Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Đàn Bà Mù Chữ (Agota Kristof)

Người Đàn Bà Mù Chữ - L’Analphabète - là quyển tự truyện đầu tiên.

Mười một chương là mười một khoảng khắc đời của một cô bé đi từ thuở thơ ấu mê sách ở Hung đến thời viết những quyển sách đầu tiên bằng tiếng Pháp. Tuổi thơ ấu hạnh phúc, nạn nghèo khổ sau chiến tranh, những năm tháng cô quạnh ở nội trú, cái chết của Staline, ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ thù nghịch là tiếng Đức và tiếng Nga, cuộc đào trốn qua nước Áo và định cư ở Lausanne-Thụy Sĩ với con còn nhỏ.

Những câu chuyện này không buồn bã nhưng buồn cười. Câu ngắn, chữ đúng, sáng suốt một cách thẳng thừng, khôi hài. Đúng là thế giới của Agota Kristof ở đó, trong câu chuyện đời bà cũng như trong tiểu thuyết của bà.

***

Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Tìm mua: Người Đàn Bà Mù Chữ TiKi Lazada Shopee

Hoàng Ngọc-Tuấn

Sydney, 14/08/2006

***

Tôi đọc. Như một loại bệnh. Tôi đọc tất cả những gì rơi vào tay tôi, rớt xuống mắt tôi: báo chí, sách học, phích quảng cáo, mẫu giấy rơi ngoài đường, công thức nấu ăn, sách trẻ con. Tóm gọn, tất cả những gì được in ra.

Tôi bốn tuổi. Chiến tranh vừa bắt đầu.

Vào thời đó, chúng tôi ở trong một căn làng nhỏ không nhà ga, không điện, không nước máy, không điện thoại.

Cha tôi là thầy giáo duy nhất của làng. Cha dạy mọi lớp, từ lớp một đến lớp sáu. Trong cùng một căn phòng. Trường học chỉ cách nhà tôi một cái sân chơi, cửa sổ nhà trường ngó xuống vườn rau mẹ tôi. Khi tôi leo lên cái cửa sổ trên cùng ở căn phòng lớn trong nhà, tôi có thể thấy hết cả lớp, thấy cha tôi đứng trước lớp, thấy ông đang viết trên bảng đen.

Căn phòng của cha tôi thơm mùi phấn, mùi mực, mùi giấy, mùi thanh thản, mùi thinh lặng, mùi tuyết dù trời đang hè.

Căn bếp của mẹ tôi thơm mùi thịt nấu sôi, mùi con vật bị giết, mùi sữa, mùi mức, mùi bánh mì, mùi áo quần ẩm, mùi khai nước tiểu con nít, mùi chao động, mùi ồn ào, mùi nóng nực dù trời đang đông.

Khi thời tiết không cho phép chúng tôi ra ngoài chơi, khi em bé hét to hơn bình thường, khi anh em tôi ồn ào phá phách trong bếp, mẹ tôi gởi chúng tôi qua trường cha để “bị phạt.”

Chúng tôi ra khỏi nhà. Anh tôi ngừng ở nhà kho nơi chất củi để sưởi:

- Anh thích ở đây. Anh sẽ chẻ mấy thanh củi nhỏ.

- Đúng rồi. Mẹ sẽ bằng lòng.

Tôi băng ngang sân, đi vào căn phòng lớn, tôi đứng gần cánh cửa, mắt ngó xuống.

Cha tôi nói:

- Con đến gần đây.

Tôi đến gần. Tôi nói nhỏ vào tai cha:

- Bị phạt... Mẹ...

- Không có chuyện gì khác à?

Cha hỏi “không có chuyện gì khác” vì thỉnh thoảng tôi chạy qua đem cho cha một mẩu giấy nhỏ của mẹ mà không nói gì hoặc đôi khi chỉ nói một tiếng: “bác sĩ”, “gấp lắm”, đôi khi lại vài con số: 38 hay 40. Tất cả chỉ vì em bé lúc nào cũng có những loại bệnh con nít.

