Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Casanova Ở Bolzano

Năm 1756, trốn thoát khỏi buồng chì kiên cố ở Venice, không cưỡng nổi sự thôi thúc bí ẩn của định mệnh, kẻ phiêu lưu khét tiếng và phong tình lừng danh của thế kỷ 18 Giacomo Casanova tìm đường trở về Bolzano, nơi chàng từng chạm trán Tử thần trong cuộc quyết đấu cùng vị hôn phu quyền lực của thiếu nữ Francesca tuyệt sắc. Lần trở lại này của Casanova khiến cả thành phố chấn động. Tin tức cũng lan tới lâu đài của Bá tước Parma, lúc này đã kết hôn cùng Francesca. Bá tước tới nơi chàng Casanova trọ để làm một cuộc thương lượng lạ lùng. Một bí mật sẽ vĩnh viễn trở thành kỷ niệm, một nỗi đau sẽ được gói lại lần cuối, để không gì còn xen vào cuộc sống của người đàn bà quý giá của đời ông...  Hư cấu và tưởng tượng, không vay mượn từ Histoire de ma vie của nhân vật có thực Giacomo Cassanova nổi tiếng trong lịch sử, Márai Sándor  đã tạo nên một kiệt tác văn chương tràn ngập hơi thở mãnh liệt, cám dỗ nồng nàn của cuộc sống, với những đối thoại lạ lùng, thông thái, đam mê, bất ngờ và đầy tính cách ngôn sâu xa xoay quanh một tình yêu khắc khoải. Casanova ở Bolzano chứng minh rằng Márai Sándor - một trong những bậc thầy xuất sắc của nền văn học Hungary và thế giới - đã in dấu ấn vô cùng đặc biệt trên diện mạo văn chương thế kỷ 20. *** Lời khen tặng dành cho Casanova ở Bolzano “Câu chuyện mê đắm về tình yêu, tình bạn và sự phản bội…  Phong phú, cám dỗ, nồng nàn và châm biếm.” - Elle   “Sâu sắc và đầy chiêm nghiệm… Tràn ngập niềm vui cuộc sống.” - Vogue “Sáng chói… Cuộc đấu phức tạp của những trí tuệ… Casanova ở Bolzano cung cấp thêm bằng chứng về sự xuất sắc bị quên lãng của tác gia lớn trong thời đại chúng ta: Márai Sándor.”  - Chicago Tribune *** Ghi chú Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18. Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta. Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng. M.S. *** Một đức ông, từ Venice Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi. Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng. Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới. -      Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng. -      Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy! -      Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư? -      Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp. Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện. -      Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ. -      Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt. -      Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông... -      Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép. - Một đức ông, từ Venice! - chàng nói. Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng. Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày. Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à? -      Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế. -      Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn. -      Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ. -      Không còn gì khác? - họ hỏi. -      Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế. Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng. -      Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn. -      Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. -      Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại. Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm. -      Teresa! - ông cáu kỉnh gọi. Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực. -      Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này... -      Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát. -      Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý. -      Vâng, - cô bé đáp. Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con: -      Cháu sợ. -      Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ. Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.   Mời các bạn đón đọc Casanova Ở Bolzano của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lối Về - Danielle Steel
Sau khi chồng mất, Amanda Robbins rơi vào tình trạng ưu phiền, khủng hoảng. Bà nhận được sự quan tâm, chia sẻ của ông thông gia góa vợ Jack Watson và dần dần bình tâm trở lại. Một tình yêu lại nảy sinh giữa hai người và kết quả của tình yêu đó là một bé trai đang tượng hình. Đây là một điều khá thú vị vì cả hai người đều không còn trẻ để làm cha làm mẹ. Họ gặp phải sự phản đối gay gắt từ phía các con nhưng cuối cùng sức mạnh tình yêu đã chiến thắng tất cả... *** Là tác giả của những tiểu thuyết mang những cái tên như "Hẹn yêu", "Chuyện của trái tim", "Bây giờ và mãi mãi"… nhưng Danielle Steel vẫn khẳng định, tác phẩm của bà không phải là văn học lãng mạn. Đến nay, Danielle Steel là tác giả của 113 đầu sách. Trung bình mỗi năm bà xuất bản 3 cuốn. Sách của Steel đã tiêu thụ được 590 triệu bản trên toàn thế giới. Trong các sáng tác, nhà văn thường xây dựng hình ảnh những phụ nữ mạnh mẽ, tự chủ, vượt lên mọi thách thức trong cuộc sống và tình yêu. Nhưng trong cuộc phỏng vấn với CBS, Steel khăng khăng rằng, tác phẩm của bà "không phải là tiểu thuyết lãng mạn"… "Thực sự tôi đề cập sâu hơn đến những vấn đề của nhân loại. Lãng mạn chỉ là một yếu tố trong đó thôi". Hiện tại, nhà văn đang viết dở hai cuốn sách mới. Ngoài tiểu thuyết, bà còn sáng tác thơ dành cho thơ, truyện thiếu nhi và các thể loại phi hư cấu. Bà là nhà văn được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009 - 2010 của tạp chí Forbes. *** Tối hôm đó, gã Jack làm cơm tối cho nàng ăn. Tự nhiên gã ít tiếng hẳn. Nàng lo vì có thể sự việc của Jan và Paul đã khiến gã rồi bời. Khi nàng hỏi gã nói không sao cả. Gã vẫn bình thường, tự tin, hai người ngồi xuống ghế vải cùng ngắm sao, gã nắm tay nàng nhoài người tới trước, ôm hôn nàng. Một buổi tối êm ả. “Anh có vài điều hỏi em,” suy nghĩ hồi lâu, gã mới nói. Nàng không nghĩ ra được chuyện gì. Nàng ngoái nhìn, hơi nhíu mày. “Cả chiều nay em suy nghĩ. Nói thật, gần đây em nghĩ nhiều lắm. Chuyện sắp xếp cho Jan và Paul nhận đứa bé thật dễ dàng. Để anh quyết việc đó càng dễ dàng hơn.” “Ta muốn giúp bọn trẻ đó mới là chuyện hệ trọng.” Nàng không vừa ý. Nàng không hiểu nổi mình đang nghĩ chuyện gì. “Đúng rồi. Em làm được việc đó thật quá sức tưởng tượng. Nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Có thể dù cho có thiên sứ trên cao hiểu rõ chuyện này, giúp Jan có thai được đứa con.” Gã ngưng ít phút. “Anh muốn mình giữ đứa bé... anh thấy rất cần có nó.” Mắt nàng ngấn lệ long lanh, trong đêm tối nàng không hay biết. “Anh nói thật sao?” đã hai lần cùng trong