Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vua Mèo - Đào Hiếu

Vua Mèo là một người đàn ông trung niên, quan hệ với nhiều đàn bà nhưng suốt đời bị ám ảnh bởi kiếp người phù du. Ông là một người uyên bác nhưng lúc say lúc tỉnh, lúc thông thái lúc ngu đần. Lọ Lem là một cô gái hoang dã, vừa sống trong rừng với rắn rít vừa sống ngoài đời với loài người. Tuy nhiên dù ở môi trường nào cô cũng sống hồn nhiên như cây cỏ. Ngày kia chiếc xe của cô tình cờ đâm phải Vua Mèo khiến ông ta bất tỉnh nhiều ngày trong bệnh viện. Khi tỉnh lại, Vua Mèo chạy trốn và Lọ Lem đi tìm ông, dẫn ông vào ở chung trong khu vườn đầy rắn của mình. Vua Mèo càng lúc càng bị ám ảnh bởi cái chết và càng trở nên cô độc. Cùng lúc, Lọ Lem bị cuốn dần vào cuộc sống xô bồ ngoài phố. Vua Mèo bỏ đi tìm một thứ ảo ảnh nơi một hòn đảo huyền thoại. Khi Lọ Lem trở về thì chỉ còn ngôi nhà hoang và bầy rắn độc. Cô liều bơi ra đảo tìm Vua Mèo và họ đã gặp nhau ngoài hoang đảo ấy *** Không biết trong lý lịch nàng tên gì, nhưng mọi người gọi nàng là Lọ Lem vì thấy nàng ăn mặc xoàng xĩnh và không mấy khi nghĩ đến chuyện trang điểm. Tuy vậy, nàng là một thiếu nữ có nhan sắc. Các chàng trai thường rình mò theo dõi chỗ ở nhưng nàng lánh mặt họ một cách tài tình. Có kẻ đã theo tới sát bờ biển, bỗng thấy nàng mất hút trong một xóm chài. Có người từng ngồi đợi trên bờ biển từ năm giờ sáng đến tám chín giờ, không thấy bóng dáng, tưởng hôm đó nàng bệnh, bèn về cơ quan thì đã thấy nàng ngồi ở đó rồi. Liền hỏi. -Cô đến đây bằng lối nào vậy? -Lối thường lệ. -Nhà cô ở xóm chài phải không? -Ở dưới biển. Lọ Lem tiếp tục đánh máy chữ. Cái máy chữ lớn chạy bằng điện, mười ngón tay lướt nhẹ, tạo ra tiếng kêu lách tách. Chàng nọ bỏ đi và nói với bạn bè: -Ðó là cô tiên trên trời bị đày xuống trần gian. Bạn bè gồm bốn năm người ngồi ở quán cà phê dưới gốc những cây nhãn um tùm. Một thanh niên cao lớn ngồi lặng thinh trên chiếc ghế mây nghe chuyện một cách phớt tỉnh. Anh ta hút thuốc lá và nhìn ra phía biển. Buổi sáng trời âm u, mặt biển xám xịt, trầm lặng. Anh ta nói: -Tao có thể nói với tụi bay rằng Lọ Lem là một người cá chính cống. Chính mắt tao đã nhìn thấy cô đùa giỡn với một con cá heo ngoài khơi. Mọi người nhìn chàng trai với vẻ hoài nghi. -Mày nhìn thấy lúc nào? -Lúc chín giờ đêm. -Mày làm gì ngoài khơi lúc chín giờ đêm? -Ði câu. Một mình một xuồng nhỏ. Lúc ấy trăng bắt đầu lên và biển lặng. Không có chút gió. Bỗng tao nghe tiếng cười khúc khích của một cô gái. Tao nổi da gà, tắt phụt ngọn đèn dầu và ngồi thụp xuống quan sát chung quanh. Tự nhiên mặt biển nổi sóng, dưới ánh trăng lung linh, tao nhìn thấy cái bụng trắng ngời của con cá heo. Nó phóng lên cao, lấp