Tôi nói với cha tôi:

- Không. Không có gì khác.

Cha đưa tôi một quyển sách hình:

- Ngồi xuống.

Tôi đi xuống cuối lớp, ở đó, đàng sau các anh chị lớn, lúc nào cũng có những chỗ trống.

Và như thế, ngay từ lúc còn rất nhỏ, chưa kịp nhận thức và hoàn toàn bất ngờ, tôi mang vào người chứng bệnh không bao giờ chữa lành được: chứng bệnh đọc sách.

Khi chúng tôi đi thăm ông bà ngoại ở làng kế cận, căn nhà đầy ánh sáng và nước, ông ngoại hay cầm tay tôi dắt tôi đi một vòng các nhà quen.

Ông lôi một tờ nhật báo trong túi áo khoác và nói với các ông bà hàng xóm:

- Nhìn đây, nghe đây!

Và nói với tôi:

- Cháu đọc đi.

Và tôi đọc. Ông vừa nói là tôi đọc ngay. Trôi chảy, không vấp.

Ngoài lòng tự hào của ông ngoại, chứng bệnh đọc sách cũng làm cho tôi bị trách cứ và khinh chê:

- “Nó không làm gì cả. Nó đọc cả ngày.”

- “Nó không biết làm cái gì khác.”

- “Nó thụ động quá đi.”

- “Nó lười quá đi.”

Và nhất là: “Nó đọc thay vì...”

Thay vì gì?

“Có rất nhiều chuyện khác hữu ích hơn, phải không?”

Và ngay cả bây giờ, buổi sáng khi căn nhà vắng lặng, khi hàng xóm đã đi làm, tôi có một chút mặc cảm không tốt khi tôi ngồi xuống cái bàn trong bếp, tôi đọc báo hàng giờ thay vì... làm việc nhà, rửa chén, đi chợ, giặt đồ, ủi đồ, làm mức, làm bánh...

Và, nhất là, nhất là! Viết!

