Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Tẩy Não

Những gì mắt thấy tai nghe chưa chắc đã là sự thật.   Xác chết của một phụ nữ trẻ tuổi cùng hai bộ xương tình cờ được phát hiện tại một khu vực vốn biệt lập và nổi tiếng yên bình của Thụy Điển. cả ba đều có những thương tích như nhau, đều bị hành hạ một cách có hệ thống suốt một thời gian dài trước khi bị giết chết. Vụ việc giống như quả bom làm đảo lộn hoàn toàn nhịp sống của mọi người. Những khách du lịch đang háo hức với kỳ nghỉ nhanh chóng rời, chính quyền địa phương đứng ngồi không yên… Câu chuyện mở ra những bí mật khủng khiếp ẩn sâu dưới vẻ bề ngoài tĩnh lặng của cộng đồng. Tất cả dẫn tới hậu duệ của một nhà truyền giáo đã qua đời - người đã truyền “khả năng chữa bệnh” của mình cho hai con trai. Được nhào nặn trong tay một nữ tác giả được coi là Agatha Christie của Thụy Điển cuốn sách trở nên một tiểu thuyết tâm lý tội phạm nổi bật, điên rồ và ám ảnh.   “Cốt truyện thông minh và khả năng khắc họa nội tâm nhân vật thật cá tính đã nâng Kẻ tẩy não lên trên tầm những cuốn tiểu thuyết trinh thám khác. - Washington Post   “Bậc thầy trong sự kết hợp giữa nội tâm ấm áp và những kinh hoàng đổ máu.” - The Guardian *** Mình đã kết tác giả Camilla Lackberg từ khi đọc tiểu thuyết trinh thám “Công Chúa Băng” của bà (là tập đầu tiên trong series xoay quanh cặp đôi nhà điều tra Erica Falck và Patrik Hedstrom). Cuốn “Công Chúa Băng” mình đọc thấy cuốn hút thiệt luôn, tình huống dẫn tới cuộc điều tra, các ngóc ngách trong đời sống cá nhân và đời tập thể ở vùng Fjällbacka của Thụy Điển được miêu tả rất lôi cuốn, sự thật phơi bày thì vừa lạnh gáy vừa đau lòng, cái kết hợp lý, nên là khi thấy Nhã Nam xuất bản tập tiếp theo trong series này, mình phải lật đật mua ngay về đọc. Tuy nhiên, trải nghiệm của mình với “Kẻ Tẩy Não” lại không được như mong đợi… Bối cảnh vụ án trong cuốn này phải nói là khá hấp dẫn: xác chết của một thiếu nữ không mảnh vải che thân, cơ thể có nhiều vết thương do bị hành hạ liên tục trong nhiều ngày được phát hiện ở Khe Vua, bên dưới xác chết, người ta đào được 2 bộ xương của 2 thiếu nữ khác cũng bị sát hại theo cùng cách thức, nhưng thời gian là vào 20 năm trước. Nghe là ly kỳ rồi ha, vì có thể có 2 trường hợp: có 1 kẻ thủ ác chịu trách nhiệm cho các vụ án trong quá khứ và ở hiện tại, hay là 1 kẻ là hung thủ trong quá khứ, 1 kẻ khác ở hiện tại tiếp tục gây án theo cách thức tương tự… Tuy nhiên, diễn tiến các giai đoạn điều tra các vụ án này được miêu tả khá là chậm chạp và máy móc, và chả hiểu sao mà mình có cảm giác không có mấy bất ngờ ở cuốn này. Có thể do khi đọc tiểu thuyết trinh thám vùng bán đảo Scandinavia, các nước Bắc Âu (Scandinavian crime fiction) thì mình hy vọng bối cảnh sẽ có cái gì đó lạnh lẽo, rùng rợn, kiểu giống “Công Chúa Băng”, mùa đông tháng giá đồ đó, mà câu chuyện trong “Kẻ Tẩy Não” lại diễn ra vào mùa hè, nên mất đi một phần nét lôi cuốn vốn có của tiểu thuyết trinh thám Bắc Âu… Nhưng mà thiệt sự là mình không thích mấy cái nhịp điệu kể chuyện chầm chậm, từ từ đó của tác giả ở cuốn này. Chưa hết, mình có cảm giác công cuộc điều tra của Patrik – đáng lẽ phải là nội dung chính của tác phẩm – lại bị lu mờ trước những chi tiết có phần hài hước về đời sống riêng của bà bầu Erica, bầu bí tới tháng thứ 8 mà vẫn phải một thân một mình đối mặt với mấy người thân không tốt đẹp gì cho cam, vô cùng bất lịch sự. Mình vốn rất thích đọc thêm về các chi tiết thuộc đời sống riêng của nhân vật là thám tử điều tra trong các cuốn tiểu thuyết trinh thám, vì theo mình, các chi tiết này có thể soi rọi thêm ánh sáng vào những góc khuất trong tâm trí của nhân vật chính, làm tăng thêm độ hấp dẫn và đóng góp sự đa dạng vào cốt truyện. Nhưng trong mọi trường hợp, công cuộc điều tra phải luôn là đối tượng chính của một cuốn tiểu thuyết trinh thám, chứ không phải mấy câu chuyện đời tư lặt vặt này… Hồi mình đọc tiểu thuyết trinh thám của một tác giả Scandinavian khác là Samuel Bjork, mình thấy bác này cũng đưa các chi tiết về đời tư, tính cách, suy nghĩ, cảm nhận của nhân vật điều tra viên vào tác phẩm, nhưng nó hoàn toàn không gây loãng mạch truyện chút nào; ngược lại, nó mang thêm độ thấu cảm và u ám cho câu chuyện vốn đã khá ghê rợn. Chứ còn cuốn này thì mình thấy tác giả giống như cố tình cho độc giả “hít drama” của các nhân vật để chuẩn bị cho đoạn sau bùng nổ hơn hay sao á… Mà mấy cái drama này đọc một lần thì thấy cũng hài hài, chứ đọc hoài thiệt mắc mệt… Thêm câu chuyện tình duyên luôn chả đâu vào đâu của Anna, em gái