn sách "Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác" giới thiệu những nội dung: Tiểu thuyết: Nước mắt đỏ. Truyện ngắn: Em là hoa thủy tiên. Đạo của tình yêu. Giấc mơ. Cuộc chia ly trong chiến tranh. Giọt mưa trên lá. *** Trần Huy Quang, Sinh ở Nghệ An, nguyên là chiến sỹ pháo binh, , đã tốt nghiệp khoa Sử trường đại học Tổng hợp Hà nội ; anh nổi lên trên văn đàn bằng một loạt bài ký mà tiêu biểu là bài Câu chuyện về ông vua Lốp(I985),tác phẩm này đã đoạt giải nhất cuộc thi của báo Văn Nghê..  Anh đã có những cuốn tiểu thuyết : Ngọn khói (NXB Nghệ Tĩnh) ; Ngày mai (NXB Quân đội nhân dân) ; Nước mắt đỏ (NXB Lao động) ; Mối tình hoang dã (NXB Lao động) và tập truyện ngắn Người làm chứng (NXB Lao động).    Mời các bạn đón đọc Nước Mắt Đỏ Và Những Truyện Khác của tác giả Trần Huy Quang.
Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân - Khái Hưng & Nhất Linh
Quyển Hồn bướm mơ tiên là quyển truyện thứ nhất của Tự lực văn đoàn và là quyển truyện thứ nhất của ông Khái Hưng.  Lối viết truyện này có hai đặc sắc, khác với những lối viết truyện xưa nay.  Tác giả không tả cảnh rườm rà, chỉ một vài nét chấm phá thanh đạm như những bức thủy họa của Tàu; cảnh trong truyện nhiễm vẻ nào là tùy theo tâm hồn của người trong truyện; cảnh đối với người có liên lạc nhịp nhàng và linh động.  Tác giả không bàn luận lôi thôi, ông khéo đem một vài nhận xét tinh vi một vài việc xảy ra thích đáng để phô diễn tâm lý những nhân vật trong truyện. Vì hai lẽ đó nên truyện Hồn bướm mơ tiên có vẻ hoạt động, xem ham mê từ đầu tới cuối: độc giả tưởng như được cùng với người trong truyện cùng sống quãng đời diễn ra trong truyện.  Hồn bướm mơ tiên là một truyện tình dưới bóng Từ bi, một truyện tình cao thượng và trong sạch của đôi thanh niên yêu nhau, "yêu nhau trong linh hồn, trong lý tưởng" như lời tác giả nói. Tác giả đặt câu chuyện vào trong một cảnh chùa ở miền trung du Bắc Việt và khéo phô diễn những vẻ đẹp thiên nhiên của miền ấy khiến ta đem lòng yêu những cảnh đồi núi non khác hẳn cái cảnh "bùn lầy nước đọng" miền hạ du phẳng lỳ và buồn tẻ. Lại thêm được lối văn giản dị, nhanh nhẹn, tuy vui vẻ mà làm cho người ta cảm động vô ngần. Cái cảm ấy là một cái cảm nhẹ nhàng, phảng phất vui buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa. *** Hồn bướm mơ tiên – Nửa chừng xuân hai cuốn tiểu thuyết của Khái Hưng với hai truyện tình. Một truyện tình được miêu tả trong sự đối lập giữa tình yêu tự do và khoái cảm hạnh phúc đời thường với sự gò bó và hà khắc giáo lý tôn giáo. Một truyện tình có sự xung đột giữa cái cũ và cái mới và nhân vật chính trong truyện là nạn nhân của sự xung đột này. Tuy nhiên họ đã tìm ra lối thoát nhờ đủ nghị lực hướng tới xây dựng tương lai và “vì người khác mà hi sinh ái tình cùng hạnh phúc”  Hồn bướm mơ tiên - Câu chuyện giản dị, không có gì ly kỳ gay cấn. Tác giả củng không diễn tả, phân tích tình yêu phức tạp, éo le như ta thường thấy trong các tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn và các tiểu thuyết đương thời. Cả cái mô-tip: xung đột ái tình - tôn giáo cũng không được khai thác triệt để nhằm thu hút hứng thú của độc giả. Đọc tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên, ta cảm nhận rõ ràng Khái Hưng mượn câu chuyện để nói về đạo Phật, để trình bày cái nhìn của ông đối với đạo Phật.  Nửa chừng xuân -  Với một kết thúc lý. Ở đó, tình yêu được thăng hoa, nhân vật chính biến thành thánh thiện. Khái Hưng đã dùng những chi tiết hy sinh, thủ tiết, nhan sắc lộng lẫy… để mô tả Mai. Mai là phụ nữ hiếm có trong buổi giao thời, giàu tấm lòng vị tha, với khuôn mẫu đủ cả công, dung, ngôn, hạnh, với nghị lực chấp nhận khó khăn và vượt trở lực trên đường đời. Cả đời nàng chỉ biết thờ hai chữ hy sinh, hy sinh cho em, cho con và cho cả mối tình đầu trước mọi cám dỗ và thử thách mặc dù hạnh phúc lứa đôi đã chấm dứt ở tuổi nửa chừng xuân.  Giới thiệu hai tiểu thuyết của tác giả Khái Hưng, Trí Việt Books mang đến cho độc giả một cuốn sách đầy thi vị ngọt ngào, dễ đọc, dễ thấm, dễ hiểu cùng khung bìa bắt mắt. *** *** Khái Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1897.