Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điểm Đến Của Cuộc Đời
Điểm đến của cuộc đời kể lại một hành trình không thể nào quên cùng những người cận tử. Dấn thân vào “một thế giới của những bi kịch và tổn thất khổng lồ, của phẩm giá và lòng tự trọng trong hoàn cảnh khắc nghiệt, của sự phản bội và sợ hãi, của tình yêu mãnh liệt và hy vọng khôn nguôi, tóm lại, của tất cả những gì thuộc về con người, ở mức độ dữ dội nhất”, tác giả muốn đi tìm câu trả lời cho thôi thúc nội tâm: ta nên ứng xử thế nào trước cái chết, và sự chết có thể dạy ta điều gì cho cuộc sống? Kỳ lạ thay, những số phận được kể trong cuốn sách, dù đang ở tầng bậc tột cùng của nỗi đau đớn, lại cho thấy những điều đẹp đẽ đến mức khiến ta nghẹn ngào: bản lĩnh để đi qua bi kịch khó diễn đạt bằng lời, thái độ bình tĩnh của con người tự do trước cái chết, khao khát làm việc có ích, trỗi dậy vào những ngày tháng cuối cùng. Đồng hành với họ, ta thấy biết ơn, hạnh phúc và giàu có. Gấp lại cuốn sách, ta có thể được rất nhiều: một nhận thức thấm thía về sự hữu hạn của con người, một thái độ điềm tĩnh trước điểm kết, lòng trân trọng cuộc sống, để từ đó bắt đầu rời xa những phù phiếm ồn ào, sắp xếp lại các ưu tiên, tập trung vào những điều cốt lõi khiến cuộc sống có ý nghĩa. Một hành trình dũng cảm. Một cuốn sách tràn đầy tính nhân văn và và sức lay động tâm hồn. *** Cách đây vài hôm, bạn tôi có đăng trên mạng xã hội dòng trạng thái: “Bạn còn trẻ và bạn có một trái tim lương thiện, bạn còn sợ điều chi?”. Lúc ấy nảy lên trong đầu tôi là câu: “Sợ chết!”. Không phải bi quan khi nghĩ như vậy đâu, cái chết là điều không ai có thể tránh khỏi, mà sai lầm của tuổi trẻ là cảm giác mình-bất-tử. “Sợ” không phải để rụt mình vào vỏ ốc tự xây, sợ để nhận thức rằng mình hay người thân yêu – ai rồi cũng sẽ trở về với cát bụi, sợ để thấy được sự quý giá từ những thứ nhỏ nhoi trong cuộc đời này. Giá trị của cái chết là nó giục giã chúng ta sống một cuộc sống có ý thức. Kẻ nào dám nhìn thẳng vào cái chết, kẻ ấy sẽ biết sống “Điểm đến của cuộc đời” là cuốn sách mà bạn có thể biết được khái quát nội dung ngay từ bìa trước, thậm chí không cần đọc lời bạt ở bìa sau, rất rõ ràng: Đồng hành với người cận tử và những bài học cho cuộc sống. Còn đồng hành như thế nào và bài học gì thì phải đọc hết cuốn sách mới biết được! Tôi bắt đầu đọc quyển này từ ngày cuối cùng của năm ngoái, và kết thúc trong những ngày còn “mồng” của tháng giêng năm nay. Tết mà đọc về cái chết thì có nên không? Ồ, nên chứ! Bởi đó là dịp chúng ta nhận ra rằng thời gian sống lại ngắn thêm một chút nữa. Câu chuyện của chị Hà và Nam, của chị Ánh, của Hùng, của Liên và của Vân mà tác giả Đặng Hoàng Giang ghi lại chỉ là cuộc đời của một vài trong số rất nhiều số phận ngoài kia – những con người đang sống, đang chết và đã chết, trong đó có tôi, có chúng ta… Xa lạ và quen thuộc như vậy. Điểm sáng là qua cuộc song hành cùng những người cận tử ấy, tác giả gợi lên những điều mà xưa nay con người ta vốn nhầm tưởng. Một là, xã hội thường ca ngợi kiểu anh hùng “chữa chạy tới hơi thở cuối cùng”, nhưng chúng ta cũng cần ca ngợi một kiểu người hùng gọi là “buông bỏ”. “Nhiều gia đình không hình dung được có gì tệ hơn cái chết của người thân. Nhưng có điều tệ hơn, đó là cái chết tồi tệ, chết trong đau đớn, hành hạ, với đầy dây dợ, máy móc trên người.” Ira Byock – bác sĩ Mỹ và là tác giả cuốn “Chết thanh thản: Viễn cảnh phát triển lúc cuối đời”, viết. Hãy đọc câu chuyện của chị Hà và bé Nam, người mẹ trẻ ấy bảo rằng “Với em khi bác sĩ bảo dừng thì em ok. Cái bệnh của cháu đến cả thế giới còn chưa có biện pháp. Lúc bác sĩ nói thì em hiểu luôn là số trời đã định rồi.” Để rồi bạn sẽ chẳng bao giờ giận chị vì khúc mắc tại sao không cầu xin bác sĩ cố gắng thêm với ước mong kỳ tích, rồi bạn sẽ phải rơi nước mắt về những điều sau đấy, về buông bỏ nhưng không buông xuôi. Để biết được rằng “chữa chạy tới hơi thở cuối cùng” không phải là cách duy nhất để bày tỏ lòng yêu thương, trách nhiệm, hay ý thức về đạo lý, bởi nhiều lúc nó chỉ xoa dịu được lòng người sống chứ không phải ý muốn thực sự của bệnh nhân. Người sống mấy ai hiểu được rằng, cái đau làm người ta không biết trốn đi đâu được, nhiều người sợ đau hơn sợ chết. Hai là, quan niệm về hiến tạng đối với nhiều người còn khá là bảo thủ, với suy nghĩ rằng chết thì phải toàn thây, nguyên vẹn. Mà suy nghĩ ấy, lại đa phần là đến từ thân nhân của người muốn hiến tạng. Tôi nhớ như in cái câu “Đau xót lắm, chú ạ.” mà mẹ chị Vân nói với chú Giang. Vâng, vẫn là cán cân muôn thuở giữa cái đau trong lòng người sống và ước nguyện cuối cùng của một số phận sắp từ giã cõi đời. Nói cho cùng thì cơ thể ta ư, nó là cái gì? Nó chỉ là một cái bao tải bằng da đựng một đống bùng nhùng mà thôi. Trong “Kinh Bốn Lĩnh Vực Quán Niệm” (Satippatthana Sutta – Kinh Tứ Niệm Xứ) do thiền sư Thích Nhất Hạnh dịch, có đoạn: “Lại ví như khi thấy một xác chết bị liệng vào bãi tha ma, đã được một ngày, hai ngày hoặc ba ngày, sình lên, xanh lại, thối nát ra, vị khất sĩ quán chiếu sự thật ấy vào chính mình: ‘Chính thân thể ta đây cũng vậy, cũng sẽ trở thành như thế, không có lối nào tránh thoát.’ ” Vậy thì tại sao không để một phần trong ta sống trong hình hài khác, cứu sống sinh linh khác, mang đến niềm vui và hạnh phúc cho gia đình khác, khi mà lỡ như ta có gì đó bất trắc? Đầu năm 2019, nền y học Việt Nam tôn vinh anh Dương Hồng Quý – người hiến 7 mô tạng, cứu sống 6 người. Mẹ của bệnh nhân nhi được anh Quý hiến phổi bày tỏ: “Hiến tạng là một nghĩa cử nhân văn cao đẹp. Chồng chị ấy giờ đang sống trong thân thể con tôi, đúng là sự kỳ diệu của y học.” Tôi thực sự hi vọng, ngày mình cầm tờ giấy hiến tạng của bản thân, với vai trò là người làm chứng – người thân của tôi sẽ thoải mái ký tên. Cái chết là một điều gì đó thật kỳ lạ, thật bí ẩn, thiêng liêng. Cái nôi lật ngược thì thành nấm mồ. Có lẽ sinh và tử cùng bản chất, đều là những hiện tượng vĩnh hằng của thiên nhiên? Đứng trước chúng, chúng ta thấy khiêm nhường. Ta không thể làm gì khác, chỉ có thể ngắm chúng và ngợi ca Tạo hóa. Khép lại Điểm Đến Của Cuộc Đời, tôi cũng chỉ nguyện cầu như lời tác giả: “Mong tất cả chúng ta có một cuộc sống an lành và một cái chết thanh thản.” (Bùi Mỹ Duyên review) *** Người ta không có tự do để khước từ bất hạnh hay chạy trốn khỏi bi kịch, nhưng có tự do chọn lựa thái độ của mình trước những gì xảy ra. Viktor Frankl, nhà tâm lý học người Áo, đúc kết từ trải nghiệm sống của ông qua những năm tháng khủng khiếp trong trại tập trung của phát xít Đức. Tôi có thể chuẩn bị cho mình dể đối diện với bi kịch khi nó xảy ra như thế nào, tôi làm gì để có thể vượt qua nỗi sợ bệnh tật và chia ly, khi nó xảy ra với người thân, và khi nó xảy ra với chính mình, đó là những câu hỏi tôi dặt cho bản thân. Nhiều người không muốn nói tới cái chết, dường như hy vọng rằng không nhắc tới nó thì nó sẽ quên ta đi. Tôi muốn chọn một cách tiếp cận ngược lại. Tôi muốn lấy khỏi cái chết sự lạ lẩm của nó, muốn nhìn thẳng vào nó, để làm quen, và cuối cùng, chấp nhận nó, sống với nó một cách bình thản. Đó là lý do tôi tìm tới những người cận tử, và xin phép họ cho tôi đi cùng trong những ngày tháng cuối cùng của đời họ. Ý thức về cái chết trước mặt khiến tôi ý thức rõ ràng hơn về thời gian tôi còn có trong tay, về những may mắn mà tôi đang được hưởng, về vẻ đẹp của vũ trụ. Tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đối mặt và suy ngẫm vổ cái chết khiến tôi trân trọng cuộc sống hơn, sống có chánh niệm hơn, loại bỏ dễ dàng hơn những điều phù phiếm, tầm phào, và tập trung vào những điều quan trọng với tôi. “Khi cuối cùng chúng ta biết là chúng ta sẽ chết, và mọi sinh linh khác cũng sẽ chết cùng ta, ta bắt đầu có một cảm giác cháy bỏng, gần như khiến trái tim thổn thức, rằng mọi khoảnh khắc mới mong manh và quý báu làm sao,” thiền sư Sogyal Rinpoche viết trong cuốn Tạng thư sóng chết. “Và từ cảm giác đó, trỗi dậy một lòng trắc ấn sâu sắc, sáng tỏ và vô hạn, hướng tới vạn vật.” Sau khi tôi gần gũi với những người gần đất xa trời và người thân của họ, những dòng trên không hiện ra như những câu lý thuyết trừu tượng hay khô khan nữa. Những người cận tử mà tôi đã gặp, nhiều người ở thời điểm này đã qua đời, đã xác nhận bằng cách giản dị mà sâu sác nhất điều mà Rinpoche viết. Tôi hy vọng những trải nghiêm của họ sẽ phần nào giúp cho độc giả sống một cuộc sống có ý nghĩa và an lạc, như là họ đã giúp tôi. *** Tiến sĩ Đặng Hoàng Giang là chuyên gia phát triển, nhà hoạt động xã hội và tác giả chính luận. Các hoạt động nghiên cứu và vận động chính sách của anh nhằm nâng cao chất lượng quản trị quốc gia, minh bạch và tiếng nói của người dân. Anh nỗ lực mở rộng không gian xã hội dân sự, truyền bá tri thức, phá bỏ định kiến và kỳ thị, và xây dựng một xã hội khoan dung và trắc ẩn. Đặng Hoàng Giang tốt nghiệp kỹ sư tin học tại Đại học Công nghệ Ilmenau, Đức, và có bằng tiến sĩ kinh tế phát triền của Đại học Công nghệ Vienna, Áo. Anh hiện sống và làm việc tại Việt Nam. Anh cũng là tác giả của các cuốn sách Bức xúc không làm ta vô can và Thiện, Ác và Smartphone cùng nhiều bài viết có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội. https://www.facebook.com/giangdang.9469 Mời các bạn đón đọc Điểm Đến Của Cuộc Đời của tác giả Đặng Hoàng Giang.