của Erica nữa… Tinh hoa/phần hay nhất của cuốn này nằm ở những trang cuối và gần cuối, khi việc điều tra tiến đến giai đoạn sau cùng là tìm ra chân tướng thủ phạm. Trước phần hạ màn này thì tác giả có cố gắng cài cắm một chút red herring, để Patrik và đồng sự cùng độc giả nghĩ rằng sẽ có thể có một cú twist, hoặc một điều gì đó chưa ai nghĩ ra hay dự tính trước sẽ xuất hiện. Nhưng cuối cùng thì chân tướng hung thủ không nằm ngoài dự đoán và cảm nhận của mình, nên thành ra mình không thấy thực sự muốn lật bàn hay té ghế gì lắm :D Chỉ ấn tượng nhất là cái độ điên loạn của tên hung thủ (hay là các tên hung thủ ta? ^^ bạn đọc sẽ rõ :)))), và những tội ác ghê tởm nào mà con người có thể thực hiện nhân danh tôn giáo. Nói chung mình đánh giá cuốn này ở tầm khá, không phải hay (thua xa “Công Chúa Băng”) nhưng cũng không phải là dở. Đọc để giải trí trong mấy ngày Tết thì chắc ổn. Mình đánh giá tầm 3/5 hoặc 6.5/10, đó là nhờ đoạn phá án thì nhịp truyện bắt đầu dồn dập lên, mình đọc một lèo tới hết luôn đó ^^ Chứ mấy đoạn trước mình nhơi nhơi vì thực sự không thấy có nhiều điều hấp dẫn, đọc từ hồi trước Tết mà giờ hết Tết tới nơi rồi mới xong :D Mà trùng hợp là gã hung thủ (hay là các gã hung thủ nhỉ? :D Again, bạn đọc sẽ rõ ^^) của cuốn này trùng tên với gã hung thủ của một cuốn trinh thám Bắc Âu khác mà mình đọc hồi cuối năm ngoái (mà mình không nói là cuốn nào đâu, nói ra là spoil hết rồi :D). Nhi Nguyễn's Reviews *** Review sách Kẻ Tẩy Não - Phuc Hieu Truyện bắt đầu khi một cậu bé trốn nhà đi chơi thì tình cờ phát hiện ra thi thể của một phụ nữ trẻ trong hẻm núi. Khi cảnh sát đến hiện trường, họ phát hiện ra thêm hai bộ xương được chôn bên dưới thi thể đó. Hai bộ xương đó nhiều khả năng là của hai cô gái đã mất tích từ những năm 1970. Còn người phụ nữ vừa mới chết kia? Không ai biết cô ta là ai… Từ đó, cuộc điều tra về những cô gái bị bắt cóc và tra tấn tới chết được mở ra, bóc tách những bí mật khủng khiếp trong một gia tộc được che giấu trong nhiều thế hệ… Thường thì điều làm nên cái hay ho, đặc sắc ở một cuốn truyện trinh thám là quá trình phá án gay cấn, căng thẳng và đoạn kết thật bất ngờ, bất ngờ đến mức độc giả ngã ngửa ra sau. Nhưng Kẻ Tẩy Não thì không có cả hai điều đó. Điều đặc biệt tạo nên vị trí của nó, cũng như những cuốn truyện khác của cùng tác giả, trên bản đồ trinh thám thế giới là sự chân thực. Sự chân thực khi mô tả vẻ nhàm chán buồn ngủ của thị trấn Fjällbacka. Sự chân thực khi khắc họa mỗi nhân vật, cả chính lẫn phụ, từ nạn nhân, hung thủ, nghi can cho đến cảnh sát, ai cũng được dành cho một phần (dù có thể rất nhỏ) để bộc lộ những suy nghĩ của riêng mình. Nỗi đau của những người thân của các cô gái mất tích có thể khiến độc giả xúc động muốn khóc. Mấy vị khách phiền nhiễu đến quấy rầy Patrik và Erica khiến độc giả cũng điên đầu luôn. Những cảnh sát tầm thường (đến vô dụng) khiến độc giả phát ngán. Chẳng có một chút nào thần thông quảng đại, đoán đâu trúng đó như các hình mẫu ngời ngời của Holmes, của Poirot. Ngay cả Patrik là cảnh sát có năng lực nhất đồn cũng nhiều lần phán đoán sai tùm lum. Còn mấy người khác thì khỏi nói đi, đã làm ăn không nên hồn, lại chỉ phá team là giỏi. Nhưng như vậy mới chân thực. Trong các truyện trinh thám khác, thường thì nhân vật chính, là thám tử hoặc cảnh sát, có thể suy-luận rồi khẳng-định luôn. Ví dụ như khi phát hiện ra hai bộ xương cũ kỹ, ồ chắc chắn đây là của hai cô gái mất tích năm xưa rồi. Nhưng không, đồn cảnh sát Fjällbacka không thể khẳng định như thế. Họ phải lấy mẫu, phải xét nghiệm, phải chờ kết quả. Chờ thực sự ấy. Không phải đưa mẫu xong là OK, có kết quả luôn. Họ phải điều tra những manh mối khác cho đến khi nhận thông báo từ phòng thí nghiệm. Họ phải làm những công việc nhàm chán, họ phát chán mà độc giả cũng phát chán, như đi hỏi han loanh quanh từng người sống gần hiện trường… Có lẽ đó mới thực sự là những công việc phi-hư-cấu của cảnh sát. Độc giả có thể theo chân họ, biết hết mọi điều họ đã thu nhận được, bởi tác giả không giấu giếm một manh mối nào. Tuy nhiên thủ phạm vẫn khá bất ngờ, theo kiểu chắc-chắn-là-kẻ-đó, ơ-hóa-ra-không-phải, á-chính-là-kẻ-đó-mà! Bởi manh mối quan trọng dùng để phá án được cài khéo quá khiến độc giả dễ, rất dễ bỏ qua. Nói chung tôi không thích trinh thám Bắc Âu lắm, cũng không hâm mộ tác giả Camilla Läckberg, nên chỉ chấm “Kẻ Tẩy Não” 7.5/10 thôi. Ai thích thể loại này thì có thể sẽ đánh giá cao hơn. P. S. Cái tên “Kẻ Tẩy Não” là do biên tập viên đặt, xin đừng hỏi dịch giả tại sao *** Ngày mới