lóa ánh trăng rồi nhào xuống nước mất dạng. Lúc ấy tiếng cười của cô gái lại nổi lên. Rõ ràng là giọng cười của Lọ Lem. Rồi tao thấy thân hình mềm mại của cô gái hiện ra, lướt đi trên những gợn sóng. -Thực hay đùa? -Thực trăm phần trăm. -Cô ta có mặc gì trên người không? -Hoàn toàn khỏa thân. Tóc dài, uyển chuyển trong sóng nước trông thật kỳ ảo, lạ lùng. -Nhưng có thể đó chỉ là một mỹ nhân ngư, đầu người đuôi cá. -Không phải. Một cô gái. Cô Lọ Lem chứ không ai khác. -Mày nhận ra tiếng cười à? -Ừ. Tiếng cười. -Nhưng tiếng cười có thể bị lầm lẫn. -Cả giọng nói nữa, anh chàng to lớn khẳng định. Lúc con cá heo bơi đi quá xa, cô gái bèn gọi nó: “Rita! Rita! ” rồi nàng huýt sáo, thế là con vật quay trở lại. Lúc đến gần cô gái, nó phóng lên cao che khuất mặt trăng và cái bụng trắng nõn của nó lại sáng lấp lóa. Cô gái cười khúc khích. Anh chàng vừa theo đuổi cô gái về, ngồi nghe say mê, mắt không chớp, nín thở, người chồm tới, những chàng trai khác thì thích thú quan sát chàng nọ với vẻ châm chọc. Họ không tin câu chuyện kể kia nhưng họ không bài bác, trái lại họ rất thích thú và bịa ra những chuyện khác. Ví dụ: -Cô ta là con dã tràng hóa thân. Tôi đã theo nhiều lần và thấy cô ấy đi về phía cồn cát. Khi có một cơn gió xoáy thì cô ta biến mất trong cát. Bao giờ cô ta cũng biến mất trong cát. -Chui dưới cát? -Dĩ nhiên là không. -Vậy thì làm sao mày biết cô ta biến vào cát? -Chắc chắn là cô ta biến mất trước khi ra đến biển. Lúc ấy chạng vạng tối. Thực ra thì cô ta về sớm hơn nhưng vì thấy có người theo dõi nên cô ghé chỗ này chỗ nọ. Mình không nản lòng. Cô dừng thì mình dừng, cô đi thì mình đi. Ðến chiều thì cô ra đến cồn cát. Gió thổi lồng lộng, mình nép vô bụi gai. Cô tưởng không còn ai theo nên đi nhanh về phía biển, ngược gió. Tóc bay tơi bời, quần áo cô dán vào da thịt, vậy mà cô lướt nhẹ như chiếc lá. Mình chạy đuổi theo, cồn cát mênh mông không một bóng cây, không một mái nhà, không một bóng người, thế mà cô ta cứ lướt đi như con diều. Có lúc mình tưởng như cô ta mất hút trong bóng chiều. Mình sợ. Nhưng không thể lui được nữa. Mình chạy bay tới, chỉ còn cách cô có vài thước. Thế là cô quay lại, cười khúc khích. Chợt đâu một cơn lốc xoáy cuộn đến, cát tung mù mịt, cát bắn vào da đau điếng. Mình phải ngồi thụp xuống ôm mặt một lúc khá lâu. Khi gió lặng, mở mắt ra thì cô gái đã biến mất, còn lại mỗi mình giữa cồn cát tối mịt. Mình cắm đầu chạy, cỏ gai cắt nát bàn chân. Gió cứ hú từng cơn. Rõ ràng là cô ta đã biến mất trong cát như con dã tràng. -Cũng có thể cô ta theo cơn lốc xoáy lên trời. -Không. Trên trời lúc ấy không có gì ngoài ráng chiều đỏ như máu. Cái màu đỏ ấy làm mình khiếp đảm. Một chàng trai khác