Để Thành Công Trong Cuộc Sống - Thư Gửi Con Trai Của Cha
Khi đọc cuốn sách “Để thành công trong cuộc sống – Thư gửi con trai của cha” của bá tước Earl Chesterfield (1694 – 1773), ta dễ lên tưởng tới những bức thư trong cuốn “Những tấm lòng cao cả” của Edmondo De Amicis. Bởi hình thức cuốn sách chính là những bức thư đầy tình cảm nhưng rất nghiêm khắc để dạy bảo con trai về những đạo lý trong cuộc sống. Đây là cuốn sách có quyền năng kỳ diệu đã tồn tại hơn 200 năm của bá tước Chesterfield với những lời rất tâm huyết gửi cho con trai về những bài học thành công trong cuộc sống, về sự nhạy bén, dám đối đầu với thử thách và sự cố gắng không ngừng trong cuộc đời sẽ giúp bạn có được hạnh phúc lâu dài trong cuộc đời này. Bá tước Earl Chesterfield là một nhà chính trị, nhà ngoại giao và còn là nhà văn nổi tiếng nước Anh. Con trai ông cũng đã trở thành một nhà ngoại giao tài giỏi sau này. Đó có lẽ chính là nhờ những bức thư mang đầy tấm lòng người cha này. *** Con thân yêu! Bây giờ chính là lúc con cần nghiêm túc xây dựng nền tảng vững chắc cho cuộc đời, nếu con biết sử dụng trọn vẹn quãng thời gian này, đồng thời phát huy hết ý nghĩa của nó thì sự tích góp trong giai đoạn mấu chốt này sẽ mang tới cho con nhiều lợi ích trong tương lai, những điều con nhận lại được sẽ lớn hơn những điều con tưởng tượng. Cha muốn con biết nhiều điều, nhưng tất cả những điều đó không quan trọng bằng điều cha sẽ nói nói với con lúc này. Đó là thời gian vô cùng quý giá và phải biết cách sử dụng nó một cách hiệu quả. Rất nhiều người đều nói thời gian là vàng là bạc nhưng những người hiểu thời gian quý hơn vàng và trân trọng thời gian lại không nhiều, và những người làm được điều đó ngày một ít. Có rất nhiều câu ngạn ngữ nói về thời gian, cho dù là người thờ ơ nhất với sự trôi qua của thời gian vẫn có thể nói được những câu như: “Thời gian như nước cuốn trôi, một đi không trở lại”. Cha nghĩ phải đợi đến khi họ lãng phí thời gian một cách vô ích, lúc đó họ mới hiểu được tầm quan trọng của thời gian và họ sẽ phải thốt lên những lời kêu than. Với bất cứ ai, việc nói một hai câu ngạn ngữ hay danh ngôn về thời gian là điều không khó; cũng như thế, đôi khi con người ta cảm thấy sự gấp gáp của thời gian, việc ấy cũng không có gì là kì lạ, bởi cho dù con người đi tới bất cứ nơi đâu, thì những chiếc đồng hồ treo trên những tòa nhà to lớn đều gióng lên những âm thanh “tích tắc, tích tắc”, mỗi giờ mỗi giây đều nhắc nhở chúng ta rằng: “Thời gian đang trôi đi mà không chờ đợi ai!”. Thế nên việc học thuộc những câu ngạn ngữ, những lời răn dạy về thời gian là không đủ, nếu một người không biết tự mình trải nghiệm thì sẽ không thể hiểu được ý nghĩa thực sự của thời gian và càng không biết sử dụng thời gian thế nào cho hiệu quả. Theo kinh nghiệm của cha, để biết được ai đó hiểu thế nào về tầm quan trọng của thời gian thì chúng ta có thể nhìn vào cách anh ta sử dụng thời gian. Hiểu tầm quan trọng của thời gian sẽ có ảnh hưởng chặt chẽ đến con đường tương lai của anh ta. Cuộc sống của hai người, một là người biết sử dụng hiệu quả thời gian, hai là người không ý thức được sự trôi qua của thời gian khác nhau một trời một vực. Ở đầu thư cha đã nhắc tới rất nhiều câu danh ngôn, ngạn ngữ nên giờ đây cha không muốn nói quá nhiều, cha chỉ muốn nhắc nhở con về quãng thời gian có ảnh hưởng lớn nhất tới cuộc đời sau này của con - những điều con nên làm một vài năm trước khi con bước vào tuổi trưởng thành. Đầu tiên, bước vào tuổi mười tám con cần tích lũy cho mình một nền tảng kiến thức vững chắc, theo kinh nghiệm của cha, ở tuổi này nếu con không chuẩn bị kiến thức thì cho dù kế hoạch tương lai của con có tốt thế nào cũng khó thực hiện. Đến khi con lớn hơn một chút, kiến thức sẽ trở thành bến đỗ nghỉ ngơi, là nơi tĩnh dưỡng sau những tháng ngày lao động vất vả. Bởi thế cha không thể không chân thành nhắc nhở con rằng: “Bây giờ lãng phí một phút, tương lai con sẽ hối hận một đời”. Khi cha đã đi gần hết con đường đời, quay đầu nhìn lại những điều được mất, cảm xúc lớn nhất của cha là: chính bởi cha tự mình hạ quyết tâm và kiên quyết gạt bỏ những tác động của thế giới bên ngoài để chuyên tâm đắm mình trong thú vui đọc sách nên cha mới có được ngày hôm nay. Điều làm cha vui hơn cả là khi ở tuổi như con bây giờ cha không có thời gian nhàn rỗi vô ích, cha đã từng dốc sức cố gắng hết mình! Đương nhiên không phải là cha không có chút nuối tiếc nào, cha tiếc rằng nếu khi đó cha nỗ lực hơn một chút thì bây giờ cảm giác thỏa mãn sẽ càng lớn hơn. Tựu trung lại, sự chăm chỉ và vượt khó trong học tập khi ấy của cha đã giúp cha có được niềm vui tách mình khỏi thế giới bên ngoài và thói quen đó cũng khiến cha cảm thấy thoải mái suốt đời này. Cha rất hi vọng con cũng sẽ có niềm vui giống như cha, sau này khi đến tuổi nghỉ hưu con cũng được sống trong không khí của sách vở. Những năm tháng tuổi trẻ chúng ta tích luỹ kiến thức giống như những chú ong chăm chỉ làm mật ngọt là điều đúng đắn, nhưng điều này không có nghĩa vui chơi giải trí là lãng phí thời gian. Giải trí có thể thỏa mãn nhu cầu vui chơi của những người trẻ tuổi, giúp tăng ước mơ khát vọng, đạt được mục tiêu quan trọng trong cuộc sống. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng vui chơi giải trí cũng là một hoạt động làm cho tinh thần sảng khoái. Khi cha còn trẻ cha cũng đã từng vui chơi hết mình, chính nhờ trải nghiệm này cha mới hiểu được những điều mình muốn. Nếu khi đó cha thiếu trải nghiệm qua những cuộc vui, không có được những cảm giác như thế thì giờ đây chắc có lẽ cha vẫn coi việc vui chơi giải trí là điều quan trọng nhất - con người ai cũng cảm thấy hứng thú đối với những điều mới lạ. Ngày hôm nay cha hồi tưởng về những điều đã qua nhưng cha không cảm thấy nuối tiếc bởi bản thân cha đã hiểu được những điều thú vị trong vui chơi giải trí và qua đó cha hiểu ý nghĩa công việc hơn bất cứ người nào khác. Cha thấy rằng những người chỉ chú ý đến bề ngoài của công việc thường hay nghĩ rằng vùi đầu vào công việc là điều thú vị, từ đó nảy sinh tâm lý nóng lòng muốn thử. Trên thực tế, sau khi bắt tay vào làm, con mới hiểu được ý nghĩa công việc là gì. May mắn là cả trong công việc và giải trí cha đều rất thông thạo, mọi người xung quanh thấy cha hiểu công việc và hiểu cuộc vui như vậy đều rất ngạc nhiên và khâm phục, họ cho rằng có lẽ trong đời này cha sẽ không còn điều gì phải nuối tiếc. Nhưng thật ra cũng không hẳn như thế, sự thực chỉ có cha mới hiểu rõ nhất. Nếu muốn nói cuộc đời này còn điều gì làm cha phải nuối tiếc thì đó là những ngày tháng sống không mục đích khi cha còn trẻ, cha đã lãng phí quãng thời gian quý giá ấy. Đối với con hai năm tới đây sẽ là khoảng thời gian vô cùng quan trọng, bởi thế cha phải nhắc lại với con rằng: hãy biết tận dụng quãng thời gian này, để biến nó trở nên có ý nghĩa. Nếu con vứt bỏ cái tôi cá nhân, không phấn đấu vươn lên thì thứ con mất không chỉ là thời gian. Con còn làm giảm đi lượng kiến thức tích luỹ được, thiếu kinh nghiệm sống là tổn thất to lớn. Ngược lại, nếu con biết nắm bắt và sử dụng tốt quãng thời gian ấy, biến nó thành giá trị tích lũy thì sau này con có thể nhận được thành quả hậu hĩnh. Hai năm đó sẽ là thời kỳ hoàng kim để con củng cố kiến thức đã học được, chỉ cần con nắm bắt bắt được quãng thời gian này, tích lũy nền tảng kiến thức vững chắc thì sau này bất cứ lúc nào con cũng có thể sử dụng những kiến thức mà con tích lũy được. Khi nhận ra sự nghèo nàn kiến thức, con có thể tự học hỏi để tích lũy thêm những kiến thức mới trên nền tảng cũ. Nếu hiện tại con không chịu củng cố kiến thức thì trong tương lai con muốn sử dụng chúng sẽ không còn kịp nữa. Cha không muốn thấy con sau này bước vào đời lại nhận được lời răn dạy của người khác rằng: “Bạn cần phải đọc thêm sách”. Tới khi đó con mới nghiên cứu sách vở thì con đã không còn nhiều thời gian đẹp đẽ như vậy. Hơn nữa, cho dù có thời gian con cũng không thể giống như trước kia, chỉ đọc sách và sống. Vẫn còn một điều nữa mà cha muốn nói với con. Nếu lúc còn trẻ con không xây dựng tốt nền tảng học vấn thì khi trưởng thành con sẽ trở thành một chàng trai thiếu sức hấp dẫn, một người vô vị nhạt nhẽo. Con thân yêu! Cha nói với con nhiều điều như thế nhưng mục đích của cha chỉ có một, đó là hi vọng con biết sử dụng tốt quãng thời gian mà con đang có. Bởi đây chính là quãng thời gian tốt nhất để con phấn đấu, tiến bộ, không ai có thể làm phiền tới con, con có thể toàn tâm toàn ý đắm mình trong niềm vui cùng sách vở. Cha biết đôi khi con thấy chán nản với việc đọc sách, cha không có cách nào để giải quyết vấn đề này giúp con, cha chỉ có thể nói với con rằng: “Khi tâm trạng không tốt, con nên nghĩ đây là con đường duy nhất mà con phải đi, nếu bây giờ con chăm chỉ một giờ con có thể rút ngắn quãng đường đi tới mục đích sớm hơn một giờ”. Vậy thì con có thể sớm có sự tự do hay không? Điều này có quan hệ mật thiết với việc con sử dụng thời gian như thế nào. Nhiệm vụ quan trọng duy nhất của con lúc này là phải hoàn thiện bản thân. Mời các bạn đón đọc Để Thành Công Trong Cuộc Sống - Thư Gửi Con Trai Của Cha của tác giả Earl Chesterfield.
Người Đi Tìm Tặng Vật Của Biển
Có bao giờ bạn ngồi một mình trước biển, lặng ngắm những con sóng thay nhau vỗ bờ và xa xa là những cánh hải âu chập chờn trên sóng? Hay có bao giờ bạn lang thang một mình bên bờ biển, nhìn những dấu chân mình in hằn trên cát và tự hỏi về ý nghĩa thực sự của cuộc đời? Nếu đã một lần lắng lòng trước biển, hẳn bạn cũng nhận thấy rằng, không nơi nào diệu kỳ như biển. Con người thường tìm về với biển như một cách trốn chạy khỏi cuộc sống xô bồ và nhộn nhịp, để thấy lòng mình thanh thản sau nhiều ngày tháng bôn ba. Và đứng trước biển, mỗi người lại có một cảm nhận khác nhau. Biển, sự mâu thuẫn giữa ồn ào và lặng lẽ, dữ dội và dịu êm, cuồng nộ và bao dung. Biển có thể khiến người ta nếm trải tận cùng đau khổ khi mất đi người thân trong những cơn bão tố, nhưng cũng chính biển chữa lành những nỗi đau ấy bằng tình yêu thương rộng lớn của mình. Khi đến với biển, mỗi người đều cảm nhận được sự nhỏ bé của bản thân, sự vô thường của cuộc sống, để rồi nhận được sự vỗ về trong tĩnh lặng của biển mà hàn gắn những tổn thương… Richard Bode đã từng được bạn đọc yêu thích với cuốn sách “Biển cả và những giá trị cuộc sống”. Cuốn sách đã giúp nhiều người tìm thấy những bài học bổ ích về cách nuôi dưỡng ước mơ cũng như lựa chọn cho mình một hướng đi thích hợp. Trong cuốn Người đi tìm tặng vật biển khơi này, với óc quan sát cùng những cảm nhận tinh tế trước cuộc đời và biển cả, Richard Bode mang đến một thông điệp thật sâu sắc: Trước sự mênh mông của biển, con người thường thấy mình bé nhỏ và đơn độc. Nhưng cũng chính nơi ấy, giữa những cơn thủy triều đều đặn lên xuống và giữa những con sóng ào ạt xô bờ, ta sẽ tìm thấy giá trị đích thực của cuộc sống. Tặng vật mà chúng ta nhận