Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cá Cược Với Tình Yêu - Jennifer Crusie
Minerva Dobbs biết rằng chuyện sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi chỉ là chuyện cổ tích, đặc biệt là với một người đàn ông mời cô đi ăn tối chỉ để thắng một vụ cá cược như Calvin Morrisey. Calvin Morrisey thừa biết việc chịu trách nhiệm là bất khả thi, đặc biệt là với một người phụ nữ gàn dở như Min Dobbs. Khi hai người nói lời chào tạm biệt vào cuối bữa tối, họ cũng nhanh chóng chia tay và đồng ý sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng Định mệnh lại có những kế hoạch khác và không lâu sau Min và Cal đã gặp lại nhau. Họ sẽ phải đối phó với những người bạn thích xen vào chuyện người khác, một anh bạn trai cũ ưa ghen tuông, bánh vòng Krispy Kreme, một nhà tâm lý học dai như đỉa, thuyết hỗn mang, một cô dâu phát rồ, món gà sốt nấm, một chú mèo tinh khôn quái đản, những quả cầu tuyết, hai bà mẹ cực kỳ kinh khủng, những đôi giày tuyệt đẹp và những lời bày tỏ còn táo bạo hơn những gì ai trong hai người từng mơ đến. Bao gồm cả canh bạc lớn hơn hết thảy - tình yêu thực sự. *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới.  Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio.  Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứu, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992.  Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley - đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You.  Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Ngày xửa ngày xưa, Minerva Dobbs nghĩ thầm khi đứng giữa một quầy bar ồn ĩ dành cho thanh niên thành thị, thế giới đầy rẫy những người đàn ông tốt. Cô nhìn khuôn mặt đẹp trai của người đàn ông mà cô định đưa tới dự đám cưới của gái mình và nghĩ, Những ngày đó đã qua rồi. “Đối với anh thì mối quan hệ này chẳng ra gì hết,” David nói. Mình có thể chọc cái que khuấy rượu này xuyên qua tim anh ta, Min nghĩ. Cô sẽ không làm thế, tất nhiên rồi. Cái que chỉ làm bằng nhựa và còn lâu mới đủ nhọn. Bên cạnh đó, người ta không làm những việc như vậy tại Bắc Ohio. Một khẩu súng cưa nòng, thế mới đúng điệu. “Và cả hai ta đều biết tại sao,” David tiếp tục. Chắc anh ta còn không biết là mình đang cáu kỉnh; anh ta hẳn luôn nghĩ mình thật bình tĩnh và đúng mực. Ít nhất thì mình cũng biết là mình đang giận dữ, Min nghĩ. Cô để cơn giận dữ bao quanh mình, và nó khiến cả người cô nóng lên, nhiều hơn tất cả những gì David từng làm được. Ở bên kia phòng, một ai đó ở quầy bar hình bánh xe roulette rung chuông. Một điểm nữa chống lại David: Anh ta đang đá cô tại một quán rượu theo chủ đề. The Long Shot(1) . Chỉ nội cái tên thôi hẳn đã phải cảnh báo cô trước. “Anh rất tiếc, Min,” David nói, rõ ràng là không có vẻ như thế. Min khoanh tay lại trên chiếc áo vest kẻ ca-rô xám để cô không thể đánh anh ta. “Có phải vì em không về nhà với anh tối nay không? Hôm nay là thứ Tư. Ngày mai em phải làm việc. Ngày mai anh phải làm việc. Em đã trả tiền đồ uống của em rồi.” “Không phải vậy.” David tỏ ra vẻ thật cao ngạo và bị tổn thương theo kiểu mà duy nhất chỉ có những kẻ cao lớn, ngu muội và tự cao tự đại mới bày ra được. “Em không có bất kỳ cố gắng nào để khiến cho mối quan hệ của chúng ta tốt đẹp thêm, tức là…” Tức là chúng ta đã hẹn hò được hai tháng và tôi vẫn chưa ngủ với anh. Min không nghe anh ta nói nữa, và nhìn quanh đám đông đang nói lao xao. Nếu mình có một loại thuốc độc không thể bị phát giác thì bây giờ mình có thể bỏ vào đồ uống của anh ta và những người mặc vest kia sẽ không một ai chú ý hết. “… và anh cũng nghĩ rằng, nếu chúng ta có bất kỳ một tương lai nào, thì em cũng nên góp sức,” David nói. Ồ, Tôi đã không đấy, Min nghĩ, cũng có nghĩa là David đã đúng một điểm. Tuy vậy, thiếu tình dục không thể là lời bào chữa cho việc đá cô ba tuần trước khi cô phải mặc một chiếc áo phù dâu khiến cô trông giống như một