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Người Đàn Bà Mù Chữ PDF của tác giả Agota Kristof nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Lạc Giữa Nhân Gian
Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy: Nếu Trên đường rong ruổi là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận thì Lạc giữa nhân gian lại là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất."  *** Nếu Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của Đặng Nguyễn Đông Vy thì Trên đường rong ruổi lại là những chia sẻ giản dị và chân thành của Phạm Công Luận. Những đoạn văn nhỏ có tính tự sự riêng tư đã tình cờ tạo nên một cuộc đối thoại lạ lẫm và không kém kỳ thú về cuộc đời. Sự kết hợp của đôi vợ chồng nhà báo này dường như đã chứng minh một quan niệm thú vị của Rainer Maria Rilke: "Mục tiêu của hôn nhân không phải tạo ra sự tương đồng bằng cách cắt đứt mọi ranh giới; ngược lại đó là nơi mà cả vợ lẫn chồng đều chọn đối phương là người bảo vệ cho sự cô độc của chính mình, và theo cách đó, họ bày tỏ cho nhau sự tin tưởng mãnh liệt nhất." *** Tóm tắt: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách tản văn của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy, được phát hành năm 2023.   Lạc giữa nhân gian là những suy tư dịu dàng mà sâu sắc của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Review: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy có lối viết giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc. Cô viết về những điều bình dị trong cuộc sống nhưng lại chạm đến trái tim người đọc. Những suy ngẫm của cô về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc rất đáng suy ngẫm. Phần Lạc giữa nhân gian là phần mà mình yêu thích nhất. Tác giả viết về những điều bình dị trong cuộc sống, những khoảnh khắc nhỏ bé nhưng đáng nhớ, những suy ngẫm về bản thân và thế giới xung quanh. Những suy ngẫm của tác giả rất sâu sắc và đáng suy ngẫm. Tác giả viết về những vùng đất, những con người, những trải nghiệm mà cô đã gặp trên hành trình. Những chia sẻ của tác giả rất chân thành và gần gũi. Đánh giá: Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Một số ý kiến đánh giá khác: Ý kiến 1: "Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách nhẹ nhàng và sâu lắng. Cuốn sách mang đến cho mình những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. Mình rất thích cách viết của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy. Cô viết rất giản dị nhưng cũng rất tinh tế và sâu sắc." Ý kiến 2: "Mình rất thích những suy ngẫm của tác giả về cuộc sống, về tình yêu, về hạnh phúc. Những suy ngẫm đó rất đáng suy ngẫm và giúp mình có cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống." Ý kiến 3: Nhìn chung, Lạc giữa nhân gian là một cuốn sách đáng đọc. Cuốn sách mang đến cho người đọc những cảm xúc bình yên và những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống. *** Đặng Nguyễn Đông Vy, sinh năm 1979, tại Khánh Hòa. Cô là cựu học sinh của trường THPT chuyên Lê Quý Đôn – Khánh Hòa. Đặng Nguyễn Đông Vy là một cái tên không mấy xa lạ với độc giả, đặc biệt là độc giả của các tờ báo hướng đến đối tượng tuổi mới lớn: Hoa Học Trò, Báo Sinh viên Việt Nam… Đặng Nguyễn Đông Vy còn là thành viên của gia đình “Vì ngày mai phát triển” báo Tuổi Trẻ. Với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và thuần hậu đặc biệt của mình, Đăng Nguyễn Đông Vy - người phụ nữ vừa làm báo vừa viết văn đã mang đến cho độc giả những sáng tác vô cùng sâu lắng, thú vị và độc đáo. Tác phẩm chính - Hãy tìm tôi giữa cánh đồng - NXB Trẻ - Làm ơn hãy để con yên (biên dịch) - NXB Trẻ - Những lối về ấu thơ (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn - Nếu biết trăm năm là hữu hạn (viết chung với Phạm Công Luận - bút danh Phạm Lữ Ân) - NXB Hội Nhà văn Mời các bạn mượn đọc sách Lạc Giữa Nhân Gian của tác giả Đặng Nguyễn Đông Vy.