được từ biển không chỉ là những chú ốc, những vỏ sò hay tất cả những gì thuộc về vật chất hữu hình. Có một tặng vật ý nghĩa hơn, quan trọng hơn, vô hình, nhưng là vô giá. Đó là sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Bằng trái tim đa cảm và ngòi bút tinh tế, Richard Bode mang đến cho chúng ta những cảm nghĩ nhẹ nhàng mà lắng đọng. Thành công – Thất bại, Yêu thương – Hờn oán, Sự sống – Cái chết…, tất cả đều được tác giả đề cập và nhìn nhận bằng một quan điểm riêng, khác lạ nhưng thật thuyết phục. Cuộc sống là một hành trình dài tìm kiếm và khám phá những điều mới mẻ, thú vị. Có rất nhiều con đường để chúng ta lựa chọn nhằm chạm khắc tên mình vào cuộc sống. Chạy đua để suốt đời tất bật hay chậm rãi chiêm nghiệm những giá trị vĩnh hằng của cuộc sống phụ thuộc vào sự chọn lựa của mỗi người. Sống thật với lòng mình hay hóa trang thành một con người khác cũng tùy thuộc vào quyết định của chúng ta. Nhưng khi đi hết hành trình đời mình, ngoảnh đầu nhìn lại, chúng ta có phải hối tiếc về những lựa chọn của mình hay không, đó mới thật sự là điều quan trọng. Thế giới trong quyển sách này là nội tâm của chúng ta trong những sớm bình minh, những chiều hoàng hôn lặng ngắm mặt trời hay những đêm nằm nghe sóng dội vào bờ, thả hồn vào bầu trời bạt ngàn sao và chênh chếch ánh trăng. Và giữa thế giới bao la rộng lớn ấy, bạn sẽ tìm thấy và nhận biết đâu là “cuộc sống thực” của mình. - First News *** Một năm qua, dấu chân tôi đã in hằn trên những bãi cát dài ở Miramar. Trong suốt thời gian ấy, có nhiều người bảo với tôi rằng họ cũng muốn trở thành một kẻ lang thang dọc các bờ cát để tìm kiếm, nhặt nhạnh những tặng vật của biển như tôi. Có lẽ họ cho rằng đó là một công việc dễ dàng nhất, chỉ cần bước ra biển với một chiếc quần dài bằng vải thô trắng xắn lên tận gối, một áo sơ mi xanh bạc màu, một chiếc mũ rơm che nắng là đủ. Và vài người trong số họ đã không ngần ngại chọn cho mình những bộ cánh đắt tiền trong những cửa hàng sang trọng, như thể họ cho rằng bộ cánh sẽ làm họ trở thành người sưu tập thực thụ. Sau khi đã trang bị đầy đủ, họ hăng hái men theo bờ biển và nhặt nhạnh từng hòn đá, vỏ sò trên bãi cát, mặc cho cái nắng đang thiêu đốt và đôi chân bỏng rộp trong cát. Gặp tôi, họ dừng lại tán gẫu đôi câu; và với thái độ trân trọng đặc biệt, họ cho tôi xem những tặng vật của biển. Thế nhưng không phải ai cũng đủ kiên nhẫn để gắn bó lâu dài với công việc này. Quả thật, công việc tưởng chừng rất đơn giản này yêu cầu những người theo đuổi nó phải có thái độ nghiêm túc và tràn đầy nhiệt tâm. Họ phải cống hiến hết mình cho công việc, luôn trong tư thế sẵn sàng chống chọi với những cơn sóng dữ, hoặc quên đi sự bỏng rát của đôi chân trần dưới ánh nắng trưa gay gắt. Việc được nhìn ngắm những đợt thủy triều lên xuống, những đám rong hay những chú sao biển dễ thương có thể được xem là một trong những yếu tố nuôi dưỡng tâm hồn. Thế nhưng, không phải ai cũng có thể cảm nhận được sự thú vị đó, nên họ thường nhanh chóng cảm thấy chán nản. Tôi không phải là một kẻ thích sưu tầm cũng không phải là một họa sĩ dù trước đây tôi đã từng mơ ước những công việc ấy. Tôi đến vùng biển xinh đẹp này chỉ với mục đích tìm lại những hình ảnh của tuổi thơ cũng như để trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai?” trong hiện tại. Bố tôi là một họa sĩ vẽ tranh sơn dầu. Lúc còn là một cậu bé chưa đầy sáu tuổi, tôi đã được ông dạy một số những nét cơ bản để vẽ người như: đầu, thân và tay chân. Nhưng tất cả chỉ dừng lại ở đó, bởi ông đã ra đi trước khi kịp dạy tôi bài học tiếp theo. Và cho đến bây giờ, tôi cũng chỉ vẽ được hình người như lúc nhỏ. Cuộc sống với những lo toan đã khiến tôi từ bỏ niềm đam mê của mình. Tôi không theo nghề họa sĩ mà bắt đầu khắc họa cuộc sống của mình bằng những nét vẽ giữa đời thực. Và rồi, một cách tự nhiên, tôi được dẫn dắt đến bãi biển Miramar, như thể tôi là một con hải âu hay mòng biển. Tôi đến nơi này để tìm kiếm tất cả hình ảnh đã khắc sâu trong ký ức tuổi thơ tôi. Cuộc sống là một chuỗi dài những yêu thương, mất mát mà chẳng ai có thể biết trước được. Trên hành trình của cuộc đời mình, tôi chờ đợi tình yêu thương và luôn nâng niu, trân trọng nó. Bởi vì tôi hiểu rằng những điều tốt đẹp mà mình yêu quý cũng có lúc sẽ bị mất đi. Những con sóng nghịch ngợm ở bãi biển Miramar đùa giỡn dưới chân tôi, mang theo một đám rong nhẹ nhàng trườn vào bờ cát. Tôi cho ít nước vào chiếc cốc trên tay mình, giữ cho nó thôi sóng sánh, và chỉ sau một cái búng tay, cái thế giới tĩnh lặng tôi vừa nhìn thấy bỗng chốc vỡ ra. Nhưng trong tâm hồn mình, tôi vẫn nhìn thấy hình ảnh êm đềm trước đây của nó. Trước mặt tôi, một cặp vợ chồng xa lạ đang đẩy đứa con nhỏ trong chiếc xe nôi ba bánh. Đi được một đoạn, họ dừng lại trên bãi biển tập các động tác khởi động. Khi đã sẵn sàng, hai vợ chồng đẩy xe nôi vào một chỗ cát ẩm an toàn rồi bắt đầu chạy về phía tôi. Đầu cúi thấp nhưng ánh mắt họ luôn hướng về phía trước, và dần tăng tốc. Quả thật khi nhìn họ chạy, tôi có cảm giác họ như những vận động viên chuyên nghiệp. Một con quạ bay ngang qua đồi cát, một con sư tử biển trồi lên theo những con sóng lớn vỗ bờ, đôi vợ chồng không hề hay biết. Nhưng đứa trẻ đang nằm trong chiếc xe nôi đã phát hiện ra điều đó và liên tục ngoái đầu nhìn về phía biển. Nó bắt đầu quan sát cuộc sống muôn màu xung quanh mình... Mời các bạn đón đọc Người Đi Tìm Tặng Vật Của Biển của tác giả Richard Bode.
Giá Trị Học
Thật là một ngẫu nhiên hiếm có, một may mắn lớn cho tôi làm một số công việc cuối cùng của cuốn sách này vào các dịp kỉ niệm: - 1000 năm Thăng Long – Hà Nội - 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - 65 năm ngày thành lập nước VNDCCH nay là CHXHCNVN - 56 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ - 35 năm ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Các sự kiện lịch sử trọng đại này rất gắn bó với nhau trong dòng giá trị tinh thần bất diệt của dân tộc. Và mỗi một chúng ta, trong đó có tác giả các dòng chữ này, là một thành phần, đều có quan hệ keo sơn với các giá trị bất hủ của những chiến công thần thánh đem lại cho chúng ta cuộc sống ngày hôm nay. Tác giả cuốn sách xin được bày tỏ lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới Bác Hồ, Đảng và Nhà nước cùng nhân dân Việt Nam và Liên Xô (cũ) đã đào tạo tôi thành một cán bộ khoa học, các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, các bà mẹ anh hùng, các chiến sĩ, nhất là các bạn cùng trang lứa, trong đó có các nhà giáo đi B và các nhà giáo kháng chiến trong vùng địch tạm chiếm, đồng bào đã hy sinh thân mình hoặc một bộ phận thân thể, đã chịu đựng những năm tháng biết bao gian khổ cực kỳ mà ngày nay không thể tưởng tượng nổi, cho nền độc lập, thống nhất Tổ quốc, cuộc sống hoà bình, an vui, hạnh phúc, cho nền giáo dục nhân dân, nền khoa học nước nhà từng bước sánh vai với bạn bè năm châu, bốn biển, như Bác Hồ hằng mong ước. Nước nhà không được như ngày nay, chắc khó có tác phẩm này. Tác giả hy vọng có đóng góp nhỏ, dù chỉ như hạt cát, giữ gìn và phát triển, phát huy các giá trị của dân tộc và con người Việt Nam. Tôi đi từ giáo dục học, tâm lý học đến với giá trị học trong thời điểm nhấn mạnh hơn bao giờ hết đường lối “giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa nhân loại” và cũng là lúc trong xã hội, thang giá trị, định hướng giá trị, thước đo giá trị có những biến động mạnh, những thay đổi lớn lao, thậm chí có chỗ đảo lộn, gây nhiều bức xúc, băn khoăn, lo lắng có khi đến cay đắng, đau lòng từ trong nhà ra ngoài ngõ. Người người, nhà nhà quan tâm đến giáo dục, nhất là giáo dục đạo đức, nhân cách. Cuốn sách này mong được đáp ứng, dù phần nhỏ, vào công việc hết sức trọng đại này của dân tộc. Để làm được việc đó, vì là một công trình khoa học, nên lại phải đi từ ngọn nguồn, dù chưa có điều kiện, cả về thời gian cả về tư liệu, có khi cả trình độ cũng có chỗ hạn chế, thực hiện đến nơi đến chốn, mong bạn đọc thông cảm. Thế là một cuộc hành trình không ít gian nan bắt đầu từ tìm tòi xem ý tưởng “Giá trị con người” có tự bao giờ, ai là tác giả, ý tưởng đó phát triển qua vài mốc chính đến khoa học về giá trị hiện đại, quan tâm nhiều hơn tới hệ giá trị một số nơi trên thế giới – châu Âu, Mỹ, Đông Á, Đông Nam Á – bao gồm những gì và tác dụng của chúng đối với tiến bộ xã hội trở thành văn minh, giàu có - mục đích chính của cuốn sách nhỏ này. Cuộc hành trình muốn đến đích này, lại phải dừng lại một số vấn đề cơ bản, như đối tượng và cơ sở triết học của giá trị học, trải nghiệm là cơ chế tạo lập và vận hành của giá trị và thái độ giá trị. Một điều tác phẩm nhất thiết phải đề cập đến, dù chưa được như mong muốn, là tìm hiểu các giá trị chung của loài người và con người: Tính người, tình người, các giá trị “Chân, Thiện, Mỹ”, giá trị sống còn, giá trị lao động, quan hệ người - người, giá trị trách nhiệm xã hội... Tóm lại, giá trị học trình bày trong tập sách này là bước đi mới ban đầu ở nước ta, gắn bó mật thiết với các khoa học: - Đạo đức học, - Văn hoá chính trị học, - Nghiên cứu con người – Nhân học văn hoá, - Tâm lý học – Tâm lý học giá trị, - Giáo dục học – Giáo dục học giá trị. Nội dung sách này có thể hỗ trợ các khoa học kể ra ở đây. Ngược lại, tri thức của các khoa học này có phần trợ giúp đắc lực cho tiếp thu sách này. Nhưng công trình này không nhằm đơn thuần trình bày một số hiểu biết về giá trị học, mà, như tên gọi cuốn sách, chủ yếu nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận để đúc kết và xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời đại công nghiệp hoá theo hướng hiện đại, mở cửa hội nhập với khu vực, với thế giới (nói gọn: Thời nay). Vạn sự khởi đầu nan, hy vọng, khó khăn ban đầu được khắc phục, công việc sẽ thu được kết quả. Tiếp nối truyền thống dân tộc, từng người, gia đình và cả xã hội... hơn bao giờ hết giáo dục vun xới giá trị bản thân và cộng đồng, nhất là các nhà chức trách, các tổ chức, doanh nghiệp... thực sự trọng dụng, phát huy giá trị của từng con người, để chúng ta có nguồn nhân lực, “vốn người” hoàn toàn đủ sức (trên thực tế chúng ta có đủ tiềm năng, như lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh) đồng thuận, đoàn kết đưa nước ta thành một nước văn hiến phát triển, độc lập, giàu có, dân chủ, an bình, hạnh phúc. Đây cũng là ước muốn của tác giả, như tất cả các bạn. Như trên đã nói, tác phẩm còn xa mới đạt mức hoàn thiện, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chỉ mong sao có bạn đọc và chờ đợi các bạn chỉ giáo những khiếm khuyết. Được vậy, tôi xin vô cùng cảm ơn! Hà Nội những ngày lịch sử năm 2010 TÁC GIẢ *** Bài mục thứ nhất Đi vào nghiên cứu giá trị học: Ý tưởng và triển khai Cuốn sách này viết về Giá trị học là Khoa học về Giá trị. Bài mục này (mục lục sách không theo “Phần...”, “Chương...”, mà theo “Bài mục...”) trình bày “lịch sử” quá trình lao động viết nên công trình này. Trong quá trình viết luận án Tiến sĩ khoa học “Hành vi và hoạt động” ở khoa tâm lý học, trường Đại học Tổng hợp Lômônôsốp (1973-1977), tôi đã quan tâm đến Giá trị học - Khoa học về Giá trị. Nhưng hồi ấy ở Liên xô chưa cho phép trình bày suy nghĩ đó, mãi khi về nước, tại Hội thảo tâm lý học toàn quốc tổ chức năm 1978 tại Nha Trang, trong báo cáo khoa học “Tâm lý học và khoa học nghiên cứu con người” tôi mới có thể trình bày khẳng định: “... tâm lý học phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan...”, coi đó là “nội dung cơ bản của cuộc sống thực, trong đó đời sống người nảy sinh và phát triển...”