lại nói: -Tôi thì đuổi theo tận khu rừng. Các bạn có đến đó bao giờ chưa? -Tôi nhìn thấy nó từ ngoài biển. -Tôi theo đến tận nơi những không thể xâm nhập vào khu rừng ấy được. -Vì sao? -Rắn. Ðó là giang sơn của rắn. Không phải chỉ có dưới đất. Cô ta vừa lẫn vào rừng bạch đàn là tôi bám theo liền. Bỗng nhiên từ trên cành cây thòng xuống một con rắn hổ đất. Nó thở phì phì, mang bạnh ra, vươn cổ đến sát mặt tôi. Rồi những tiếng phì phì như thế nổi lên khắp nơi. Cây cỏ xung quanh xao động. Trong bóng chiều lờ mờ tôi nhìn thấy đàn rắn độc đang trườn tới chỗ tôi đứng. Tôi quay đầu chạy. Trời ơi, thế mà cô ấy đi vào rừng thảnh thơi như không. -Thôi, đừng xạo, một chàng trai có gương mặt khắc khổ, buồn rầu nói, tất cả những gì các anh nói từ nãy giờ đều xạo hết. Lọ Lem là một cô gái bình thường như mọi cô gái, là bạn của tôi và tôi rất yêu Lọ Lem. -Nhưng vấn đề là cô ấy có yêu mày không? -Ðiều đó không quan trọng. Cũng như chuyện nàng ở đâu, con cái nhà ai đối với tôi không quan trọng. -Vậy cái gì mới là quan trọng? -Sự có mặt của Lọ Lem trên đời này là quan trọng. Cũng như sự có mặt của biển trên trái đất. Người thanh niên cao lớn lúc nãy cười khẩy, đánh một que diêm và đưa ra giữa mọi người. Anh ta nói to: -Mặc kệ các vị tin hay không tin, tôi xin thề rằng những điều tôi nói là sự thật. -Tôi cũng xin thề. -Xin thề. Mọi người đều đốt thuốc từ lửa của que diêm ấy, chỉ có chàng trai khắc khổ và si tình kia thì lẳng lặng đứng lên và bỏ đi một mình về phía biển. o O o Anh ta là một nhân viên cùng cơ quan với Lọ Lem. Nhà xa, nên buổi trưa phải ở lại. Anh đem cơm theo ăn và nghỉ trưa trên bàn làm việc. Lọ Lem thì chọn cái kho giấy. Ðó là một căn phòng rộng thênh thang, giấy cuộn chất cao như núi. Giữa những cuộn giấy khổng lồ trắng tinh ấy là những khoảng trống. Lọ Lem thích nằm ở đó vì giống như nằm trong hang đá và vì giấy có mùi thơm riêng của nó, gợi cho cô nhớ tới mùi gỗ bạch đàn trong khu rừng mênh mông của cô. Chàng trai thì nằm và nghĩ về cô gái. Chàng ít khi ngủ được và thường chỉ nằm độ mười phút là trở dậy. Cuối cùng chàng quyết định đến kho giấy để trò chuyện với Lọ Lem. Trước đây chưa bao giờ chàng dám có ý nghĩ táo bạo như thế. Chàng leo lên những cuộn giấy lớn và tìm kiếm những hang hốc. Chàng huýt sáo và nằm rạp xuống chờ đợi. Vẫn im lặng, chàng lại gọi: -Lọ Lem ơi! Lọ Lem! Vậy là nghe tiếng cười: -Xuống đây! Cô gái nói. Tôi biết chỗ anh trốn rồi. Nhưng chàng vẫn chưa phát hiện ra chỗ của Lọ Lem. Chàng nhảy liều xuống và ngạc nhiên khi thấy cô đang thay áo. Lọ Lem chẳng có vẻ gì là mắc cỡ. Cô nói: -Vô đây. Rồi cô nắm tay chàng kéo vào cái hang nhỏ xíu của mình. Cô gái mới chỉ cài được có một cái cúc áo vì