bắt đầu đầy hứa hẹn. Cậu bé dậy sớm hơn những người còn lại trong nhà, cố gắng mặc quần áo lặng lẽ hết mức có thể, rồi lẻn ra ngoài sao cho không ai chú ý. Cậu mang theo mũ hiệp sĩ và thanh kiếm gỗ, vừa hớn hở vung vẩy thanh kiếm vừa chạy trăm mét từ nhà xuống đến cửa Khe Vua. Cậu dừng lại một lát và kinh ngạc nhìn vào cái khe hun hút giữa hai vách đá dựng đứng. Hai bên khe đá cách nhau khoảng hai mét và cao đến hơn chín mét vươn trên bầu trời vừa được mặt trời mùa hè chiếu sáng. Ba tảng đá lớn nêm chặt giữa khe, một cảnh tượng thật hùng vĩ. Nơi đây có sức hút đầy ma lực đối với một cậu bé sáu tuổi. Việc Khe Vua là vùng đất cấm thực ra càng làm cho nơi đây hấp dẫn hơn. Cái tên này có nguồn gốc từ khi Vua Oscar Đệ Nhị đến thăm Fjällbacka hồi cuối thế kỷ mười chín, nhưng cậu bé không biết và cũng không quan tâm tới điều đó khi rón rén bước vào vùng tối, tay lăm lăm thanh kiếm sẵn sàng trong thế tấn công. Bố đã nói với cậu rằng những cảnh ở Rãnh Địa Ngục trong phim Ronja Rövardotter đã được quay bên trong Khe Vua. Khi xem phim một mình, cậu thấy ngứa ngáy trong bụng lúc nhìn tướng cướp Mattis phóng qua. Đôi khi cậu cũng chơi trò lục lâm ở đây, nhưng hôm nay cậu là một hiệp sĩ. Một Hiệp sĩ Bàn Tròn, như trong cuốn sách to có tô màu mà bà ngoại đã tặng dịp sinh nhật cậu. Cậu đánh bạo cầm kiếm leo qua những tảng đá nằm trên nền đất và đã sẵn sàng tấn công con rồng phun lửa khổng lồ. Mặt trời giữa trưa hè cũng không thể rọi xuống đến đáy khe được, nên chỗ này vừa tối vừa lạnh. Đó là chỗ trú ẩn lý tưởng cho loài rồng. Rất nhanh thôi cậu sẽ khiến máu phun ra từ cổ họng nó, và sau con hấp hối kéo dài đầy đau đớn, nó sẽ phải gục chết dưới chân cậu. Qua khóe mắt, cậu liếc thấy thứ gì đó khiến cậu phải chú ý. Cậu thoáng thấy một mảnh vải màu đỏ đằng sau một tảng đá, rồi tính tò mò thôi thúc cậu tiến lại gần hơn. Có thể là con rồng đang chờ đợi, có thể là kho báu được giấu ở đó. Cậu nhảy lên trên tảng đá và nhìn xuống phía bên kia. Trong thoáng chốc cậu gần như ngã ngửa ra, nhưng sau khi ngả nghiêng và vung tay loạn xạ cậu cũng lấy lại được thăng bằng. Sau này, cậu không thừa nhận rằng mình đã khiếp sợ, nhưng vào lúc đó, trong khoảnh khắc đó, cậu chưa bao giờ cảm thấy kinh hãi hơn thế suốt sáu năm cuộc đời mình. Một phụ nữ đang nằm đó chờ đợi cậu. Cô ta nằm ngửa, nhìn thẳng vào cậu với đôi mắt mở to. Trực giác mách bảo cậu phải chạy trốn trước khi cô ta bắt gặp cậu đang chơi ở đây mà không được phép. Có thể cô ta sẽ buộc cậu phải nói với cô ta nơi cậu sống và sau đó sẽ kéo cậu về nhà với bố mẹ. Họ sẽ rất tức giận, và họ chắc chắn sẽ hỏi: đã bao nhiêu lần bố mẹ dặn là con không được đi đến Khe Vua nếu không có người lớn đi cùng rồi? Nhưng kỳ lạ thay người phụ nữ không hề nhúc nhích. Cô ta cũng không có mảnh vải nào che thân, và cậu bé thoáng ngượng ngùng khi thấy mình cứ đứng đó mà nhìn người phụ nữ trần truồng như vậy. Màu đỏ mà cậu nhìn thấy không phải là một mảnh vải, mà là thứ gì đó ướt át treo ngay bên cạnh cô ta, và cậu chẳng thấy quần áo của cô ta đâu cả. Buồn cười thật, cứ nằm đó trần truồng. Nhất là khi trời lạnh thế này. Rồi cậu nghĩ đến một điều tưởng như không thể. Có thể người phụ nữ này đã chết! Cậu không thể nghĩ ra bất kỳ lời giải thích nào khác cho việc tại sao cô ta lại cứ nằm im như thế. Nhận ra điều đó, cậu nhảy khỏi tảng đá, và chầm chậm lùi dần về phía cửa khe. Sau khi đã cách người chết vài mét, cậu quay người lại và chạy thục mạng về nhà. Cậu không còn quan tâm liệu mình có bị mắng hay không nữa. Mồ hôi đã khiến khăn trải giường dính vào cơ thể cô. Erica trằn trọc trên giường, nhưng vẫn không thấy tư thế nào thoải mái. Trời đêm hè vẫn sáng trưng chẳng khiến cô dễ ngủ hơn, và phải đến cả ngàn lần cô đã tự nhắc mình nhớ mua rèm cửa, hay đúng hơn là thuyết phục Patrik đi mua một cái. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Tẩy Não của tác giả Camilla Lackberg & Mẫn Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Trộm Xác Người - James Bradley