(1). Khi nghiên cứu Tâm lý học Hành vi ở Mỹ - nơi có nền kinh tế thị trường từ lâu và đã thu được nhiều thành quả phát triển kinh tế rất khả quan - tôi ngày càng thấy rõ việc nghiên cứu tâm lý người trong trường tác động của quy luật giá trị, chính là con đường nghiên cứu tâm lý, như Các Mác đã chỉ ra, của “... những cá nhân hiện thực..., hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ”(2). Tuy nhiên, cuối thập kỷ 70 và suốt thập kỷ 80 thế kỷ trước, tôi được giao một số đề tài nghiên cứu khoa học khác, nên chưa đi vào đề tài giá trị học được, ngoại trừ dịp tôi nhận làm Tổng chủ biên tập sách “Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục” (Viện Khoa học Giáo dục, Bộ Giáo dục, 1981). Khi lập đề cương cho tập sách trên, tôi vẫn đeo đuổi ý tưởng đưa giá trị học vào khoa học giáo dục nên đã giao cho PGS. TS. Trần Tuấn Lộ viết một bài theo hướng này. Rất tiếc bài viết đó lại chủ yếu nói về các giá trị thẩm mỹ. Kể từ sau “Đổi Mới”, Đảng và Nhà nước ta mới quan tâm thực sự thích đáng (cả về lý luận và thực tiễn) đối với quy luật giá trị, được tính đến không phải chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà cả trong nhiều lĩnh vực khác, nhất là đối với con người. Chính sách sử dụng nhân lực đã tạo thêm cơ sở xã hội thôi tôi thúc suy nghĩ tìm cách triển khai ý tưởng nghiên cứu giá trị học. Rất may mắn, những năm 1989 và 1990 tôi được Uỷ ban Khoa học - Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học – Công nghệ) mời tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị một số chương trình nghiên cứu khoa học, rồi tiếp đó làm Chủ nhiệm Chương trình khoa học – công nghệ Nhà nước (KHCN NN) KX-07 “Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” theo tư tưởng ghi trong Cương lĩnh của Đảng ta (1991). Phải nói thêm rằng đây là lần đầu tiên trong khoa học nước nhà có chương trình KHCN NN về con người: Cách tiếp cận mới với “nhân tố con người”, nhấn mạnh vai trò quan trọng của “nhân tố con người”. Với tư cách là Chủ nhiệm chương trình, tôi đề xuất 19 đề tài, được Ban chủ nhiệm chương trình nhất trí thông qua. Trong đó có đề tài về “Nhân cách”(3). Khi triển khai đề tài này cùng với đề tài “Phương pháp luận”, Chương trình đã vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào triển khai; đồng thời, có đề tài nhánh nghiên cứu “Định hướng giá trị nhân cách” và “Giáo dục giá trị” (một đề tài do PGS (nay là GS) TSKH. Thái Duy Tuyên, một đề tài do PGS. (nay là GS.) TS. Nguyễn Quang Uẩn phụ trách(4). Có thể nói, KX – 07 là công tình đầu tiên triển khai ý tưởng đi vào nghiên cứu khoa học về giá trị (giá trị học) ở Việt Nam và đã đạt được một số kết quả ban đầu. Trong đó, đặc biệt, đã nêu lên nhận định khái quát về những biến đổi rất đáng kể trong định hướng giá trị ở thanh niên ta (nhận định này lần đầu tiên được công bố trong sách “Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới”, Phạm Minh Hạc, KX – 07, Hà Nội, 1994) và khẳng định một số giá trị chung của thế giới, như: Hoà bình, Phát triển, Dân chủ... và một số giá trị của dân tộc ta, như: Yêu nước, Cần cù, Hữu nghị... Giai đoạn những năm 2000-2006, theo tư tưởng bên cạnh cột trụ chính trị, cột trụ kinh tế, cột trụ xã hội, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh cột trụ “văn hoá, con người và nguồn nhân lực”. Chương trình KHCN NN “Phát triển văn hoá, con người và nguồn lực trong thời kỳ CNH, HĐH” do tôi làm Chủ nhiệm, có ba mảng: Văn hoá - Con người - Nguồn nhân lực, rất gắn bó với nhau và do đó phải có sự kết nối trong quá trình nghiên cứu. Chương trình đưa ra kết luận: từ giá trị văn hoá đến giá trị con người, cuối cùng ra giá trị nhân lực chứa đựng “lực lượng bản chất của con người” (Các Mác) là một dòng chảy - sức mạnh vô tận quan trọng nhất của nội lực dân tộc. Đây chính là ý nghĩa của giá trị học đối với cuộc sống, cũng như với chính trị học, ngày nay thường gọi là giá trị quan: vận dụng quan điểm giá trị vào văn hoá chính trị. Chương trình có cơ hội vận dụng phương pháp tiếp cận giá trị học vào tâm lý học khi dành hẳn một đề tài nghiên cứu “giá trị nhân cách” theo phương pháp thực nghiệm đang dùng rộng rãi trên thế giới, kết quả phản ảnh trong một tập sách khá dày(5) những số liệu và nhận định rất lý thú, phần nào được giới thiệu ở bài mục Tâm lý học giá trị trong tác phẩm này. Do những kết quả nghiên cứu về con người trong mười năm (1990-2000), nhất là với sự kiện ngày 20 tháng 9 năm 1999, Viện nghiên cứu Con người (NCCN) thuộc Viện Khoa học Xã hội (KHXH) Việt Nam, Dự án Điều tra Giá trị Thế giới (ĐTGTTG) - viết tắt là WVS - đã quyết định kết nạp Việt Nam vào Dự án ĐTGTTG. Với việc tham gia hai đợt điều tra vào năm 2001 và 2006 theo một phương pháp chung, tham gia một số hội thảo quốc tế trong khuôn khổ Dự án (có báo cáo khoa học) và công bố một số kết quả nghiên cứu trên sách và tạp chí quốc tế nên chúng tôi