Lý Lịch Sự Vụ
“Lý lịch sự vụ” được viết từ năm 1822, từ chủ trương của Vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều, viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử. Sách gồm 2 bản, khổ 34 x 28cm, có 148 tờ tức 296 trang. Mỗi trang 12 dòng, mỗi dòng đủ có từ 32 đến 39 chữ, phạm vi ghi chép từ năm 1780 đến 1822. Một bản đã nộp vào Sử quán ngày 22 tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1822), một bản lưu chiếu tại nhà riêng. Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm. Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt, trong đó nổi bật là việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Tài liệu này cũng bảo lưu những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Đông phương Tổng trấn nước Anh, thư của vua Louis nước Pháp với nhà chức trách Việt Nam cũng như phúc tư của Việt Nam. Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngãi… Nguyễn Đức Xuyên sinh năm 1759 là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ (xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Năm 1780, ông theo tòng quân với Nguyễn Ánh, được làm đội viên đội cấm binh bảo vệ Chúa. 2 năm sau do có chiến công cùng toàn đội cấm binh truy kích quân Tây Sơn ở đồng Long Mạt nên được thăng làm nội đội Đội trưởng tòng quân tước Xuyên Đức hầu. *** Nguyễn Đức Xuyên (1759-1824) là hậu duệ đời thứ XV của dòng họ Nguyễn, khai canh làng Dương Nỗ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế; tổ tiên vốn thừa hưởng được linh khí của núi sông, truyền thống của gia tộc và thời vận của đất nước, đã có nhiều võ công lừng lẫy dưới thời Lê Trung hưng.  Năm 1822, do chủ trương của vua Minh Mạng, cho các quan từng giữ trọng trách trong triều viết lý lịch sự vụ nạp tại Sử quán để làm tài liệu viết sử, Nguyễn Đức Xuyên đã viết bản hồi ký này, gọi tên là Lý lịch sự vụ… Cách viết của tài liệu này là lối viết biên niên theo trình tự năm tháng ngày. Nội dung bao gồm đủ mọi việc liên quan đến công vụ của Nguyễn Đức Xuyên trong suốt 43 năm.  Tính chất quan trọng của bản hồi ký này thể hiện trên nhiều mặt:  Thứ nhất: Trong số các bản Lý lịch sự vụ của các trọng thần thực hiện theo lệnh của vua Minh Mạng, đến nay, chúng ta chỉ mới phát hiện được bản của Nguyễn Đức Xuyên.  Thứ hai: Việc bảo lưu những văn bản chính thức thời Nguyễn vương còn đóng ở Gia Định, và cả những văn bản triều Gia Long. Đó là những tờ truyền, tờ phó của bộ tham mưu Nguyễn Ánh, những chiếu, hịch, văn thệ sư, điều lệnh quân đội của Nguyễn Ánh, đều được viết hầu hết với lối văn Nôm có pha thành ngữ chữ Hán, vào cuối thế kỷ XVIII… Trong sách có chép lại những mật tấu của các cận thần như Nguyễn Đức Xuyên, Lê Văn Duyệt, những mật chỉ, mật chiếu của Nguyễn Ánh. Điều đó có ích cho việc tiếp cận với sự thực lịch sử khi nghiên cứu về Gia Long và vương triều Nguyễn.  Thứ ba: Phần chiếm đa số trong tài liệu là mô tả quá trình chiến đấu của Nguyễn vương, từ năm 1780 cho đến khi chiếm Thăng Long, với những trận chiến cụ thể trên các vùng đất theo cách gọi dân dã ở các địa bàn Nam Bộ, Phú Yên, Diên Khánh, Quy Nhơn, Nam Ngã  Tài liệu này tự nó có giá trị về các phương diện văn học, địa lý, đặc biệt là lịch sử cận đại, về các lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Mặt khác, sách còn chép lại những văn thư trao đổi, giao thương giữa các Tổng trấn thành Lữ Tống (Luzon, Philippines), Ma Đa Đạt (Madras, Ấn Độ), Ma Cao, Tổng trấn phương Đông nước Anh, vua Louis nước Pháp với nhà Nguyễn. Các văn bản này hầu hết do các viên quan người Pháp trong triều Gia Long dịch ra văn Nôm. Điều đó sẽ góp phần tìm hiểu về phương diện ngoại giao cũng như việc buôn bán với nước ngoài, trang bị quân sự và tình hình quan thuế buổi đầu triều Nguyễn.  