nàng chăn cừu béo ị, điên rồ. “Tất nhiên chúng ta có tương lai, David,” cô cố gắng dằn cơn giận lại. “Chúng ta có nhiều kế hoạch. Ba tuần nữa Diana sẽ cưới. Anh được mời tới dự đám cưới. Tới bữa tối tổng duyệt. Tới bữa tiệc độc thân. Anh sắp sửa bỏ lỡ những vũ công thoát y đấy, David.” “Đó là tất cả những gì em nghĩ về anh sao?” Giọng của David cao vút lên. “Anh chỉ là một bạn hẹn tới đám cưới của em gái em à?” “Tất nhiên là không,” Min nói, “Cũng như em chắc chắn rằng đối với anh, em có ý nghĩa nhiều hơn là một người để ngủ cùng.” David há miệng ra và rồi lại khép vào. “Ừm, tất nhiên. Anh không muốn em nghĩ rằng chuyện này phản ánh con người em. Em thông minh, em thành công, em chín chắn…” Min lắng nghe, biết rằng Em xinh đẹp, em mảnh mai sẽ không đến. Giá mà anh ta bị đau tim nhỉ. Chỉ bốn phần trăm những cơn đau tim ở đàn ông xảy ra trước tuổi bốn mươi, nhưng nó có thể xảy ra. Và nếu anh ta chết, kể cả mẹ cô cũng không thể trông đợi cô đưa anh ta đến đám cưới được. “… và em sẽ là một người mẹ tuyệt vời,” David kết thúc. “Cảm ơn,” Min nói, “Thật vô cùng không lãng mạn.” “Anh đã nghĩ chúng ta sẽ đi đến một kết cục tốt đẹp, Min à,” David nói. “Phải rồi,” Min nhìn quanh quầy bar lòe loẹt. “Đến những nơi như thế này đây.” David thở dài và nắm tay cô. “Anh chúc em những điều tốt lành nhất, Min. Giữ liên lạc nhé.” Min rụt tay lại, “Anh không cảm thấy tay trái đau(2) tí nào à?” “Không,” David cau mày với cô. “Đáng tiếc,” Min nói, và đi về chỗ các bạn của cô, đang theo dõi họ từ đầu phòng bên kia. “Hắn ta nhìn còn tức tối hơn bình thường,” Liza nói, trông cô thậm chí còn cao và hấp dẫn hơn thường ngày khi cô đứng dựa vào chiếc máy hát tự động, mái tóc rực lửa dưới ánh đèn. David hẳn sẽ không đối xử với Liza nhẫn tâm như thế. Anh ta chắc hẳn sẽ sợ hãi, cô ấy có thể sẽ chặt tay chặt chân anh ta ra. Phải giống Liza hơn, Min nghĩ và bắt đầu gạt các thẻ bài hát trong hộp. “Cậu có buồn vì hắn không?” Bonnie nói từ phía bên kia của Min, mái đầu vàng của cô ngẩng lên trong lo lắng. David hẳn cũng sẽ không bỏ rơi Bonnie. Không ai có thể xấu tính với Bonnie bé nhỏ, ngọt ngào. ... Mời các bạn đón đọc Cá Cược Với Tình Yêu của tác giả Jennifer Crusie.
Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt - Arundhati Roy
Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt là câu chuyện của hai anh em sinh đôi Estha và Rahel. Chỉ có sự ngây thơ tuyệt vời của con trẻ làm chúng cố rập khuôn thời thơ ấu cho phù hợp với những đổ vỡ trong gia đình. Mẹ chúng, Ammu, một phụ nữ xinh đẹp, đáng yêu, sống lẻ loi; đêm đêm chị yêu đàn ông, còn ban ngày yêu các con. Kẻ thù của chúng là Baby Kochamma, nguyên là một nữ tu sĩ phá giới. Và cả một thế giới đầy những lũ ma quỷ, hoa bướm, sâu bọ… của trẻ thơ. Chúng dần hiểu được rằng Sự Việc Có Thể Biến Đổi Chỉ Trong Một Ngày, cuộc sống có thể xoay trở thành những hình dạng quái gở, thậm chí có thể ngừng vĩnh viễn. Bằng trí thông minh và sức quyến rũ đầy ma lực, từ những sự việc trong đời thường tưởng như vụn vặt, Arundhati Roy đã viết nên một cuốn tiểu thuyết đầy những nỗi thống khổ, tuyệt hay và lạ lùng; một cuốn tiểu thuyết về tình yêu, cái chết, về phân biệt đẳng cấp và những xung đột gia đình. Ngay từ khi xuất bản lần đầu, cuốn truyện đã gây nên sóng gió trên văn đàn. Cuốn tiểu thuyết đã được tái bản đến lần thứ bảy và được dịch ra 27 thứ tiếng. Arundhati Roy là một phụ nữ nồng nhiệt, thông minh và sống hết mình. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của chị, cuốn sách đã mang lại cho chị vinh quang và tiền bạc.” *** Arundhati Roy sinh ngày 24 tháng 11 năm 1961 ở Shillong, Meghalaya thuộc vùng Kerala. Mẹ gốc dân bản xứ Syria theo Thiên chúa giáo nhưng cha lại là người gốc Bengal, theo Ấn giáo và là một chuyên viên trồng trà. Cuộc hôn nhân này đổ vỡ, cô bé Arundhati Roy phải sống với mẹ ở vùng Aymanam. Mẹ cô tuy là một giáo viên nhưng cũng là người tranh đấu xã hội nhiệt thành. Bà sáng lập một ngôi trường độc lập với chính quyền địa phương để giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần tự do, không câu nệ vào những điều cấm kỵ tôn giáo hay văn hóa truyền thống. Từ nhỏ Arundhati Roy đã được giáo dục trong môi trường độc lập tự do như vậy. Mười sáu tuổi cô bỏ nhà ra đi, sống với đám thanh thiếu niên bụi đời trong một căn nhà nhỏ mái tôn ở Dehli, đi bán ve chai kiếm sống và ghi tên theo học Trường Kiến Trúc. Chính tại trường này Arundhati Roy đã thành hôn với kiến trúc sư Gerard Da Cunha. Tuy yêu thích ngành kiến trúc nhưng bà không ở lâu với nghề này. Năm 1984 Arundhati Roy gặp nhà làm phim Pradeep Kishen, và sau lễ thành hôn bà chuyển sang điện ảnh, vừa đóng phim vừa viết và dựng truyện phim và truyền hình.Tuy Arundhati Roy khá thành công nhưng những tác phẩm của bà cũng gây ra nhiều cuộc tranh luận. Chán đời sống xô bồ của giới điện ảnh, năm 1992 Arundhati Roy rời xa giới này và bắt đầu viết The God of Small Things, đến 1996 thì viết xong. Ngay từ những tuần đầu ra mắt, quyển sách đã có số ấn bản bán ra cao ngoài dự tính. Tổng kết trong vòng không đầy 10 năm kể từ năm 1997 là năm cuốn sách được xuất bản đến nay The God of Small Things đã bán được trên 3 triệu quyển (con số ngang ngửa với quyển Trăm Năm Cô Đơn của Gabriel Garcia-Marquez) và Arundhati Roy đã được trao giải Booker Prize năm 1998.  *** Tháng Năm ở Ayemenem là một tháng nóng nực và ủ ê. Ngày thật dài và ẩm ướt. Dòng sông như co hẹp và sẫm lại vì nhũng cây xoài vui tươi trong những lùm cây xanh lặng lẽ, đầy bụi. Chuối chín vàng ruộm. Những quả mít nở tung. Lũ nhặng xanh vo ve một cách ngớ ngẩn trong không khí nồng nàn mùi trái cây. Rồi chúng đờ ra, đậu vào những tấm kính cửa sổ mà chết, béo mẫm trong ánh mặt trời.   Ban đêm trong sáng nhưng thấm đẫm một niềm mong đợi uể oải và rầu rĩ.   Nhưng đến đầu tháng Sáu, gió mùa tây nam tắt lặng, ba tháng mùa mưa và ẩm sẫm thay bằng những ngày sáng sủa, nắng lấp lánh làm bọn trẻ con sung sướng chộp lấy chơi đùa. Vùng quê biến thành một mầu xanh lả lơi. Những đường viền mờ đi vì các hàng rào sắn đã bén rễ và tươi tốt. Tường gạch xanh những rêu. Những dây nho ngoằn ngoèo quanh các cột điện. Những cây leo hoang dại bò lan trên bờ sông đá ong và tràn ra cả những con đường sũng nước. Thuyền bè tấp nập ghé vào chợ. Những chú cá nhỏ xuất hiện trong các vũng nước mưa đầy ắp trong các ổ gà trên đường cái.   Hôm Rahel trở về Ayemenem, trời mưa tầm tã. Những làn mưa trắng bạc vụt mạnh vào mặt đất xốp, cày tung lên. Một căn nhà cũ kỹ trên sườn đồi, các bậc đã mòn nhẵn, mái nhà sụp xuống đầu hồi trông như một cái mũ đội thấp. Nức tường đầy những vệt rêu trở nên mềm xốp, hơi phồng lên vì nước ẩm rỉ ra từ mặt đất. Khu vườn xanh tươi, đầy những tiếng xào xạc, rì rầm của bao sinh vật nhỏ bé. Ở nơi thưa thớt, một con chuột bò ra cọ mình vào một tảng đá sáng lấp lánh. Những con ếch đực vàng óng sục sạo trong cái ao có váng tìm con cái. Một con cầy ướt sũng chạy vụt qua con đường đầy lá.   Căn nhà trông như trống rỗng. Cửa ra vào và các cửa sổ đều đóng kín. Hiên trước trơ trụi. Không hề có một thứ đồ đạc gì. Nhưng một chiếc Plymouth mầu xanh da trời, đuôi xe mầu vàng vẫn đỗ bên ngoài, và Baby Kochamma vẫn còn sống trong nhà.   Bà là bà trẻ của Rahel, là em gái của ông ngoại cô. Tên thật của bà là Navomi, Navomi Ipe, nhưng ai cũng gọi bà là Baby. Bà trở thành Baby Kochamma lúc đủ già để làm một bà cô. Song Rahel không đến thăm bà. Chẳng có đứa cháu trai, cháu gái nào lại ảo tưởng mà làm chuyện đó. Rahel đến gặp anh trai cô là Estha. Họ là hai anh em sinh đôi. “Thụ tinh từ hai trứng”, bác sĩ gọi thế. Hai anh em sinh ra riêng rẽ, nhưng từ hai trứng cùng thụ tinh một lúc. Estha - Esthapen - ra đời trước em gái mười tám phút. ... Mời các bạn đón đọc Chúa Trời của Những Chuyện Vụn Vặt của tác giả Arundhati Roy.