Tên Trộm Xác Người là tác phẩm thứ ba của nhà văn người Úc James Bradley, sinh năm 1967. Ông được nhật báo Sydney Morning Herald hai lần phong tặng danh hiệu là một trong “Những tiểu thuyết gia trẻ người Úc tài ba nhất”. Hiện ông sinh sống ở Sydney. Câu chuyện kể về Gabriel Swift, một sinh viên y khoa ngành phẫu thuật. Anh tới London vào năm 1826 để theo học với Edwin Poll, một bác sĩ phẫu thuật lớn. Từ những giao dịch mua bán tử thi, Swift dần lún sâu vào con đường tội lỗi do sự dụ dỗ của Lucan, kẻ nhiều quyền lực nhất trong số những tên đào trộm xác chết của thành phố và cũng là tên trùm cai quản hoạt động này. Bị bác sĩ Poll đuổi học, Gabriel bị cuốn vào thế giới ngầm tàn ác và bí ẩn của thủ đô London thời kỳ Georgian, trở thành một tội phạm. Dù sao, sự cứu rỗi đã đến với Swift ở phần cuối sách. Quyển tiểu thuyết dựa một phần vào sự kiện có thật về hai tên giết người hàng loạt Burke và Hare hồi đầu thế kỷ 19 ở Anh và các hoạt động mua bán xác người của các bệnh viện hay trung tâm phẫu thuật lúc bấy giờ. Truyện không phân theo chương nên khó theo dõi nếu bạn đọc không đọc liền một mạch. Rất cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. Sài Gòn, tháng 4/2015 ★★★ “Chúng ta chào đời cùng người chết Thấy chăng, họ quay về, và mang chúng ta theo.” — T.S. Eliot, Four Quartets ★★★ “Nhiều tháng sau khi bạn đã khép lại trang sách cuối, những câu chữ của James Bradley vẫn còn đọng trong tâm trí bạn: Đẹp, hấp dẫn và không thể nào quên.”  — Markus Zukas, tác giả quyển The Book Thief “Một thiên tiểu thuyết lãng mạn kinh dị đầy chất cổ điển.”  — Daily Telegraph “Một quyển truyện kinh dị trần trụi, khơi gợi suy tư… Khi bạo liệt, khi đầy triết lý, quyển truyện này đầy ắp không khí.”  — Big Issue ★★★ London, 1826-1827 Họ nằm trong những cái bao tời như nằm trong tử cung của mẹ; gối chạm cằm, đầu ép xuống, như thể chết chỉ đơn giản là quay về với nhục thể mà từ đó chúng ta sinh ra, và đây là sự thụ thai lần thứ hai. Một sợi thừng sau gối giữ họ trong tư thế đó, một sợi khác cột đôi tay họ, rồi miệng bao khép lại bên trên họ và được cột ràng lần nữa, toàn thể trông như một gói đồ nén chặt, đã được ngụy trang một cách dễ dàng, vì nếu bị người bên ngoài nhìn thấy, một thứ hàng hóa như thế sẽ thu hút cả một đám đông. Thế rồi một con dao cắt phăng sợi thừng cột bao, và người này nhấc lên, người nọ kéo, chúng tôi lôi những thứ bên trong bao ra, đặt họ duỗi dài lên mặt bàn, trần truồng và giá lạnh, như một con bê hoặc một em bé chuồi ra khỏi lòng của mẹ, sợi dây và cái bao được giữ lại, vì một lát sau chúng tôi sẽ dùng lại chúng, để thu dọn những mảnh xác bị cắt rời. Chúng tôi cùng giữ chặt họ, kéo thẳng thi thể họ ra lần nữa. Dù tứ chi của họ không mềm quặt mà cũng không cứng lại, bất chấp sự giá lạnh vẫn còn nấn ná bên trong, tình trạng cứng đờ của họ đã bị phá vỡ bên cạnh nấm mồ khi họ bị bẻ gập lại và cột ràng để nhét vào bao. Lúc này, họ duỗi ra dưới bàn tay nắm giữ của chúng tôi, di chuyển với sự dễ uốn nắn lạ lùng của một thân hình nằm giữa cái chết và tình trạng thối rữa. Đấy là một công việc ghê tởm, thế nhưng sự ghê tởm không nằm ở việc đứng gần người chết mà ở sự thân mật nó đòi hỏi từ chúng tôi, sự cận kề với xác thịt và vật chất của thi thể họ. Khi họ đã được uốn nắn xong, nằm tái nhợt và trần truồng trên bàn, chúng tôi bắt tay vào việc. Trước hết chúng tôi lật úp họ xuống, để lộ phần lưng và mông lốm đốm tím và xanh giống như những vết bầm do máu đã tụ lại suốt nhiều giờ sau khi chết. Nếu lớp thịt bắt đầu thối rữa, sẽ có những chỗ phồng dộp, mềm, nhũn nước và tái nhợt, có thể vỡ toang nếu bị chạm vào, nhưng khi đó, lớp da cũng ẩm ướt do thứ chất lỏng giống như mồ hôi rỉ ra từ chúng. Đôi khi, những người liệm xác sẽ nút kín những lỗ hậu môn, và nếu thế, những vật đó phải được lấy ra khỏi xác. Sau đó, với giẻ lau, nước và dấm, chúng tôi bắt đầu rửa ráy cho họ, đôi tay cẩn thận di chuyển qua lớp da của họ, mùi dấm lẫn vào những thứ mùi u ám hơn bám vào họ, chúng tôi tiết chế những cử động nhưng không phải không lau chùi một cách nhẹ nhàng. Khi đã làm xong phần lưng và hai cẳng chân, chúng tôi lật họ trở lại, lau từ bàn chân lên háng, từ háng lên ngực, hai cánh tay và hai bàn tay, cuối cùng tới bộ mặt. Ở đây chúng tôi làm việc cẩn trọng nhất, lau quanh những đầu xương và chỗ nhô lên với những tấm giẻ gấp gọn, quanh đôi gò má, quanh phần trũng quanh mắt. Đôi khi hai mí mắt vẫn còn hé mở, cứng đờ, đôi mắt bên dưới mờ đục và không màu sắc như mắt của những người rất già. Khi lau rửa xong xuôi, chúng tôi xuống sân lấy nước, xà bông và dao cạo. Nước lạnh, dùng cho thi thể lạnh. Thế rồi, kéo thẳng lớp da chùng, chúng tôi bắt đầu cạo; trước tiên là phần da đầu và mặt, tóc ướt được tách thành từng lọn để lộ ra phần u lên của cái sọ; sau đó là lồng ngực và hai nách; rồi cuối cùng là bộ phận sinh dục, lưỡi dao cạo soàn soạt lướt trên lớp da. Đôi khi chúng tôi cắt phạm vào họ, nhưng chẳng có chút máu nào chảy ra, vết đứt tái nhợt và trống rỗng. Tôi không thể nói do đâu chúng tôi biết rằng đây là công việc cần phải được tiến