ngày nàng thấy yếu đến độ chỉ quệt nhẹ cũng té ngã. “Anh đã chắc chưa?” “Anh cam đoan chắc chắn. Anh chán cái lối sống tân thời này lắm rồi. Anh muốn cưới em. Ngay bây giờ. Ngày mai cũng được. Nhanh đi. Anh không muốn thấy thằng bé là đứa con ngoài giá thú.” “Anh phải chờ bốn tuần nữa.” Nàng Amanda nhìn gã cười. Không biết gã có nói thật không hay là gã làm ra vẻ như vậy. “Anh chả phải yêu cầu điều đó. Ta yêu thương nhau đến thế thì cũng như đã lấy nhau từ lâu rồi.” “Thế càng hay. Sao không thu xếp cho xong. Cứ lặng lẽ sắp xếp. Anh ở Malibu, em ở Bel Air, cứ mỗi cuối tuần gặp nhau, được chứ? Anh muốn gần em để chăm sóc con, cho tới khi nó chập chững biết đi, rồi mọc răng cho đến khi tóc em đổi màu, và rồi...” Gã cười nhìn nàng. Nàng đáp. “Em ghét không muốn nói anh nghe, anh quên mất rồi. Mười năm rồi anh còn nhớ chứ?” “Thế thì anh phải nhớ hết phần còn lại. Anh không hiểu mình đã nghĩ gì nữa. Anh biết lo cho riêng mình suốt hai mươi năm, quên lo chuyện của em. Cái đáng trách nhất anh đã quên cái ý nghĩa cao quý của cuộc sống. ANh không muốn chia cắt cái khoảng thời gian đó, cuộc sống đó. Anh muốn ôm trọn tất cả. Mỗi lúc em đau ốm có anh ngay, chia sẻ buồn vui. Rồi anh lại muốn em đến với anh những lúc thiếu vắng em. Nếu anh có khao khát thì nó cũng theo y như bố nó.” Gã sờ nhẹ tay trên vùng bụng căng đầy, nàng kéo tay gã đặt trên môi hôn. “Em cũng muốn đến cùng với anh,” nàng nhỏ nhẹ. “Anh cũng phải có mặt tại chỗ.” Bất chợt nàng thấy lo. “Anh không nên lo xa, hãy còn quá sớm phải không?” Lần này được nghe tiếng cười to của gã. “Amanda, anh yêu em. Có bao giờ em nhìn lại mình chưa? Chỉ mới thấy một nửa. Không, chưa phải là quá sớm. Đừng để trễ phút nào. Tuần sau ta làm đám cưới. Anh sẽ báo tin cho bọn trẻ, nếu có đứa nào phiền trách điều gì, ta sẽ truất quyền thừa kế, ta nói cho bọn nó thế. Kể cả con Louise. Đến đây thì bọn nó phải ra tay giúp sức để có qua có lại dù là một việc đơn giản thay vì cướp đi niềm vui của em hoặc buộc em phải nghe theo bọn nó. Và hãy báo bọn trẻ biết chỉ nên nói những điều có lợi mà thôi. Ta chỉ muốn nhìn thấy những nụ cười, nghe lời chúc tụng. Bọn chúng nợ ta điều đó.” Nàng nhìn mắt gã, rõ ràng không có đùa, nàng thương gã ở chỗ đó. Ngày hôm sau gã ra tay ngay. Gã cho gọi bọn trẻ đến báo tin đám cưới của gã với Amanda. Tổ chức thứ bảy tuần sau. Gã nhờ một bạn cố tri, ông quan tòa, đứng ra chủ lễ. Lễ cưới tổ chức tại cửa hiệu Julie’s, khách mời ăn mừng có đến hai trăm, Jack và Amanda đứng ra tổ chức. Phần lớn công việc không kham nổi, nàng nhờ gã lo giùm vì quá mệt. Gã tìm mua cho nàng một bộ áo lụa Gazar màu kem mặc vào phất phơ như cánh hoa thật đẹp. Nàng cài hao trên tóc, tay cầm bó hoa ly ly, lan,... Hai đứa con gái cho hay sẽ đến chúc mừng. Gã Jack còn đề nghị chúng tới cửa hàng chọn đồ dự tiệc. Jan nhận lời cọn Louise tuyệt nhiên không nhận. Cô ta chỉ trả lời qua điện thoại, sẽ dự lễ cưới. Cô bực vì gã báo tin qua máy. Đáng lẽ Amanda nên gọi. Cô lúc nào cũng bực dọc đủ chuyện. Ngày cưới đến, Jack và nàng dạo một vòng bãi biển Malibu rồi về thay áo cùng các con. Hai đứa phụ nàng. Nàng cũng cảm động như bao cô dâu trẻ, tay run run mặc áo cưới. Thợ tóc tới tận nơi làm theo kiểu tóc búp yêu thích của nàng, một cô dâu lộng lẫy mang thai tám tháng rưỡi. ... Mời các bạn đón đọc Lối Về của tác giả Danielle Steel.