Xin Cạch Đàn Ông - Katarzyna Grochola
Judyta là một biên tập viên tại một tòa soạn báo, chuyên trả lời bạn đọc về những thắc mắc trong đời sống cá nhân, gia đình. Oái oăm thay, chính cô lại bị chồng bỏ và đang sống trong tâm trạng đau khổ, tức giận khi thấy chồng cũ hạnh phúc bên người đàn bà khác. Sau khi li dị, cô mua một miếng đất và xây nhà cách thủ đô Warzsawa chừng 30 cây số. Một cuộc sống mới bắt đầu, chỉ có cô con gái Tosia bên cạnh Judyta. Với tâm trạng chán chường, buồn bực, Judyta kể lại cuộc đời vợ chồng 10 năm như thể một lời than thở não nề. Không có gì to tát, đơn giản là chuyện chẳng đâu vào đâu đã khiến hai vợ chồng cố chấp, và rồi dẫn đến ghét nhau. Ngày nào cũng nhàm tẻ như ngày nào. Một đống quy tắc chẳng bao giờ thay đổi, không hút thuốc trên giường, không ăn uống trên giường, không đọc sách trên giường, không đốt lò sưởi trong phòng ngủ… Tất cả vì sức khoẻ. Câu chuyện mà dường như nhà ai cũng có, dưới dạng này hay dạng khác, đang đe dọa mọi cuộc hôn nhân, khi không ai chịu thông cảm cho ai. Đầy thất vọng trước cuộc đời, nhưng Judyta không chịu gục ngã, bi lụy. Cô vẫn tự mình xây nhà, nuôi con, cho con đi học đàng hoàng. Cô cũng cố gắng làm tốt công việc của mình ở tòa soạn, trả lời thắc mắc của mọi người từ nuôi dạy con cái, đến làm đẹp, nữ công gia chánh, thậm chí cả giải quyết mâu thuẫn vợ chồng. Cô vẫn có người bạn thân Ula luôn chia sẻ vui buồn. Và hơn hết, nói xin cạch đàn ông, nhưng một giấc mơ về người đàn ông toàn diện vẫn luôn ấp ủ trong lòng cô. Mọi cố gắng của cô rồi cũng được đền đáp, khi Adam xuất hiện. Một người đàn ông đáng để cô yêu, và cô cố gắng nghĩ thực ra cũng chẳng vi phạm vào lời tuyên bố Xin cạch đàn ông, bởi vì Adam chẳng giống những người đàn ông khác.  *** Nhận định   “Xin cạch đàn ông! đã thành công khi đưa vào nền văn học Ba Lan hình ảnh người phụ nữ ‘không ngừng biến đổi’, kể từ cuối năm 1989. Đây không phải là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Grochola, song chắc chắn là cuốn tiểu thuyết rất được mến mộ.” - Zofia Beszczynska, Nowe Ksiazki “Cuốn sách về người phụ nữ hiện đại, viết cho các bạn đọc nữ hiện đại.” - Rzeczpospolita “Cuốn sách khôi hài, nồng thắm, cuốn hút, khiến ta đọc liền một mạch.” - Zwierciadlo “Tôi nghĩ tất cả chị em phụ nữ chúng ta đều giống nhau. Trong lòng mỗi người chúng ta chôn chặt những niềm thương và nỗi nhớ mà chúng ta không thích nói ra. Kể cả niềm thương và nỗi nhớ về mối tình lãng mạn vĩ đại và chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng. Tôi là một người có niềm thương và nỗi nhớ như vậy.”  - Katarzyna Grochola *** Xin cạch đàn ông! Nghe câu này chắc giới mày râu rủ nhau ngất xỉu. Thế mà Judyta đã tuyên bố xanh rờn như vậy đó. Mà đâu chỉ có vậy. Người đàn bà này còn chua thêm một câu nghe rởn cả tóc gáy: Tất cả đàn ông đều cùng một giuộc. Cô Judyta là ai mà dám bạo mồm tuyên bố như vậy? Xin thưa: Cô Judyta là nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết bạn đang cầm trên tay. Judyta 37 tuổi, bị chồng bỏ. Chồng cô, Tomasz, đi theo một người đàn bà khác có tên là Jola. Judyta là biên tập viên của một tờ tạp chí phụ nữ, phụ trách chuyên mục trả lời thư bạn đọc. Sau khi chồng bỏ, Judyta mua đất, làm nhà tại một làng quê cách Warszawa chừng ba mươi cây số. Ngôi nhà mới xây đã trở thành tổ ấm cho hai mẹ con Judyta và Tosia. Cô bắt đầu cuộc sống mới. Trong tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! nữ nhà văn Katarzyna Grochola đã đề cập một vấn đề xã hội cực kỳ quan trọng - vấn đề hạnh phúc gia đình, được cấu thành chủ yếu bởi quan hệ vợ chồng, quan hệ giữa bố mẹ và con cái. Đặc biệt tác giả đã dám đối mặt với một vấn đề nổi cộm, bức xúc hiện nay - vấn đề ly dị, mà ở Ba Lan (và có lẽ không chỉ ở Ba Lan) đã lên tới con số mười phần trăm, một con số thật đáng lo ngại. Có thể nói, mỗi vụ ly dị là một trận cuồng phong phá tan ngôi nhà hạnh phúc. Nguyên do ly dị thì muôn màu muôn vẻ, nhưng thường là tại anh tại ả, tại cả đôi bên. Có điều đáng tiếc, lắm khi những luồng gió hợp thành trận cuồng phong nói trên chỉ là những chuyện vặt vãnh thường ngày, chẳng đâu vào đâu, do cố chấp, do thiếu cảm thông, không biết nhường nhịn, không biết mình biết ta trong cuộc sống vợ chồng. Chúng ta hãy nghe cô Judyta nói: “Tại sao tôi lại vớ phải một ông chồng thích ngủ trong phòng lạnh? Cấm hút thuốc trên giường? Cả đọc sách nữa? Tại sao ánh đèn lại làm phiền anh ta?” “Cuộc sống vợ chồng của tôi chủ yếu bao gồm: không hút thuốc trên giường, không ăn trên giường, không uống trên giường, không đốt lò sưởi trong phòng ngủ, vì như vậy khỏe người. Những chuyện chúng tôi đã không làm nhiều hơn cả những chuyện đã làm. Tôi chẳng nên lấy làm lạ đến thế khi cuộc sống vợ chồng của tôi có kết cục như vậy.” Tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! chứng tỏ nghị lực của một người phụ nữ bị chồng ruồng bỏ. Chồng ruồng bỏ, đau khổ thật đấy, khốn khó thật đấy, nhưng không phải vì thế mà đời nát tan, trái lại một cuộc sống mới bắt đầu. Song để vượt lên chính mình, để có cuộc sống mới, người phụ nữ phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt”, phải tự mình cáng đáng hết thảy mọi việc, kể cả việc xây nhà, vốn là công việc nặng nhọc của đàn ông. Sau mỗi lần thất bại “quả bom nghị lực” của Judyta lại bùng nổ, đem tới cho cô sức mạnh mới. Cô không sợ thất bại, vẫn không từ bỏ giấc mơ hoàng tử cưỡi ngựa trắng sẽ có ngày xuất hiện trước cửa nhà mình. Tại sao không? Con người ta ai cũng có quyền mơ ước, bởi chính ước mơ cho ta thêm nghị lực, làm cho đời đẹp hơn và thi vị hơn. Nhưng điều quan trọng là phải biết nắm lấy vận mệnh của mình và dám đương đầu với thử thách, cam go. Judyta đã dám làm như vậy và cô đã được đền đáp. Cô xây được nhà mới, lo được cho con gái học hành tử tế, cô thành công trong công tác với tư cách là một biên tập viên, thậm chí còn được khen thưởng, và cô lại làm đẹp, lại yêu... Judyta đã không “cạch đàn ông”, cô “nói dzậy mà không phải dzậy”. Cuộc tình với Hieronim đầy rủi ro, nhưng cuộc tình với Adam thì lại như là trời cho. Lần này xác suất vận may rơi trúng vào cô. Adam là một nhân vật khá thú vị. Một người đàn ông kỹ tính và rất “chịu chơi” trong tình yêu, người đã biến giấc mơ về “chàng hoàng tử cưỡi ngựa trắng” của Judyta thành hiện thực. Chính Adam đã khiến Judyta ngỡ ngàng và cũng chính người đàn ông này đã khiến Judyta phải tự bao biện: Anh ta khác tất cả mọi đàn ông cơ mà. Cuộc tình của Judyta và Adam là cuộc tình “rổ rá cạp lại”, nhưng vẫn lãng mạn, nhiều nhung nhớ, lắm đợi chờ và có cả giận hờn, tựa mối tình đầu... Cái cách tác giả xây dựng nhân vật Xanh Lơ thật là vô tiền khoáng hậu. Một người vợ bị chồng bỏ đi tư vấn cho một người chồng bị vợ bỏ. Những cuộc tranh luận giữa hai người lắm khi gay cấn, căng thẳng, nhưng những vấn đề họ đề cập lại rất tinh tế và lý thú. Xanh Lơ là ai vậy? Một ẩn số mãi tới cuối sách bạn đọc mới có được câu trả lời. Trong cuộc sống, chúng ta ai cũng cần có bạn bè, và không thể sống thiếu bạn bè. Nhưng tình bạn như tình bạn của Ula với Judyta thì có lẽ ai cũng thèm muốn. Một tình bạn cao cả, vô tư, trong sáng, và chính nhờ tình bạn này mà Judyta thêm tự tin vượt qua cơn sóng gió của cuộc đời, cảm thấy mình không bị cô đơn. Thông qua nhân vật Ula và một vài nhân vật khác nữa trong tác phẩm, phải chăng tác giả muốn chứng minh một điều rằng, gì thì gì, trên đời này lúc nào cũng