hành trong im lặng. Chỉ biết cách thức là thế, phải luôn là thế. Vào những lúc khác chúng tôi di chuyển quanh họ như thể họ không nằm đó, nói cười với nhau trong lúc lôi kéo, cắt và dọn dẹp những mảnh thịt, gạt chúng sang bên một cách ngẫu nhiên giống như gạt sang bên một cuốn sách hay cái áo khoác đang nằm ở nơi ta định ngồi xuống. Nhưng lúc này chúng tôi lặng lẽ làm việc, không nói nhiều hơn mức cần thiết. Như thể việc rửa ráy người chết này chính là một nghi lễ: giống như người ta rửa sạch những thứ nhớt nhau từ lòng mẹ trên thân hình một em bé, chúng tôi chùi sạch mùi âm ty địa ngục khỏi những xác chết bị đánh cắp đó, đưa chúng mới tinh khôi vào thế giới. Khi công việc đã hoàn tất, mấy cái bao đã được gấp lại gọn gàng, mấy cái xô đã trút sạch nước, những tấm giẻ đã được vắt và phơi, bắt đầu tới việc tính tiền. Thầy chúng tôi kỹ lưỡng nhất trong việc lưu giữ sổ sách tiền nong, và số tiền trả cho Caley và Walker phải được ghi lại: tám đồng tiền vàng cho một xác đàn ông hay phụ nữ đã trưởng thành, hay thứ chúng tôi gọi là một cái lớn; bốn đồng tiền vàng cho một đứa trẻ con, hay một cái nhỏ; một siling mỗi phân Anh cho thứ mà chúng tôi gọi là một bào thai, hay một em bé dài chưa tới một bộ Anh. Và cứ vậy, trong lúc tôi lau sàn, Robert lặng lẽ tính toán trên cuốn sổ cái, ghi lại những khoản thanh toán, kiểm lại số tiền còn tồn trong hộp đựng tiền, gương mặt giấu sau một tấm mặt nạ lặng buồn mà anh luôn khoác lên khi nghĩ rằng mình không bị ai quan sát. ... Mời các bạn đón đọc Tên Trộm Xác Người của tác giả James Bradley.
Giả Thuyết Thứ 7 - Paul Halter
Một ngày nọ ở Luân Đôn, có hai người đàn ông tài ba danh giá quá chẳng để làm gì, đã chơi tung đồng xu để thách thức tài trí nhau. Theo đó người thắng phải gây ra một vụ án mạng kiểu gì cũng được, sao cho bản thân mình có đầy đủ chứng cứ ngoại phạm, còn các manh mối phạm tội sẽ đổ dồn vào người thua. Một âm mưu thoạt nhìn chỉ để cho vui, cuối cùng như hơi độc thổi bung ra trong không khí, xé toang lồng ngực bao nhiêu người khác, lại cũng làm ngạt thở chính mình. Bởi vì mạng người chưa và không bao giờ là thứ nên đem ra làm trò đùa cợt. Paul Halter, nhà văn trinh thám người Pháp, sở hữu gia tài gồm hơn 30 tiểu thuyết cùng các giải thưởng trong nước và quốc tế. Ông được ưu ái mệnh danh là “Bậc thầy của những căn phòng khóa kín”. Truyện của ông độc đáo vì đã xây dựng được những câu đố và âm mưu tội ác gần như không tưởng. Dùng tiểu thuyết “chuyên chở thông điệp xã hội, khám phá các vấn đề nhân đạo và triết học” cũng trở thành một điểm nhấn khó phai khi nói về Paul Halter. *** Khoảng 10 giờ tối, cảnh sát Edward Watkins đi ngang cung điện St. James như ông vẫn làm nửa tiếng một lần vào những buổi tối phải trực thế này. Nhiều năm qua, ông đã đều đặn thực hiện đúng lộ trình đó mà không gặp sự cố gì. Thi thoảng chạm trán một tay say xỉn có phần ngỗ ngược không thể bỏ qua, nhưng đám đó cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Khu vực này rất yên bình, yên bình như cuộc đời cảnh sát viên của ông, khi ông đã đi mòn gót, tâm trí chỉ nghĩ về thời khắc nghỉ hưu sắp tới bên người vợ yêu quý của mình. Một cuộc đời chẳng có biến cố gì, thực vậy - cho tới đêm 31 tháng Tám năm 1938. Hai bàn tay đan chéo sau lưng, chiếc mũ cát kéo sụp xuống đầu, thứ âm thanh duy nhất ông nghe được là tiếng bước chân của chính mình trong cái khu vực đang say ngủ, chìm trong bóng đổ của những tòa nhà gớm ghiếc cao ngất bao quanh. Đêm khá lạnh và màn sương nhẹ lững lờ buông xuống phần mặt tiền đầy vẻ hăm dọa. Ông rẽ xuống phố King, đi được nửa chừng thì dừng lại ngó qua vai, như một việc rất bình thường. Đúng lúc ấy, ông nghe tiếng bước chân ở đâu kia phố King, ngay chỗ ngã tư với phố Bury. Nhưng khi vòng trở lại, ông chỉ thấy cái bóng của một kẻ qua đường, hắt lên bức tường cách đó hơn chín mét nhờ một ngọn đèn đường năm ở góc ngã tư. Cảnh sát Watkins đứng yên vài giây, miệng há hốc. Mặc dù chỉ thấy cái bóng trong một thoáng, ông cũng đủ nhận ra một điểm dị thường: Nó có cái mũi dài lạ lùng. Không phải dài hơn mức bình thường vài phân, mà dài một cách quái đản, dễ chừng bằng cả vành mũ rộng mà kẻ đó đang đội. Quỷ quái gì vậy? Một gã cải trang thành chim chăng? Edward Watkins đứng yên thêm vài giây nữa, tâm trí quay cuồng. Khi trấn tĩnh lại, ông rảo bước tới góc phố Bury và nhìn dọc xuống lối đi, vừa kịp thấy nhân vật kia sắp rẽ phải vào một hẻm ở quãng giữa phố, nơi hình như có thêm nhân vật khác đã đến từ trước. Watkins chưa xác định được nhân dạng của kẻ thứ hai, nhưng