thế chàng thấy thấp thoáng cái rún phẳng lặng và xinh đẹp của cô. Cô gái nói: -Tôi mắc cột tóc. Anh cài nút áo giúp tôi đi. Chàng trai run lên và không cài được cái nào cả. -Sao thế? -Sợ. -Sợ gì? -Không biết sợ gì. -Có gì mà sợ. Chàng trai nóng mặt. Lọ Lem tự cài nút áo cho mình rồi bảo chàng ngồi xuống chiếu. -Anh ăn trưa chưa? -Rồi. -Ăn thêm với tôi? Chàng trai nhìn cô gái đăm đăm và hỏi: -Người ta nói cô ăn chay phải không? -Tôi ăn uống bình thường như mọi người. -Nhà ở đâu? -Anh giữ lý lịch của tôi mà. Trong đó có ghi địa chỉ. -Nhưng cô không ở đó. Người ta nói cô ở dưới biển, có người nói cô ở trong cồn cát, người khác bảo cô ở trong rừng bạch đàn. Thế cô ở đâu? -Tôi ở nhà tôi. -Hôm nào tôi đến nhà chơi, được không? -Không được. -Sao vậy? -Tôi không thích. Cô lấy trong gói giấy ra mấy trái xoài chín. Chàng trai cúi đầu ngẫm nghĩ rồi lại đăm đăm nhìn cô gái. Lại hỏi: -Lọ Lem theo đạo Phật phải không? -Không theo đạo gì cả. -Sao ăn chay trường? -Có ăn chay đâu. Nhưng tôi thích trái cây. Chàng trai lại im lặng. Chàng thở dài, mặt buồn hiu, khốn khổ. Lại nói: -Này, Lọ Lem. -Gì vậy? -Cô có yêu ai chưa? -Yêu để làm gì? -Yêu thích lắm Lọ Lem ạ. Cũng giống như tôi yêu cô vậy. Tức là thấy nhớ. Muốn gặp gỡ nói chuyện. Nhất là nhớ. Nhớ lắm. Lọ Lem đang gọt xoài chợt ngừng tay nhìn sững chàng trai. -Sao anh không cho tôi hay? -Tôi sợ cô giận. -Không giận đâu. Có gì anh cứ nói, tôi sẽ giúp. -Vậy thì tôi yêu cầu thế này nhé, cô đừng ngồi ở góc phòng mà ra ngồi gần hành lang. -Chi vậy. -Ðể mỗi lần tôi đi ngang qua có thể nhìn cô được. -Anh thấy tôi đẹp lắm hả? -Ðẹp. -Tôi cũng thấy tôi đẹp. Cuộn giấy rung rinh, tiếng ai thở nặng nhọc. Hai người cùng ngước nhìn, thấy một cái mặt đàn bà sồn sồn khô đét hiện ra. -Ai nói chuyện gì rầm rì vậy? -Dạ em đây, chị Mỹ. Chàng trai nói. -Cậu vô kho giấy làm gì? -Em có chuyện cần bàn với cô Lọ Lem một tí. -Chuyện gì để đến giờ làm việc hãy bàn. Ðây là chỗ đàn bà con gái ta nghỉ trưa, cậu mò vô làm gì? Lọ Lem mút hột xoài, mật dính quanh mép: -Em gọi ảnh vô đấy, chị Mỹ ơi. -Tôi không nói chuyện với cô, cô bé dở hơi à. Còn bây giờ thì tôi bảo cậu đi ra. Có đi không? Chàng trai chu mỏ lại chọc quê bà và chạy trốn mất biệt sau các cuộn giấy lớn. Bà Mỹ tức điên lên, quay ngoắt người lại, cuộn giấy rung rinh và từ từ lăn đi. -Ối! Ối! Chặn nó lại, Lọ Lem ơi! Chặn nó lại giúp chị với. Lọ Lem bước đến bên cuộn giấy và thay vì chặn nó, cô cứ thong thả đi theo nó, vừa đi vừa ngắm nhìn người đàn bà đang cuống cuồng, giữ thăng bằng, cô nói: -Chị hãy tưởng tượng mình là con chuột bạch đang quay vòng, chị sẽ thấy rất thích thú. Nhanh một tí nữa nhé? Lọ Lem đẩy nhẹ một cái, vỗ tay cười như trẻ con. o