không thiếu những người tốt. Đó là cái rất cần cho cuộc sống của chúng ta. Katarzyna Grochola nhiều lần đề cập vấn đề giáo dục con cái, quan hệ giữa bố mẹ và con cái ở các lứa tuổi khác nhau. Bố mẹ xử lý ra sao khi con cái bướng bỉnh, cãi nhau, đánh nhau, không biết nhường nhịn, không thật thà, bỏ học, yêu đương, xăm mình, đòi hỏi vô lý...? Bố mẹ xử lý ra sao khi con mình không đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông? Những gì tác giả viết trong tác phẩm này cho thấy, bố mẹ phải hiểu kỹ con mình, rèn tính tự lập cho con cái. Hãy để con cái được “sở hữu” chính mình, được tự chịu trách nhiệm với những việc mình làm và tự chịu hậu quả. Không nên bao biện, cái gì cũng làm thay con, tưởng là thương con, nhưng không phải vậy. Nói cho cùng, bố mẹ phải đổi mới chính mình, phải mạnh dạn thay đổi quan hệ giữa mình và con cái, thay đổi tư duy giáo dục và yêu thương con cái, phải có kỹ năng làm cha, làm mẹ, thậm chí phải học làm cha, làm mẹ. Bức thư của Judyta tư vấn cho người cha có con gái bị trượt kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học khiến chúng ta, các bậc cha mẹ, phải suy nghĩ: “Tuy vậy, có những chuyện cần phải cân nhắc, để tiện cho cuộc sống của mình và không gây khó cho cuộc sống của con... Anh hãy để cháu sống cuộc sống của mình! Không đỗ tốt nghiệp chưa phải là ngày tận thế đâu. Nhưng ngày tận thế có thể lại là ý muốn kiểm soát sinh hoạt và hành vi của cô con gái đã lớn. Ý muốn bảo bọc tất cả mọi thứ trong cuộc sống và điều khiển hành vi của con, như thể nó vẫn còn là một cô bé năm tuổi. Theo tâm lý học và kinh nghiệm thực tế, con cái chỉ chịu ảnh hưởng của bố mẹ cho đến khi chúng khoảng mười lăm tuổi. Sau đó ta chỉ có thể hỗ trợ và yêu thương con, cho phép chúng sai lầm và trả giá cho những sai lầm đó. … Anh có thể giúp con mình bằng cách thay đổi chính mình và thay đổi quan hệ cha con. Vì tình yêu không xuất hiện được trong vòng kiểm soát. Con gái của anh đang trưởng thành - thất bại đầu tiên đã ở phía sau nó. Phải làm gì sau thất bại đó, hãy để cho cháu lựa chọn.” Các bức thư trả lời bạn đọc của biên tập viên Judyta thật là đa dạng, bao gồm những vấn đề “thượng vàng hạ cám” của cuộc sống thường ngày, nhiều câu hỏi của bạn đọc rất thực tế, tế nhị, lắm khi hóc búa, nêu lên những vấn đề bức xúc của cuộc sống đương đại, song cũng lắm câu hỏi rất hồn nhiên, thậm chí ngây thơ và buồn cười, nhưng cũng rất đời: Làm thế nào để vú to thêm, để nó nhỏ đi, da dầu nên bôi loại kem gì, trên ba mươi tuổi nên đắp loại mặt nạ nào. Phải làm gì khi con gái hư và khi bị chồng phản bội. Tìm việc làm ra sao và làm sao để không bị coi thường. Kêu cứu ai khi chồng nát rượu. Ăn vận thế nào khi có thân hình tròn xoay như quả táo. Giấu đôi chân ngắn ngủn cách nào? Phải làm gì để chồng không bỏ đi với người đàn bà khác? Xin cạch đàn ông! để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm về cuộc sống vợ chồng, cuộc sống gia đình. Bức thông điệp mà cuốn sách muốn gửi đến chúng ta là: Hạnh phúc luôn luôn nằm trong tầm tay của chúng ta, có điều chúng ta phải biết nắm bắt và khi đã nắm bắt được thì đừng để nó tuột khỏi tay mình. Người ta so sánh tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! với Nhật ký tiểu thư Jones của Fielding Helen, người ta coi Judyta là tiểu thư Jones của Ba Lan. Judyta cũng là người phụ nữ thời nay ở Ba Lan - dám nghĩ, dám làm, dám mạo hiểm, không sợ thất bại. Với giọng văn khá độc đáo, giàu tính hài hước, với những triết lý sống thú vị, với những nhân vật đầy tính cách, câu chuyện mà Judyta kể cho chúng ta có sức cuốn hút mạnh mẽ từ đầu đến cuối. Trả lời câu hỏi: “Trong nhân vật Judyta có bao nhiêu phần trăm là Katarzyna Grochola?” cô