thoáng thấy thứ gì đó rất giống áo choàng. Diễn biến tiếp theo khá nhanh. Nhân vật kia, có lẽ bị đánh động bởi tiếng chân bước của viên cảnh sát, quay phắt lại đối diện với ông và, lộ rõ vè ngạc nhiên, nó vọt nhanh vào ngõ hẹp. Trong những tình huống bình thường, viên cảnh sát sẽ lập tức bám theo. Nhưng những gì ông vừa thấy - và đặc biệt là vào thời điểm đó - lạ lùng đến mức phải mất vài phút quý giá tâm trí ông mới phục hồi được. Nhưng các giác quan thì không hề phản bội ông và hình ảnh dị thường kia vẫn rõ rệt trong tâm trí: áo choàng dài đến mắt cá chân, đôi tay đeo găng, chiếc mũ rộng vành, và thay vì khuôn mặt, lại chình ình một chiếc mặt nạ trắng ởn mà ở chính giữa là cái mũi dài ít nhất cũng hơn ba mươi phân. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ấy bằng xương bằng thịt, nhưng ông đã xem đủ minh họa để hiểu ra: Ông vừa nhìn thấy một bác sĩ dịch hạch. Một bác sĩ dịch hạch. Đã từng có dịch hạch ở Luân Đôn. Những câu chuyện về bệnh dịch khủng khiếp vụt qua tâm trí ông: Người chết nhiều như ruồi trên đường phố, quằn quại trong đau đớn, thân thể đầy mụn mủ, mí mắt thâm đen, gương mặt teo tóp. Xác chất đống lên xe đẩy, rồi trút xuống hào sâu bên ngoài thành phố, nơi một sự hoảng loạn không tên ngự trị, nơi gần như không thể trốn chạy, và nơi người sống trong những ngôi nhà bị nhiễm bệnh chết vì đói hơn là vì dịch hạch. Viên cảnh sát xua dòng ý nghĩ hắc ám ấy đi và định thần lại. Ba trăm năm nay không còn dịch hạch ở Luân Đôn, đã có nhiều hiện pháp hiện đại để kiểm soát nó. Hơn nữa, các bác sĩ không còn lang thang trên đường phố trong bộ trang phục kỳ dị này nữa. Người ông vừa nhìn thấy hoặc là một người đi dự tiệc hoặc một dạng tội phạm nào đó đang chuẩn bị ra tay. Không, như thế thật vô nghĩa. Có nhiều cách kín đáo hơn để che giấu nhân dạng. Vậy thì là gì chứ? ... Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Thứ 7 (Dr. Twist #6) của tác giả Paul Halter.
Kẻ Giết Người Đội Lốt - Erle Stanley Gardner
Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [Perry Mason #78 - The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952) 14. Tiếng Chó Tru Trong Đêm [Perry Mason #04 - The Case of the Howling Dog] (1934) 15. Người Được Minh Oan [Perry Mason #27 - The Case of the Half-Wakened Wife] (1945) 16. Người Đàn Bà Đáng Sợ [Perry Mason #53 - The Case of the Lucky Loser] (1958) *** Vào sáng thứ hai, mười giờ kém năm, Perry Mason, cặp dưới nách một gói bọc giấy màu nâu, một tay gỡ cái mũ phớt và ném về phía bức tượng bán thân Blackstone vốn là thứ trang điểm cái giá sách phía sau bàn làm việc của ông. Chiếc mũ phớt lười biếng quay mấy vòng rồi chụp thẳng xuống vầng trán cẩm thạch của vị luật sư lừng tiếng, tạo cho ngài một vẻ ngang tàng quái đản. Della, cô thư kí riêng của Mason đang mở thư tín buổi sáng bên bàn, vỗ tay hoan hô. “Chà, lần này thực sự thành công lắm!” Mason đồng tình với niềm kiêu hãnh kiểu trẻ con. “Blackstone chắc là phải nhảy chồm lên ở dưới mồ,” Della nhận xét. Mason mỉm cười. “Ông ấy đã quen từ lâu rồi. Năm mươi năm gần đây tất cả các luật sư chỉ có làm mỗi việc là chất mũ của mình lên vầng trán cao thượng của Blackstone. Điều đó là đặc trưng trong thời đại chúng ta.” “Đó là điều gì chứ?” “Ném mũ.” “Tôi sợ là không hiểu được hết ý nghĩa.” “Vài thế hệ trước,” Mason giải thích với cô, “các luật sư từng là những người chán ngắt hiếm thấy. Đặt tay lên vạt áo vét, họ nói những diễn từ cầu kì theo mọi quy tắc của nghệ thuật hùng biện. Các văn phòng của họ nhất thiết phải được trang điểm bằng tượng bán thân của Blackstone. Thế nhưng các luật sư trẻ được thừa kế các bức tượng cùng với đồ đạc văn phòng và hàng đống bộ luật thì phát cáu bởi cái vẻ tự mãn khoa trương đông cứng trên bộ mặt bằng đá của lão già này.” “Chắc là anh cần phải đến gặp nhà phân tâm học, sếp ạ,” Della nói. “Có lẽ đối với anh Blackstone tượng trưng cho cái gì đó mà anh cố sức chống chọi lại một cách vô thức. Thế cái gói gì chỗ anh thế?” “Có quỷ mới biết nó,” Mason đáp. “Theo tôi, tôi cố sức chống chọi các định kiến u tối. Tôi đã trả mất năm đôla - tôi có ý nói cái gói ấy.” Trong giọng Della che giấu lòng bao dung dịu dàng sau vẻ giận dỗi giả tạo, “Tôi hi vọng anh không định ghi khoản đó vào chi phí công vụ chứ?” “Tất nhiên, tôi sẽ ghi. Chứ khác đi thì theo cô các chi phí chung là cái gì?” “Và anh thậm chí không biết cái gì bên trong đó ư?” “Tôi mua nó mà không giở ra.” “Tôi sẽ hơi khó quyết toán, nếu phải ghi vào cột chi năm đôla vì cái gói mà không rõ có gì nằm trong đó. Điều gì đã xui