Cuốn sách này sẽ dành cho độc giả quan tâm đến lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam giai đoạn nội chiến giữa Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Miêu. Đặc biệt yêu mến tìm hiểu về lĩnh vực quân sự, nội trị, ngoại giao, ngoại thương của buổi đầu thời Nguyễn.  Ảnh bìa là một trang trong bản gốc Lý lịch sự vụ của Nguyễn Đức Xuyên.  +TRÍCH ĐOẠN HAY:  10. Trong quân không được đánh bạc, uống rượu. Như ở tại đồn mà đánh bạc thời bất luận quý tiện đều đánh 100 roi, lại thu bao nhiêu tiền mà thưởng cho người đứng ra tố cáo. Uống rượu ở đồn sở thì bị đánh 100 roi, lại truất xuống làm lính bếp. Khi lâm trận đối lũy mà đánh bạc, uống rượu thời bất phân quý tiện đều xử theo quân pháp thị chúng. Bằng như lễ ban thưởng trong quân thời cho tướng sĩ yến ẩm.  11. Gián điệp ở đất địch về, tướng hiệu cũng không được hỏi, gián điệp cũng không được nói, trừ thưa chào mà thôi. Việc không được phép nói mà kẻ ngoại nhân hay đặng, thời gián điệp thám thính đều xử theo quân pháp thị chúng, để nghiêm quân cơ. ”  Mời các bạn mượn đọc sách Lý Lịch Sự Vụ của tác giả Nguyễn Đức Xuyên & Trần Đại Vinh (dịch).
Lính Bay Tập 2
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 2 của tác giả Phạm Phú Thái.
Lính Bay Tập 1
Cả hai tập hồi ký “Lính Bay”, tác giả đã tái hiện lại những trận đánh của Không quân Việt Nam, trung thực, hoàn toàn không tô hồng, không “lên gân”. Trong các trang viết là ngồn ngộn những sự kiện chân thật mà bi tráng của lực lượng không quân Việt Nam non trẻ. Trong những chiến công ấy, hoàn toàn không có cảnh “đã xuất kích là chiến thắng”; đã đánh nhau là “ta thắng, địch thua” Những trang bi tráng rất chân thật ấy khiến bạn đọc càng tin yêu hơn những người lính không quân. Người đọc cảm nhận và quý trọng những chi tiết được coi như “góc khuất” ít được đề cập đến. Lính bay, trong mắt bao người là những “người hùng”, có những “đặc quyền” riêng. Song, trong hồi ký của của Tướng Thái, phi công lái Mic cũng là những người lính như bao người lính trong các quân, binh chủng khác. Họ không phải là “lính cậu” được cưng chiều, vi phạm khuyết điểm là bị “cắt bay”. Trong thời gian bị “cắt bay”, ngoài việc phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, họ vẫn phải lao động, với những công việc nói chẳng ai tin như: đi hốt phân bò, lấy phân bắc để tăng gia sản xuất… Bản thân ông cũng đã từng trải qua những công việc như thế. Tướng Thái đã khắc họa chân thật điều kiện sống, chiến đấu của những người lính không quân nói riêng, của quân đội Việt Nam nói chung, trong những giai đoạn khó khăn của đất nước. *** Chuyện thật như cuộc đời 16 tuổi, chàng thanh niên Phạm Phú Thái được tuyển vào không quân. Gia nhập binh chủng hiện đại bậc nhất của quân đội ta khi mới học hết lớp 8, chỉ sau vài năm học lái cấp tốc Mig21 ở Liên Xô để về quần nhau với những phi công lão luyện của không quân Mỹ, tác giả không nén nổi niềm tự hào của người đã chiến đấu và chiến thắng. Có thể nói, cảm hứng tự hào chính là một âm hưởng thứ hai của bộ sách. Tự hào được tiếp nối thế hệ đàn anh, trước mình chỉ vài ba năm đã trở thành những huyền thoại của không quân Việt Nam, những Nguyễn Văn Bảy, Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh… Tự