Hẹn Yêu - Danielle Steel
Là tác giả của những tiểu thuyết mang những cái tên như "Hẹn yêu", "Chuyện của trái tim", "Bây giờ và mãi mãi"… nhưng Danielle Steel vẫn khẳng định, tác phẩm của bà không phải là văn học lãng mạn. Đến nay, Danielle Steel là tác giả của 113 đầu sách. Trung bình mỗi năm bà xuất bản 3 cuốn. Sách của Steel đã tiêu thụ được 590 triệu bản trên toàn thế giới. Trong các sáng tác, nhà văn thường xây dựng hình ảnh những phụ nữ mạnh mẽ, tự chủ, vượt lên mọi thách thức trong cuộc sống và tình yêu. Nhưng trong cuộc phỏng vấn với CBS, Steel khăng khăng rằng, tác phẩm của bà "không phải là tiểu thuyết lãng mạn"… "Thực sự tôi đề cập sâu hơn đến những vấn đề của nhân loại. Lãng mạn chỉ là một yếu tố trong đó thôi". Hiện tại, nhà văn đang viết dở hai cuốn sách mới. Ngoài tiểu thuyết, bà còn sáng tác thơ dành cho thơ, truyện thiếu nhi và các thể loại phi hư cấu. Bà là nhà văn được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009 - 2010 của tạp chí Forbes. *** Marie thức giấc lúc rạng đông. Nàng thấy tinh thần tỉnh táo phấn khởi, như chưa bao giờ thấy thế. Vài tiếng đồng hồ nữa thôi là nàng hoàn toàn thoải mái tự do, dứt hẳn với quá khứ hẹn ước hai năm trước đây. Chính hẹn ước như trẻ thơ ngày đó đã ràng buộc nàng rất nhiều trong hai năm quạ Nàng cũng không buồn dùng bữa sáng, chỉ uống hai tách cà phê, rồi ra xe đã thuê sẵn. Nàng định khoảng mười giờ là tới nơi. Rồi trở về khách sạn khoảng quá trưa, lấy máy bay trở về San Franciscọ Khoảng xế chiều là tới nhà, có thể còn gặp Peter ở sở, đủ làm ông ngạc nhiên. Tội nghiệp, ông ta rất bình tĩnh nhẫn nại trước chuyến đi này của nàng. Nàng vừa lái xe vừa nghĩ đến Peter. Nàng mong là ông có thể hiểu nàng hơn sau cuộc du lịch ngắn ngủi này. Nàng yêu ông. Điều đó không còn gì nghi ngờ nữa. Marie lái xe xuyên qua vùng quê New England, không chú ý gì lắm đến cảnh vật hai bên đường cũng một màu xanh như ngày nào. Tựa hồ cảnh miền quê trong hai năm qua cũng bị chôn vùi trong ký ức. Lúc nàng đi nàng Revere Beach thì đã chín giờ rưỡi. Đây là nơi đã tổ chức hội chợ năm kia. Tim nàng như se lại khi nhận ra chỗ cũ. Nàng cho xe đi theo một con đường đất dọc theo bờ biển, rồi đến một nơi nàng ngừng lại, ra khỏi xe. Nàng không mệt nhưng cảm thấy tê cả chân taỵ Tâm trí thì hơi bấn loạn. Nàng phải làm chuyện này thôi... phải làm thôi... Nàng đứng nhìn một hồi lâu cái cây xanh mà trước đây nàng đã dựa. Tựa hồ nó biết rõ lịch sử những bí mật của nàng. Tựa hồ nó đang chờ nàng. Rồi nàng bước đến, như đón chào một người bạn cũ. Nhưng, cũng giống như những đồ vật mà những người nàng từng yêu, bây giờ cái cây cũng trở nên xa lạ với nàng chứ không là người bạn cũ. Nó tựa như một cái mộ bia trên nấm mồ của Nancy McAllister! Nàng bước chầm chậm tới chỗ tảng đá. Tảng đá năm xưa vẫn yên đó. Nhưng nàng và Michael thì đã di chuyển về hai hướng đời đối nghịch, đến hai thế giới khác lạ nhau. Nàng đứng một hồi lâu, tựa hồ để có thời gian thu hết sức lực và can đảm mà cúi xuống xê dịch tảng đá. Xong nàng lấy một nhánh cây moi đất dưới tảng đá lên, tìm món vật mà nàng đã chôn ở đấy. Nhưng chẳng có gì cả. Kẻ nào đã lấy mất chuỗi hột của nàng. Nàng xô tảng đá lại chỗ cũ. Chưa kịp thở lấy hơi bỗng nàng nghe một giọng nói sau lưng: - Cô không tìm được đâu! Nó là của người khác. Của một người mà tôi yêu. Của một người mà tôi không bao giờ quên được. Nước mắt long lanh, Michael nhìn nàng say đắm. Anh đã chờ gần nửa đêm để gặp nàng ở đây. Anh đã thuê một chuyến máy bay để có thể đến được đây trước khi nàng đến. Anh đưa tay ra, và Marie nhìn thấy chuỗi hột trong bàn tay anh. Chuỗi hột vẫn còn dính cát. Nước mắt nàng tuôn trào. Michael vẫn nhìn nàng và nói: - Anh đã hứa không bao giờ nói lời từ biệt... - Vậy mà anh đâu có đi tìm em! - Họ bảo với anh rằng em đã chết. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Yêu của tác giả Danielle Steel.