khiến anh như thế?” “Nói chung,” Mason thốt ra, “sự thể là thế…” Ông mỉm cười. “Nào tiếp theo là gì?” Della hỏi, cũng không đủ sức kìm nổi nụ cười. “Cô nhớ cái cô Helen Cadmus nào đó không? Cái tên ấy không nói với cô điều gì sao? “ “Một cái tên khá lạ,” cô nói. “Tôi có cảm giác… Khoan, đó có phải là cô gái đã tự tử, nhảy xuống biển từ tàu buồm của một nhà triệu phú nào đó?” “Phải, phải, chính cô ta. Benjamin Addicts, một triệu phú khá bất thường, nghỉ ngơi trên chiếc tàu buồm của mình. Giữa biển khơi, cô thư kí của ông ta, Helen Cadmus biến mất không để lại dấu vết. Người ta phỏng đoán là cô ta đã nhảy ra ngoài thành tàu. Mà trong cái gói này… Nào chúng ta cùng xem điều gì viết ở đây.” Mason lật cái gói lại và đọc, “Đồ vật riêng của Helen Cadmus. Văn phòng mõ tòa.” Della thở dài. “Đã bấy nhiêu năm tôi là thư kí riêng của anh… và thậm chí đôi khi tôi có cảm giác rằng tôi đã biết anh khá rõ, nhưng rồi lại xảy ra gì đó như kiểu này, và tôi lại nhận thức rằng anh vẫn là ẩn số đối với tôi. Trời ơi, anh lấy thứ đó ở đâu và vì cái gì mà bỏ ra những năm đôla cơ chứ?” “Mõ tòa khá thường xuyên đưa ra đấu giá đủ thứ vớ vẩn khác nhau chất đống trong văn phòng ông ta. Và hôm nay trong gian nghị án đã có cuộc đấu giá, còn tôi lại vô tình có mặt không xa chỗ đó. Ở đấy diễn ra những cuộc đấu giá khá hăng, tất cả tranh giành các chế tác kim hoàn, các bức tranh quý hiếm, bộ đồ ăn bằng bạc và đủ mọi thứ khác nữa. Sau đó người ta đưa ra đấu giá cái gói này, và chẳng có ai thèm trả giá. Cô cũng biết mõ tòa - ông ta là một bạn tốt của tôi. - Thế là tôi nháy mắt cho ông ta, và đề nghị đặt giá đầu tiên là năm đôla, nhằm kích động công chúng. Và cô biết sao không? Tôi chưa kịp trấn tĩnh thì họ đã dúi cái gói cho tôi rồi, thành ra trong ví tôi bớt đi năm đôla.” “Thế có gì bên trong ấy?” Della tò mò. “Ta cùng xem,” Mason đề nghị. Ông mở con dao díp, cắt dây buộc và mở tờ giấy bọc ra. “Ái chà chà! Giống như chúng ta có được cuốn ngữ pháp tiếng Anh, cuốn từ điển, vài sách giáo trình tốc kí, mấy cuốn nhật kí và quyển album với những tấm ảnh.” “Có thế mà mất những năm đôla!” Della kêu lên. “Ta ngó qua album ảnh xem,” Mason nói. “Chà! Đây có những tấm ảnh mà ai cũng muốn xỉa năm đôla mua nó.” Della đi lại gần và ngó qua vai ông. “Nếu đó được gọi là quần áo tắm,” cô nhận xét, “thì tôi…” “Thế nhưng giống như nó chính là thế,” Mason đáp. “Bộ đồ tắm từ ba mảnh vải hình vuông, bằng cách thần diệu nào đó đã bám được vào các đường nét uyển chuyển của thân hình khá đáng yêu. Tôi cho rằng đó chính là Helen Cadmus.” “Cô ta không che giấu quá nhiều khỏi những con mắt người lạ,” Della nói. “Chắc gì người lạ nào đó đã chụp, có lẽ một cô bạn nào đó của cô ta biết sử dụng máy ảnh, may mắn tóm được khuôn hình gây ấn tượng mạnh. Ồ, ở đây còn cả một tập những bức ảnh của lũ khỉ nữa.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Giết Người Đội Lốt của tác giả Erle Stanley Gardner.
Chiếc Khuy Đồng - Lev Ovalov
Cuốn tiểu thuyết tình báo "Chiếc khuy đồng" của Ô-va-lốp viết dựa trên một câu chuyện có thật, xảy ra tại thành phố Ri-ga, nước Cộng hòa Lét-tô-ni (Liên-xô) tạm thời bị quân phát xít Đức chiếm đóng vào những năm đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai. Câu chuyện lý thú phản ánh cuộc đấu tranh gay go, mạo hiểm, quyết liệt giữa cơ quan tình báo Liên xô và bọn gián điệp của các nước đế quốc; nêu lên những mâu thuẫn, xung đột tất yếu không thể tránh khỏi trong nội bộ bọn gián điệp đế quốc, phản ánh sự cấu xé vì quyền lợi và tham vọng giữa các nước đế quốc, dù lúc bấy giờ với danh nghĩa là đồng minh của Liên xô chống phát xít Hít-le. Hiện nay, bọn phản động bành trướng bá quyền Bắc Kinh đang ra sức cấu kết với đế quốc Mỹ, tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt đối với nước ta. "Chiếc khuy đồng" ra mắt lần này chắc chắn sẽ góp phần giúp bạn đọc nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng, bồi dưỡng và củng cố thêm ý chí bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. *** Lời Tác giả: Tính đến nay đã gần tròn 20 năm, tôi có viết về Prô-nin, một cán bộ của Cục An ninh Quốc gia, và là người bạn của tôi, một tập truyện nhan đề là NHỮNG VIỆC MẠO HIỂM CỦA THIẾU TÁ PRÔ-NIN. Xuất bản tập truyện ấy chẳng được bao lâu thì cuộc Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc bùng nổ. Từ đó chúng tôi mỗi người một ngả, không liên lạc và cũng không hề gặp nhau. Trong quãng thời gian ấy, những sự kiện lớn lao đã bắt buộc một số người phải rút vào hoạt động bí mật.. . Rồi chiến tranh lại