[1]. Cha ông giữ chức Tuần phủ. Cha vợ ông là Lê Văn Đinh cũng giữ chức Tổng đốc Bắc Ninh. Em ruột ông là nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng đi học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Tuy Khái Hưng hơn Nhất Linh 9 tuổi nhưng là người bước vào văn đàn sau nên được gọi Nhị Linh. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm 1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo. Tác phẩm Tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933) Đời mưa gió (cùng Nhất Linh, 1933) Nửa chừng xuân (1934) Gánh hàng hoa (cùng Nhất Linh, 1934) Trống mái (1936) Gia đình (1936) Tiêu Sơn tráng sĩ (1937) Thoát ly (1938) Hạnh (1938) Đẹp (1940) Thanh Đức (1942) Băn khoăn Tập truyện ngắn: Anh phải sống (cùng Nhất Linh, 1934) Tiếng suối reo (1935) Đợi chờ (1940) Cái ve (1944) Mời các bạn đón đọc Hồn Bướm Mơ Tiên - Nửa Chừng Xuân của tác giả Khái Hưng
Gia Đình Má Bảy - Phan Tứ
Trong Gia Đình Má Bảy, cốt chuyện rộng rãi, tác giả đặt những vấn đề lớn, ví dụ như vấn đề công bằng xã hội trong lịch sử dân tộc: “Bởi sống nửa đời trong bung lầy như bị vùi đến nửa thân, má hiểu lắm  cái phận tá điền sinh ra để cày ruộng người, kiếp trước truyền cho kiếp sau chỉ một túp lều rách. Người xưa đã dẹp hết các thứ giặc từ ngoài đến mà không trị nổi bọn giặc trong làng. Con trâu đủ sức giết cọp mà không tự tháo gỡ được con đỉa hút máu ở cổ, đành chịu vậy đến khi ngã quỵ” Những trang cảm động nhất của Gia Đình Má Bảy có thể là những trang đẹp nhất trong văn nghệ Miền Nam, là những trang mô tả những hy sinh thầm lặng của người phụ nữ Miền Nam trong hai cuộc kháng chiến. *** Phan Tứ tên thật là Lê Khâm, ông sinh ngày 20-12-1930 tại thị xã Quy Nhơn; nguyên quán xã Quế Châu, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình trí thức yêu nước. Phan Tứ tham gia cách mạng từ năm mười lăm tuổi, làm liên lạc chuyển tài liệu, báo chí bí mật. Năm 1950, ông nhập ngũ tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp Trường Lục quân ở Thanh Hóa rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện Việt Nam. Năm 1954, Phan Tứ tập kết ra Bắc rồi theo học khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1958, ông cho xuất bản tiểu thuyết Bên kia biên giới. Năm 1960, ông cho xuất bản tập truyện ngắn Trở về Hà Nội và tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Năm 1961, ông trở về công tác tại chiến trường miền Nam, làm phái viên ban Tuyên huấn Khu ủy Liên khu V, lấy bút danh là Phan Tứ. Năm 1966, Phan Tứ trở ra Bắc, công tác tại Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, làm quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Năm 1968, ông xuất bản tiểu thuyết Gia đình má Bảy, tập truyện ngắn Trong đám nứa. Năm 1970 ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ ủy viên Ban chấp hành, ủy viên Ban thư ký của Hội và lần lượt cho xuất bản: bút ký Măng mọc trong lửa; tiểu thuyết Mẫn và tôi năm 1972, tiểu thuyết Trại S.T.18 vào năm 1974. Năm 1975, Phan Tứ được nhận Giải thưởng ba mươi năm (1945-1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Sau kháng chiến chống Mỹ, Phan Tứ giữ chức vụ Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, rồi Đại biểu Quốc hội khóa VIII, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba. Thời gian này ông cho xuất bản hồi ký Trong mưa núi và ba tập tiểu thuyết Người cùng quê (1985). Ông mất ngày 17 tháng 4 năm 1995 do hậu quả chất độc màu da cam. Năm 1995, Phan Tứ được nhận Giải thưởng Văn học loại A mười năm (1985-1995) của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông còn được nhận Giải thưởng Văn học Nguyễn Đình Chiểu. Năm 2000, Phan Tứ được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ nổ súng, Gia đình má Bảy, Mẫn và tôi, Về làng. Năm 2002, Toàn tập Phan Tứ (4 tập) được Nhà xuất bản Văn học xuất bản. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Má Bảy của tác giả Phan Tứ.