Đợi Chờ - John Le Carré
Tại lầu chót của một khách sạn kiến trúc kiểu Staline, nằm trên một đại lộ ở Matxcơva, hội chợ audio đầu tiên được British Council tổ chức để quảng bá văn hóa nước Anh, sắp bước vào giai đoạn bế mạc. Lúc 17 giờ rưỡi .Hôm ấy là một ngày mùa hè, thời tiết thay đổi một cách kỳ cục : suốt buổi sáng, những trận mưa rào lớn đã đổ xuống thành phố, nhưng bây giờ ánh mặt trời lấp lánh trong các vũng nước và hơi nhè nhẹ bốc lên từ các lề đường ..... *** John le Carré (sinh năm 1931) tên thật là David John Moore Cornwell. Trước khi trở thành nhà văn Anh gạo cội, ông từng làm việc cho cơ quan tình báo MI5 và MI6. Sau thành công lớn của tiểu thuyết thứ ba, The spy who came in from the cold (1963), ông rời MI6 để cống hiến toàn bộ thời gian cho nghiệp viết. Đến nay ông đã cho ra đời hàng chục tiểu thuyết, trong đó có thể nhắc tới The ppy who came in from the cold; Tinker, tailor, soldier, spy; The tailor of panama; The constant gardener và A most wanted man. Các nhân vật của John le Carré thường được đặt trong một bối cảnh chính trị cụ thể, luôn mang mối băn khoăn trước tính nước đôi về mặt đạo đức trong công việc của mình, hoài nghi về tính đúng đắn của nền dân chủ phương Tây và các cơ quan ngầm bảo vệ. Tác phẩm của ông khác với những câu truyện xoay quanh kiểu mẫu người hùng hành động như James Bond, với kịch tính thể thể hiện qua diễn biến tâm lý phức tạp, những tình tiết cân não hơn là những cuộc phiêu lưu hay đấu súng ngoạn mục. *** Các màn ảnh của chúng tôi cho biết lúc 18 giờ Barley bước ra khỏi văn phòng Nhà xuất bản Tháng Mười. Có một lúc chúng tôi đã kinh hoàng nghĩ rằng, có thể là Barley say, vì Zapadny cũng là một bợm rượu như ông ta, và rất có thể hai người đã cùng nhau làm một chầu Vodka trong cuộc thăm viếng từ giã này. Zapadny tiễn Barley ra tận cửa. Ở đó, hai người ôm hôn nhau thắm thiết, Zapadny có những cử chỉ như bị kích động, còn Barley thì trái lại, cứng đơ như một cái cọc. Vì vậy, các trinh sát sợ rằng Barley say, nên đã quyết định chụp hình ông ta trong lúc ấy, với ý nghĩ kỳ cục rằng như thế sẽ có thể làm cho ông ta bớt say. Tấm hình ấy là tấm hình chót trong hồ sơ, và tôi đã nghiên cứu kỹ tấm hình ấy. Barley ôm lấy Zapadny trong vòng tay mình. Người ta có thể nói Barley nâng đỡ Zapadny để truyền qua cho anh chàng tội nghiệp này lòng can đảm để anh ta giữ lời hữa. Và màu hồng có vẻ lạ lùng. Trụ sở của Nhà xuất bản Tháng Mười nằm tại đường Bolchaia Bronnaia ở trung tâm thành phố Matxcơva, trước kia là một ngôi trường cũ được xây cất từ đầu thế kỷ, với những cửa sổ lớn và một mặt tiền bằng thạch cao, năm nay được sơn lại màu hồng nhạt. Trên tấm ảnh màu này đã chuyển thành màu cam rực rỡ, chắc là vì có những tia mặt trời đỏ chói chiếu vào. Do đó, quanh đầu của Barley và Zapadny có một vòng hào quanh đỏ thắm và sáng lên một cách lạ lùng. Một trong những người trinh sát