hào được sự chỉ huy của các thủ trưởng đáng kính, và cả đáng yêu nữa, như Trần Mạnh, Chu Duy Kính, Nguyễn Nhật Chiêu… Tự hào được chiến đấu bên cạnh những người đồng đội dày dạn kinh nghiệm và bề dày thành tích, như Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị… Tất cả đã làm nên một hào khí xuyên suốt cả ngàn trang sách. Nó mạnh đến mức mặc dù tác giả sớm bị bắn hạ, bị chấn thương, mặc dù ông đã phải tận mắt chứng kiến máy bay ta bị trúng đạn, đồng đội mình bị hy sinh, mặc dù ông cũng như nhiều đồng đội khác đều nghĩ rồi sẽ đến lượt mình, song không bao giờ các ông lo sợ, không bao giờ các ông lưỡng lự dù chỉ một giây trước khi lao vào chiến đấu với quân thù… Và điều tất yếu đã đến, tác giả bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên như một lẽ đương nhiên, một sự khởi đầu cho những chiến công khác nữa! Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở đó thì bộ sách của tác giả Phạm Phú Thái có lẽ đã không gây được tiếng vang lớn. Ngay khi mới ra tập 1 hồi ký đã được dư luận trong và ngoài quân binh chủng quan tâm tìm đọc. Chỉ sau một thời gian ngắn đã được nối bản, cùng với đó là sự mong chờ của đồng đội, bạn bè, người thân và bạn đọc nói chung đối với tập 2 mà tác giả đã hứa sẽ cố gắng cho ra. Điều làm nên thành công và sức hấp dẫn của bộ sách, trước hết là ở tính chân thực của tác phẩm. Bản thân tác giả cũng rất ý thức được điều đó, khi nhiều chuyện ông viết ra là những sự thực, có thể là trần trụi. Đọc Lính bay, ta mới biết rằng có khi cả một trung đoàn không quân của ta “chỉ còn một chiếc máy bay tốt” (ngày 23-2-1968). Ta mới vỡ ra rằng, không quân ta trong những năm tháng ấy luôn bị thiếu hụt, nếu không muốn nói là khủng hoảng, cả về máy bay và phi công... Cũng vậy, ta mới hiểu phi công của ta nhiều khi phải chiến đấu trong điều kiện khó khăn như thế nào, lâm vào những tình huống éo le ra sao. Chẳng hạn ở Mặt trận Khu 4, có trận máy bay ta bị hỏng tăng lực, có trận máy bay bị trục trặc ở hệ thống vũ khí, không bắn được quả tên lửa bên trái khi đã hai lần đưa được máy bay địch vào tầm ngắm! Đặc biệt, ta còn biết về những phi vụ đặc biệt của không quân Việt Nam khi sẵn sàng bay sang tận đất Lào để tiêu diệt quân Vàng Pao, hay xuất kích cảm tử để ngăn chặn máy bay B-52 của Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Qua đó, người đọc có thể hiểu được những cái giá phải trả cho chiến thắng để càng thấy sự lớn lao của chiến thắng! Khó có thể kể hết những khó khăn, vất vả, thử thách mà một phi công chiến đấu như tác giả đã trải qua những năm tháng đó. Chỉ riêng việc trực chiến trên sân bay giữa mùa hè Khu 4 đã đủ một cực hình, khi mà bầu không khí như nung như nấu, sờ vào máy bay như phải bỏng, mà người phi công phải mặc sẵn bộ đồ bay kín mít để chờ có lệnh là cất cánh! Khi lên chiến đấu thì cũng lại cả một sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Thường thì chỉ một đội hình hai chiếc hay hai cặp hai chiếc (cũng có khi ba nhưng đó là một thử nghiệm sau xét ra là không phù hợp). Thế nhưng các phi công ta luôn phải chiến đấu với đội hình máy bay đông đảo của địch, được trang bị vũ khí hơn hẳn và phương tiện chỉ huy tối tân, bài bản. Và chính ở đây đã cho thấy không chỉ sự dũng cảm mà cả tài trí của phi công Việt Nam, những người biết tìm cách lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, để đạt được mục tiêu chiến thuật. Trước hết là để ngăn chặn sự đánh phá của địch, ngăn chặn âm mưu địch dùng B-52 vào đánh ban ngày… Và sau nữa là bắn rơi máy bay Mỹ, điều khát khao của tất cả các mọi “lính bay”. Nhưng chắc chắn đó là