nói: “Nhiều, rất nhiều là đằng khác, chỉ có điều Judyta 37 tuổi”. Như ta biết, cũng giống như nhân vật Judyta của mình, Grochola đã ly dị chồng, tự mua đất làm nhà ở ngoại ô Warszawa, nuôi dạy con gái, và vui thú với các vật nuôi trong nhà... Ngay sau khi ấn hành, tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! đã được bạn đọc toàn Ba Lan háo hức tìm đọc, 200 nghìn bản đã đến tay bạn đọc trong một thời gian ngắn và từ đó đến nay cuốn tiểu thuyết vẫn liên tục được tái bản nhiều lần với số lượng bản in rất lớn. Năm 2001 tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! đã được tặng giải thưởng “AS” EMPiK-u dành cho cuốn sách best-seller số một trong năm ở Ba Lan. Tác phẩm văn học này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng nước ngoài như Nga, Đức, Litva, Bungari, Hunggari, Séc, Italia v.v... Năm 2004, tiểu thuyết Xin cạch đàn ông! được dựng thành phim do Ryszard Zatorski đạo diễn, nữ diễn viên điện ảnh Danuta Stenka đã thể hiện vai Judyta rất thành công. Sau Hoang thai của Dorota Terakowska, tôi vô cùng hạnh phúc lại có cơ hội được tặng bạn đọc Việt Nam một tác phẩm nữa của nền văn học đương đại Ba Lan, lần này là cuốn tiểu thuyết của nữ nhà văn nổi tiếng Ba Lan, Katarzyna Grochola. Mong được lượng thứ đối với những khiếm khuyết không tránh khỏi, và hy vọng bạn đọc sẽ hài lòng và có nhiều ấn tượng đẹp sau khi thưởng thức tác phẩm dịch này. LÊ BÁ THỰ Hà Nội, mùa thu 2007 Mời các bạn đón đọc Xin Cạch Đàn Ông của tác giả Katarzyna Grochola.
Hồng Ngọc
Đôi khi sống trong một gia đình chất chứa nhiều bí mật là một gánh nặng khó khăn. Đó là suy nghĩ của một Gwendolyn mới bước vào thời thiếu nữ, cho đến ngày đột nhiên cô thấy mình ở giữa London cách đây hai thế kỷ. Và định mệnh đã gõ cửa: cô chính là điều bí mật lớn nhất của gia đình. Một chuyến đi kỳ dị đã mang cô gái trung học của thời đại cellphone, đầy khiếu hài hước sành điệu, xuyên qua mấy thế kỷ để gặp gỡ các kiểu cách của thời xưa, chếnh choáng trong trò chơi chưa hề biết luật của Hội Thập Nhị bí hiểm, đồng hành cùng Gideon, cậu trai khác hẳn cô, người mà thoạt tiên cô không biết sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với đời cô. Trong hoàn cảnh đó, định mệnh không còn can thiệp: nếu chìm sâu vào một mối tình, mọi thứ sẽ càng không đơn giản đối với Gwen… *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Tặng Tuần lộc, Cá heo và Cú mèo, những bạn đồng hành luôn ở kề bên khi tôi viết, và tặng chiếc xe buýt nhỏ hai tầng màu đỏ đã làm tôi vui đúng lúc cần thiết. Công viên Hyde, London. 8 tháng Tư năm 1912. Anh ngó nghiêng nhìn quanh khi cô ngồi thụp xuống và òa khóc. Đúng như anh nghĩ, công viên giờ này vắng ngắt. Hồi đó còn lâu mới có mốt chạy tản bộ, còn thời tiết thì quá lạnh đối với những người vô gia cư ngủ trên ghế đá, trên mình đắp mỗi tờ báo mỏng. Anh cẩn thận lấy khăn bọc chiếc đồng hồ lại rồi đút vào ba lô. Cô ngồi rúm ró cạnh một gốc cây, trên thảm hoa nghệ tây đã úa tàn bên bờ Bắc hồ Serpentine. Vai cô run rẩy, tiếng cô nức nở như âm thanh tuyệt vọng của một con thú trúng thương. Anh không chịu nổi nữa. Nhưng kinh nghiệm khuyên anh tốt nhất nên để cô yên, vì vậy anh ngồi xuống nền cỏ ướt đẫm sương cạnh cô, đăm đăm nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, và đợi. Anh đợi cô dịu bớt nỗi đau, một nỗi đau có lẽ sẽ chẳng bao giờ hết đeo bám cô. Tâm trạng anh lúc này cũng như cô, nhưng anh cố cầm lòng. Anh không muốn cô phải lo lắng thêm cho cả anh. “Người ta đã phát minh ra khăn giấy chưa nhỉ?” Rốt cuộc cô sụt sịt, ngoảnh gương mặt đẫm nước mắt nhìn anh. “Ai biết được,” anh nói. “Nhưng nếu cần thì anh có một chiếc khăn tay thêu đúng kiểu cho em đây.” “G.M. Anh