tan đi, công cuộc kiến thiết hòa bình trở lại trên khắp đất nước, người người lại sum họp và sau đó một thời gian mà tôi cho là dài lắm, cuộc sống lại trả hai chúng tôi về cảnh cũ. Đương nhiên tôi có hỏi về cái quá khứ của Prô-nin, tuy rằng anh không bao giờ thích để ai ca tụng mình. Anh đáp: "Tôi đã làm những gì thì chưa đến lúc phải kể lại, mà tôi cũng không có quyền nói hết những việc mình làm. Nhưng tôi có quyển nhật ký nhỏ của một đồng chí sỹ quan mà tôi có nhiệm vụ phải gặp gỡ trong những ngày đầu chiến tranh. Xin biếu anh đây. Đọc trong ấy tất anh sẽ biết được ít nhiều về tôi. Anh ta ghi quyển nhật ký này không phải để cho mọi người xem, nhưng nếu thấy thích, anh có thể phổ biến. Tất nhiên, những tên thật nên thay đổi đi ". Tôi đọc hết những dòng nhật ký đó và quyết định viết thành tiểu thuyết này. Lời lẽ quyển tiểu thuyết gần giống y như bản thảo nhật ký, tôi chỉ chữa lại một vài tình tiết ở đôi chỗ và thay đổi vài ba tên thật mà thôi. Tôi mở ngăn kéo bàn giấy lấy chiếc khuy đồng ra. Chiếc khuy đồng giản dị này là vật kỷ niệm duy nhất của tôi để ghi nhớ lại những sự việc lạ lùng nửa hư nửa thực mà tôi đã bị bắt buộc phải chứng kiến và tham dự vào... Cái vật bằng đồng nhỏ bé đó nằm gọn lỏn trên lòng bàn tay, gợi lại trong tâm trí tôi hình bóng ả đàn bà ấy, một hạng đàn bà kỳ dị hiếm có ở trên đời mà tôi đã quen biết trong những cảnh ngộ thật là éo le, khó hiểu. Đó là Xô-phi-a An-cốp-xcai-a. Nếu nói theo quan niệm thông thường của ta thì ả không phải là một trang tuyệt thế giai nhân: nét mặt không cân đối, thân hình chả lấy gì làm hoàn mỹ. Thế mà ả đã khiến cho nhiều kẻ mày râu phải "đổ quán xiêu đình" trước cái sóng khuynh thành của mình... Bạn thử hình dung ra một người đàn bà khá cao, tóc nâu sẫm, mặt hơi dài, trán dô gần như trán đàn ông với đôi mắt một mí màu gio mà trong cơn giận dữ thường biến sang màu xanh như mắt mèo và sắc như lưỡi dao cạo. Mũi hếch, cằm thon. Khác thường nhất là đôi môi đỏ chót, trề ra y hệt như môi trẻ con và có thể đột ngột mím chặt lại một cách dữ tợn, tái dần đến nỗi trắng nhợt ra. Hai vành tai quá rộng nói lên đặc khiếu thẩm âm của ả. Đôi má thỉnh thoảng mới ửng hồng, mái tóc mềm hơi uốn cong bên thái dương, hai cánh tay có vẻ quá mảnh khảnh nếu đem so với bộ đùi nở nang như đùi nhà thể thao chuyên nghiệp. Trong khi trò chuyện với ai ả chỉ nghe một bên tai, còn tai kia hình như đang mải lắng nghe một khúc nhạc hiu hắt từ cõi xa xăm nào vọng tới; nếu một mắt nhìn chòng chọc vào mặt người đối diện thì mắt kia hình như đang đăm chiêu soi vào khoảng không gian thăm thẳm. Và nếu tay phải ả dịu dàng vuốt ve anh thì tay trái có thể thình lình móc khẩu súng lục xinh xắn tối tân ở trong xắc ra để bắn chết anh trong nháy mắt. Phải chăng trong câu chuyện oái oăm này cũng phải có một nhân vật lạ đời như thế? Tôi là thiếu tá Ma-ca-rốp, sĩ quan tham mưu Liên Xô. Mấy tháng trước khi xảy ra chiến tranh, tôi được phái đến Ri-ga, một thành phố lớn và cổ kính nằm giữa hai miền Đông và Tây Âu... Nhiệm vụ của tôi là nghiên cứu chiến trường và chuẩn bị kế hoạch bố trí quân lực ở miền Tây Bắc để ngăn chặn một cuộc tiến công bất ngờ của quân địch khi chiến tranh bùng nổ. Công tác đó có tính chất hết sức bí mật. Lúc bấy giờ Ri-ga là một thành phố đông đúc và phức tạp. Những dãy nhà nguy nga tráng lệ ngất nghểu bên những phố xá tồi tàn đổ nát. Trước mắt chúng tôi đầy rẫy những nghịch cảnh giàu nghèo, sang hèn, vừa khêu gợi trí tò mò mà lại vừa kỳ lạ. Ri-ga là thủ đô của nước Cộng hòa xô-viết Lét-tô-ni vừa thành lập được ít lâu. Tôi sống khá kín đáo trong căn buồng riêng tại nhà đồng chí công nhân xưởng cơ khí tên là Xe-plít. Đồng chí là một đảng viên cộng sản lâu năm đã được tôi luyện trong thời kỳ hoạt động bí mật. Nhờ có chìa khóa riêng để ra vào cửa lớn nên tôi ít làm phiền đến chủ nhà. Tôi còn nhớ rõ đêm ấy vào khoảng cuối tháng sáu, sau khi báo cáo tình hình công việc hàng ngày với thủ trưởng, tôi bước ra khỏi tòa nhà đồ sộ sáng trưng ánh điện, đi qua một phố nhỏ rồi rẽ xuống đường bờ sông Đô-gáp xây bằng đá, rộng thênh thang. Mùa hè ở biển Ban-tích thật là êm dịu. Khí trời khô ráo nhẹ nhõm. Lòng tôi lâng lâng giữa biển hương thơm ngào ngạt dâng lên từ dòng sông và từ hoa cỏ dại đẫm sương... Đêm đã khuya. Bốn bề vắng ngắt. Tôi đội mũ dạ, mặc áo choàng màu sẫm, trong bóng tối khó mà nhận thấy. Một làn gió lạnh thoảng qua. Tôi rùng mình định kéo cổ áo lên chợt nghe tiếng gọi khẽ sau lưng. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Khuy Đồng của tác giả Lev Ovalov.