điều không dễ, và người đọc có thể thấy được sự tôn trọng của tác giả khi viết về các đối thủ của mình- họ thực sự là những phi công thiện chiến, đã có hàng trăm, thậm chí cả nghìn giờ bay. Trong khi phi công ta vào năm tăng cường công tác huấn luyện mới đặt mức phấn đấu bay 60 giờ/năm!... Nếu như tính chân thực của tác phẩm khiến cho người đọc yên tâm khi đọc Lính bay, sự say sưa của tác giả khi kể lại quá trình được đào tạo thành phi công và các trận không chiến khiến cho cuốn sách đậm chất “chuyên môn”, thì những trang tự sự của ông về cuộc đời mình, từ tuổi thiếu niên đến khi tham gia quân ngũ, với những chuyện vui buồn của người lính và cả những xốn xang khi bắt gặp một ánh mắt “hút hồn” của người rồi sẽ là vợ mình, đã khiến cho cuốn sách của tác giả Phạm Phú Thái có nhiều tố chất của một tác phẩm văn học đích thực. Hay nói như một đồng đội đàn anh của ông, Trung tướng Anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc, đó là “những trang viết rất chân thực nhưng cuốn hút như tiểu thuyết!”. *** Phạm Phú Thái sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh là cụ Phạm Thuần, tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội năm 1927, Đảng viên năm 1930. Cụ từng là Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Phú Thọ. Cụ đã từng bị Thực dân Pháp bắt giam và bị tù đày ở nhiều nhà lao lớn như Hoả Lò, Sơn La, Côn Đảo từ những năm đầu của cuộc cách mạng. Về nước năm 1968, anh được làm phi công tiêm kích số 2 cho Đại đội trưởng Phạm Thanh Ngân, bay số1, (là AHLLVT, sau này là Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị  QĐNDVN); còn vị trí số 3 trong phi đội chính là Đặng Ngọc Ngự (sau này cũng là AHLLVT). Cuộc đời sự nghiệp của ông, nhiều người cứ ngỡ rằng chàng phi công đẹp trai, tài cao như Phạm Phú Thái sẽ tiến như diều do có "bệ phóng" của một gia đình truyền thống cách mạng từ những năm 1930. Nào ngờ về nước gần một năm, dù được bay ở vị trí phi công tiêm kích nhưng anh vẫn chỉ đeo lon binh nhất, rất khác mọi người bởi chí ít, lúc đó anh cũng đã có 3 tuổi quân kể từ ngày vào quân đội. Và có lẽ vì anh ra trường quá sớm so với bạn đồng khoá nên thủ tục thăng hàm lại cũng chưa làm luôn cho anh? Sau vài trận không kích, anh đã bị tên lửa  địch bắn trúng và buộc anh phải nhảy dù.  Vị Huyện đội trưởng Thanh Chương ở Nghệ An khi làm biên bản đã hỏi tên, tuổi, cấp bậc, đơn vị... của anh sau khi anh nhảy dù xuống địa phận này, họ đã sững người vì thấy anh mở mắt ngồi dậy rồi báo cáo: "Tôi, Phạm Phú Thái, binh nhất, phi công tiêm kích!". Họ lại cứ tưởng anh giấu, không muốn  lộ bí mật nên cứ "năn nỉ" thuyết phục anh trình báo thật về cấp bậc của mình để còn báo cáo về Hà Nội khiến anh bực mình và cũng không biết nói sao. Thế rồi anh Huyện đội trưởng nọ vẫn không tin, phải ghé tại hỏi thầm "Vậy là anh nói thật đấy à ?". Và, sau khi một lần nữa khẳng định phi công Phạm Phú Thái đã nói đúng sự thực thì anh ta thốt lên: "Lạ thật, cầm cả cái tàu bay đắt tiền là thế, sao lại chỉ binh nhất được cơ chứ? Không thể tin được!". Cuối cùng thì viên Huyện đội trưởng cũng gật gù đỡ anh nằm xuống giường rồi nói: "Nếu đúng là như vậy thì Không quân Nhân dân Việt Nam anh hùng quá !"... Sau trận đánh khiến anh bị thương và buộc phải nhảy dù. Khi nằm Viện Quân y 108, anh đã khẩn thiết "van vỉ "đề nghị bác sĩ đừng làm thủ tục thương binh cho anh để anh còn có cơ hội được trở về đơn vị tham gia chiến đấu ... Thật là thú vị với những trang viết chân thật nhưng lại đầy chất văn học từ một vị tướng đánh trận, rất đáng đọc! Mời các bạn mượn đọc sách Lính Bay Tập 1 của tác giả Phạm Phú Thái.