lấy trộm của cô Grace?” “Tự cô ấy cho anh. Công chúa cứ thoải mái xì mũi đi.” Cô cười gượng gạo khi trả lại chiếc khăn cho anh. “Em xin lỗi, giờ thì em đã hủy hoại nó hoàn toàn rồi.” “Chẳng sao đâu! Những lúc như thế này thì cứ phơi nắng cho khô rồi dùng lại!” Anh nói. “Quan trọng là em thôi khóc.” Ngay lập tức, nước mắt cô lại ứa ra. “Lẽ ra chúng mình không được bỏ rơi con trong hoạn nạn. Nó cần mình! Giờ thì chưa biết liệu cái trò mà mình bày ra có tác dụng hay không, mà cũng không còn cơ hội để biết nữa rồi.” Lời cô khiến tim anh đau nhói. “Nhưng nếu chết rồi thì mình còn giúp được con bé ít hơn.” “Nếu có thể đem con trốn đi đâu đó ra nước ngoài, dùng tên giả, tới khi nó đủ khôn lớn…” Anh cương quyết lắc đầu ngắt lời cô. “Ở đâu thì người ta cũng sẽ tìm ra mình, chuyện này đem ra bàn cả ngàn lần rồi. Mình đâu có bỏ rơi con trong hoạn nạn, mình đã chọn cách đúng đắn duy nhất: cho con một cuộc sống bảo đảm. Ít nhất là trong mười sáu năm tới.” Cô thoáng im lặng. Xa xa, ở một nơi nào đó từ phía Tây Carriage Drive vẳng lại tiếng ngựa hí, dù đã sập tối. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] “Em biết anh có lý,” cuối cùng cô nói. “Nhưng thật đau lòng khi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại con bé.” Cô đưa tay dụi đôi mắt sưng húp vì khóc. “Ít ra thì chúng ta sẽ chẳng có thì giờ mà buồn chán. Sớm muộn gì họ cũng tìm ra chúng ta, ngay cả ở thời điểm này, và Đội cận vệ sẽ truy bắt mình sát gót. Lão sẽ không dễ dàng vứt bỏ chiếc đồng hồ cũng như những kế hoạch của lão.” Anh mỉm cười khi trông thấy khao khát phiêu lưu lóe lên trong mắt cô, và anh biết, cuộc khủng hoảng đã tạm lắng. “Biết đâu mình còn ranh mãnh hơn cả lão, hoặc cỗ máy kia không hoạt động. Và thế là lão đành mắc kẹt.” “Được thế thì tốt. Nhưng nếu vậy thì chúng mình là những người duy nhất có thể làm phá sản kế hoạch của lão.” “Chỉ riêng lý do ấy đã chứng tỏ mình hành động đúng.” Anh đứng lên đập bùn bẩn trên quần bò. “Đi thôi! Đám cỏ chết tiệt này ướt sũng, mà em thì phải giữ gìn sức khỏe.” Anh kéo cô đứng lên và hôn cô. “Chúng mình làm gì bây giờ? Tìm một chỗ giấu đồng hồ?” Cô lưỡng lự nhìn cây cầu nối công viên Hyde và khu vườn Kensington. “Ừ. Nhưng trước hết mình phải vét sạch kho của Đội cận vệ và trữ tiền đã. Sau đó mình có thể đi tàu tới Southampton. Thứ tư tới, tàu Titanic sẽ bắt đầu chuyễn viễn du đầu tiên ở đó.” Cô bật cười. “Ý anh về giữ gìn sức khỏe là vậy đó! Được mà, em sẵn sàng.” Nhìn cô lại biết nở nụ cười khiến anh hạnh phúc, anh không kìm được, lại hôn cô lần nữa. “Thực ra anh nghĩ… em biết là các thuyền trưởng có quyền làm chủ hôn trên biển phải không, công chúa?” “Anh muốn kết hôn với em? Trên tàu Titanic? Anh điên rồi?” “Như thế sẽ rất lãng mạn.” “Nếu không tính đến vụ núi băng.” Cô tựa đầu vào ngực anh, giấu mặt vào chiếc áo khoác. “Em yêu anh vô cùng,” cô thì thào. “Em sẽ làm vợ anh chứ?” “Vâng,” cô đáp, vẫn vùi mặt trong ngực anh. “Nhưng với điều kiện muộn nhất là ở Queenstown, chúng mình sẽ xuống tàu.” “Công chúa, em sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tiếp theo chưa?” “Sẵn sàng, nếu anh cũng thế,” cô đáp khẽ. *** Một cuộc hành trình vượt thời gian ngoài tầm kiểm soát thường được báo trước vài phút, đôi khi vài giờ hoặc thậm chí vài ngày, thông qua cảm giác choáng váng trong đầu, trong bụng và/ hoặc trong chân. Nhiều người mang gien cũng tường thuật lại chứng đau đầu tương tự bệnh tiền đình. Cuộc vượt thời gian đầu tiên - còn gọi là cuộc vượt thời gian tự thân - diễn ra ở độ tuổi từ mười sáu đến mười bảy của người mang gien. Trích Biên niên sử Đội cận vệ, Tập II: Những định luật phổ quát. Mời các bạn đón đọc Hồng Ngọc của tác giả Kerstin Gier.