có thêm nhiều thông tin mới để cập nhật hơn về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Nói theo ngôn ngữ thường nhật bây giờ, đề tài của chúng tôi đã “hội nhập” với thế giới. Thực ra, khoa học từ sau thời Cổ đại, đặc biệt từ giữa thiên niên kỷ trước, luôn luôn mang tính quốc tế. Ở ta, khoa học còn mới mẻ, chắc có thể tính từ sau Cách mạng tháng Tám hoặc chính xác hơn từ sau năm 1954. Từ lâu chúng ta đã nói về các giá trị di sản văn hoá - lịch sử - cách mạng, nhưng chủ đề Giá trị học, như trình bày trong sách này, mới được đề cập lần đầu tiên trong thời kì Đổi mới và mãi sang đầu thế kỷ XXI chúng tôi mới có điều kiện bước đầu tìm hiểu lịch sử khoa học này: Năm 2004 công bố bài đầu tiên và phần lớn các bài mục trong tập sách này đã công bố trong 6 năm qua (2004 - 2010) trên tạp chí Nghiên cứu Con người, đôi bài trên tạp chí Giáo dục, Khoa học giáo dục, Tuyên giáo. Ngày 25 tháng 4 năm 2008 đánh dấu một mốc đáng ghi nhớ của công trình này: Theo sự phân công của Hội đồng lý luận Trung ương (HĐLLTƯ) và Viện KHXH Việt Nam, với tư cách nguyên là Viện trưởng Viện NCCN, tôi được trình bày báo cáo khoa học “Vấn đề xây dựng con người và nguồn nhân lực: Quan niệm, chính sách” với Bộ Chính trị. Báo cáo rút ngắn đã được HĐLLTƯ in trong một tập sách(6) và Viện NCCN đăng tải trong sách nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày thành lập Viện(7). Trong phần cuối của báo cáo chúng tôi đề xuất và kiến nghị Đảng và Nhà nước công bố đúc kết Hệ giá trị Việt Nam. Được chính thức báo cáo như vậy đối với chúng tôi hết sức có ý nghĩa: đó là đã có “đầu ra” (phục vụ xã hội) có ý nghĩa quan trọng nhất đối với công trình khoa học – điều mà ai trong giới khoa học cũng mong muốn. Triển khai kết luận của Bộ Chính trị, tháng 9 năm 2008, Viện KHXH VN đã giao cho tôi đề tài NCKH cấp Bộ “Những luận cứ khoa học của việc xây dựng Hệ giá trị chung của người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập dưới tác động của toàn cầu hoá”, thực hiện trong 2 năm 2009 và 2010, theo đó tập trung vào cơ sở lý luận, chủ yếu sử dụng các cứ liệu của các chương trình, đề tài kể trên và chỉ điều tra định tính bổ sung cứ liệu cần thiết. Đề tài đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn tất bản thảo cuốn sách này; mạnh dạn đề xuất đúc kết, xây dựng Hệ thống giá trị chung của Việt Nam thời nay; thử đưa ra một phương án để xin ý kiến rộng rãi, phát huy tác dụng của Giá trị học, hy vọng có đóng góp - dù rất nhỏ nhoi - vào giữ gìn và xây đắp nền tảng tinh thần của dân tộc, từng cộng đồng..., đặc biệt, giáo dục giá trị cho thế hệ trẻ, làm sao mỗi người đều tự mình, cũng như nhà trường, gia đình, xã hội giúp từng người kiến tạo nên những giá trị bản thân – giá trị nhân cách: Tâm lực, trí lực, thể lực; Phát huy các giá trị này, đồng thời (yêu cầu này rất quan trọng) cộng đồng xã hội tạo môi trường (điều kiện) lành mạnh cho mọi người tạo lập và sử dụng các giá trị bản thân: Quý trọng con người, đề cao, tận dụng giá trị con người (nguồn nhân lực - vốn người), nhất là trọng dụng nhân tài - đầu tàu của nguồn nhân lực, tạo nên cuộc sống an bình, thịnh vượng, hạnh phúc. Đóng góp nhỏ bé này, nếu thực hiện được, là mục tiêu tối thượng của tập sách và nói chung, của cả cuộc đời làm khoa học của tác giả. Lời nói đầu tiên không thể thiếu: tự đáy lòng tôi muốn được bầy tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các đồng chí lãnh đạo Đảng, các cán bộ quản lý khoa học nước nhà, các cơ quan chủ trì chương trình, đề tài cùng các bạn đồng nghiệp cộng tác trong các chương trình, đề tài do tôi phụ trách, các nhà xuất bản, các tạp chí đã công bố các sản phẩm của tôi trong suốt 20 năm qua (1990 - 2010) - nhờ vậy mà hôm nay có tác phẩm này. Giá trị học là một lĩnh vực khoa học rất phức tạp, khá nhạy cảm, đặc biệt trong thời gian này, lại là một chủ đề mới đối với tôi, nhiều chỗ có tính chất nêu vấn đề hơn giải quyết vấn đề. Cho nên không tránh khỏi thiếu sót, rất mong các bạn gần xa chỉ giáo. TÀI LIỆU THAM KHẢO (TLTK) 1. Phạm Minh Hạc. Tuyển tập tâm lý học. tr.493, tr.647, NXB. Giáo dục (GD), Hà Nội (HN), 2001; NXB. Chính trị quốc gia (CTQG), HN, 2005. 2. Các Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, t.3, tr.28. NXB. CTQG, HN,1995. 3. Phạm Minh Hạc. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH. NXB. CTQG, HN, 2001. 4. Thái Duy Tuyên (Chủ biên), Lê Đức Phúc, Nguyễn Đức Uy, Đặng Thành Hưng, Nguyễn Đức Thạc, Nguyễn Thanh Hoàn, Nguyễn Thế Hùng. Giá trị Định hướng giá trị - Sự biến đổi định hướng giá trị con người Việt Nam hiện nay (tư liệu). KX-07-10.HN, 1993. Phạm Minh Hạc. Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới. KX- 07, HN, 1994. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang. Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị. KX- 07 – 04, HN, 1995. 5. Phạm Minh Hạc (Chủ biên), Vũ Thị Minh Chi, Nguyễn Văn Huy, Lê Thanh Hương, Phạm Mai Hương, Đào Thị Minh Hương, Nguyễn Công Khanh, Lê Đức Phúc. Nghiên cứu giá trị nhân cách theo phương pháp NEO PI-R cải biên. NXB. Khoa học xã hội (KHXH), HN, 2007. 6. Hội đồng lý luận Trung ương. Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay. Tập I. NXB. CTQG, HN, 2008. 7. Mai Quỳnh Nam (Chủ biên). Con người, Văn hoá - Quyền và phát triển. NXB. Từ điển bách khoa, HN, 2009. Công trình 20 năm 1991 - 2010 --------------- 3 Chương trình KHCN NN 1 đề tài cấp Bộ: Kết quả bước đầu Mời các bạn đón đọc Giá Trị Học của tác giả Phạm Minh Hạc.