đi vào tiền sảnh với lý do đến quầy giải khát, để tìm cách chụp hình cảnh tượng ấy dưới một góc độ khác, nhưng không chụp được, vì có một người đàn ông cao lớn đứng che tầm nhìn của anh ta. Barley trở về khách sạn của mình. Ở đó ông uống một ly rượu với một nhóm bạn bè đều là những nhà xuất bản, trong đó có Henziger. Henziger đã khẳng định rằng Barley không say rượu, trái lại ông ta rất bình tĩnh và có vẻ trầm tư. Điều ấy làm cho êkíp ở Luân Đôn cảm thấy nhẹ nhõm. Vào lúc bảy giờ tối, Barley kêu đói bụng. Henziger và Wicklow dẫn ông ta đến nhà hàng Nhật Bản cùng với hai thiếu nữ xinh đẹp làm việc cho Nhà xuất bản Simon and Schuster. Trong bữa ăn tối, Barley tỏ ra hấp dẫn đến nỗi hai cô gái này mới ông ta tháp tùng họ đến nhà hàng National, nơi đó một nhóm nhà xuất bản Mỹ có tổ chức một cuộc tiếp tân, Barley trả lời rằng ông ta có một cuộc gặp mặt đã hẹn trước rồi. Đúng 20 giờ theo đồng hồ của Wicklow, có người muốn gặp Barley nơi máy điện thoại của nhà hàng và Barley đến bắt máy chỉ cách bàn ăn chưa đầy năm mét. Wicklow và Henziger dỏng tai nghe, theo phản xạ nghề nghiệp. Bây giờ Wicklow nhớ lúc đó đã nghe: “Đó là tất cả những gì đáng kể”, và Henziger tin rằng lúc đó đã hiểu “đồng ý” hay “không đồng ý”, hay ngay cả “còn chưa đồng ý”. ... Mời các bạn đón đọc Đợi Chờ của tác giả John Le Carré.
Đam Mê và Thù Hận - James H. Chase
Clive Thurston là một kịch bản gia khó tính và nhẫn tâm tại Hollywood. Danh tiếng của gã có được là nhờ tác phẩm của một người khác - một người không còn sống. Gã luôn nghĩ rằng những bí mật của gã được dấu kín - nhưng rồi gã gặp Eve. *** James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thù Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Clive Thurston là một nhà văn tại Hollywood. Danh tiếng của gã có được là nhờ tác phẩm của một người khác - một người không còn sống. Gã luôn nghĩ rằng những bí mật của gã được dấu kín - nhưng rồi gã gặp Eve. Trước khi kể cho các bạn nghe câu chuyện về những mối liên hệ của tôi với Eva, thì đầu tiên, tôi cần phải nói chút ít về chính bản thân tôi cũng như những biến cố đã đưa đẩy đến lần gặp gỡ ban đầu của chúng tôi. Nếu một thay đổi bất thường không nảy sinh trong cuộc đời tôi vào thời điểm mà tôi cam tâm chấp nhận cuộc sống tầm thường của một nhân viên văn thư trong một xưởng làm đồ hộp thì hẳn là tôi không bao giờ gặp gỡ Eva, và do vậy, có lẽ tôi đã không bị lôi cuốn vào một cuộc phiêu lưu mà cuối cùng nó đã làm hỏng cuộc đời tôi. Dẫu rằng hiện tại đã hơn hai năm trời tôi không còn gặp Eva nữa, nhưng chỉ cần nghĩ về nàng là đủ để tôi cảm nhận lại niềm ham muốn khôn nguôi, và cái nhu cầu chế ngự nàng đó đã ràng buộc nàng với tôi trong một thời kỳ mà lẽ ra tôi cần phải dành tất cả sự chú tâm và nghị lực của mình cho công việc. Nghề nghiệp hiện tại của tôi không mấy quan trọng. Không ai biết tôi ở cái thành phố cảng nhỏ bé bên bờ Thái Bình Dương này, nơi tôi đã đến gần hai năm nay, sau khi cuối cùng đã hiểu ra sự điên rồ và hão huyền của cái ảo tưởng mà tôi từng theo đuổi. Không còn là vấn đề của hiện tại hay tương lai chi cả, chỉ còn là của quá khứ mà thôi. Dù cho nóng lòng mong muốn giới thiệu Eva cùng các bạn, nhưng như tôi đã nói, cần thiết phải cung cấp cho bạn một vài chi tiết của chính bản thân tôi. Tôi tên là Clive Thurston. Có thể các bạn đã từng nghe nói về tôi. Tôi được xem như là tác giả của vở Cơn mưa ngập ngừng, vở kịch này đã gặt hái bao nhiêu là thành công. Và dù cho thật sự tôi không phải là tác giả của nó, tôi vẫn cứ viết thêm ba tiểu thuyết và trong thể tài đó, chúng lại vẫn thành công. Trước khi vở Cơn mưa ngập ngừng xuất hiện trên sân khấu, tôi chẳng là gì cả. Tôi ở một căn nhà cho thuê có sẵn đồ đạc gần xưởng máy nơi tôi làm việc, và cho đến ngày mà John Coulson dời đến ở, tôi đã sống một cuộc đời vô vị và không tham vọng, giống như hàng trăm ngàn người trẻ tuổi sẽ vẫn tiếp tục trong hai mươi năm trời cùng một công việc mà đang làm hôm nay. Nhưng cho dù cô độc và đơn điệu, tôi vẫn chấp nhận cuộc sống đó với một sự cam chịu vô cảm. Tôi không thấy bất kỳ khả năng nào thoát ra khỏi cái thói quen đã thành nếp khiến tôi thức dậy vào buổi sáng, đi làm việc, dùng những thức ăn rẻ tiền, khiến tôi tự hỏi liệu có thể trả giá thứ này thứ kia hay không, và khiến tôi thỉnh thoảng ghé đến một người đàn bà mỗi khi tôi khấm khá tiền bạc. Như thế cho đến khi tôi gặp John Coulson. Dẫu rằng chỉ sau cái chết của anh tôi mới gặp vận may và đã nắm lấy nó. John Coulson tự biết mình khó qua khỏi. Từ ba năm nay chống chọi với bệnh lao, sức lực của anh đã cạn kiệt. Như một con thú ẩn mình chờ chết, anh đã đoạn giao với bạn bè và cắt đứt mọi mối liên hệ, và dời đến căn phòng tồi tàn ở Long Beach này. Tôi không rõ lắm điều gì đã hấp dẫn tôi đến với anh, về phần mình, anh tỏ ra khá mong mỏi được chia sẻ tình bạn với tôi. Có thể bởi vì anh viết văn. Thâm tâm tôi từ lâu cũng đã có ý định viết lách, nhưng điều này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực mà tôi thì hay thối chí. Tôi tin chắc rằng chỉ cần tôi có thể khởi đầu thôi, thì tài năng mà tôi cảm nhận được trong tôi cũng đáng giá với vinh quang và của cải cho tôi lắm. Có lẽ tôi không phải là cá biệt trong trường hợp này, và như những người cùng loại, tôi thiếu trước nhất là ý chí. Một hôm, John Coulson thổ lộ với tôi rằng anh đã viết một vở kịch mà anh đánh giá là vở hay nhất anh đã viết. Tôi bao giờ cũng nghe anh với niềm thích thú và thế là tôi hiểu ra vô số những gì có thể mang lại sự thành công cho một vở diễn. Hai ngày trước khi chết, anh yêu cầu tôi gởi vở kịch này cho người đại diện văn học của anh. Anh đã vượt quá khả năng ngồi dậy và tự mình không thể làm được chuyện gì ra hồn nữa cả. ... Mời các bạn đón đọc Đam Mê và Thù Hận của tác giả James H. Chase.