O o Hôm sau chàng trai lại đột nhập vào kho giấy. Lọ Lem đi chợ chưa về nên chàng trải chiếu ra và nằm xuống, lúc ấy chàng mới biết là ngay trên đầu mình có một sợi dây căng giữa hai cuộn giấy, ở giữa treo một cái quần xoa màu đen, chàng ngắm nó rồi nghiêng người sờ soạng trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh mà Lọ Lem vứt bừa bãi chung quanh chỗ nằm. Mấy cái cuộn tóc bằng nhựa, hộp xà bông, cái ly uống nước. Ở mép chiếu tự nhiên lòi ra mấy tờ giấy bạc. Chàng moi trong xó ra thấy rải rác chỗ này vài trăm, chỗ kia năm bảy chục, chỗ nọ vài ngàn, khi thì tiền lẻ, khi thì tiền chẵn, bạc mới bạc cũ lẫn lộn nhàu nát. Chàng gom lại được hơn bảy ngàn và bó lại một bó cất trong gối của Lọ Lem. Lúc cô đi chợ về chàng nói: -Tôi đến xem cô có tiền mượn đỡ vài ngàn. Lọ Lem đặt gói giấy xuống chiếu, moi tìm trong xó một lúc: -Tôi để lộn đâu đó, lát tìm cho. -Thế cái gì trong gối vậy? Lọ Lem cười: -A, tôi cất trong bao gối mà tôi lại quên. Cô lôi gói bạc ra, không hề ngạc nhiên. Cô tháo cọng thun, thảy xấp bạc ra chiếu. -Chắc chắn là hơn hai ngàn. Lọ Lem nói. -Tiền của cô mà cô không biết là bao nhiêu à? Lọ Lem lấy trái cây để lên chiếu rồi đưa hai ngàn cho chàng trai. Chàng bỏ tiền vào túi mình rồi lấy dao gọt vỏ trái cây. Lúc hai người đang ăn đu đủ thì phía ngoài kho giấy có tiếng bước chân đi qua đi lại và tiếng đằng hắng. Lọ Lem lấy một trái cam bảo chàng trai đem đưa cho bà Mỹ nhưng khi chàng vừa ló đầu ra khỏi những cuộn giấy thì người đàn bà đã quay mặt và bỏ đi thẳng lên lầu. Hôm sau chàng trai bỏ năm ngàn trong cái phong bì, đưa cho Lọ Lem: -Trả cô hai ngàn. Lọ Lem bỏ phong bì vào xách tay. Chàng trai hỏi cô đã đi chợ chưa. Lọ Lem bảo chưa và họ rủ nhau đi. Cô đến hàng trái cây quen thuộc và mua một ít sa-pô-chê, mãng cầu dai và hạt dẻ. Lúc tính tiền người bán hàng nói: -Cô cho hai ngàn. Lọ Lem móc cái phong bì trao cho người đàn bà rồi kéo tay chàng trai đi. Chàng hỏi: -Mua trái cây hết bao nhiêu vậy? -Hai ngàn. -Nhưng trong phong bì có năm ngàn. Chàng trai kéo tay Lọ Lem nhưng cô đã gỡ ra, nói: -Thôi đi về. Ngày mai sẽ đòi. Hai người lại chui vô cái hang của mình và ăn trưa với nhau. Ăn xong Lọ Lem bảo chàng trai kiếm cái quạt. Chàng nhìn quanh quất một lúc, cuối cùng lôi từ trong kẹt ra một cái quạt giấy. Lọ Lem nằm sấp xuống chiếu và bảo chàng trai. -Anh quạt cho tôi đi. Chàng ngồi xếp bằng bên cạnh cô gái và quạt. Chỉ một lúc sau Lọ Lem đã ngủ. ... Mời các bạn đón đọc Vua Mèo của tác giả Đào Hiếu.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc
Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Như đã thoả thuận, vào hồi 9 giờ sáng ngày hôm sau Villamizar tới Medellin một đêm hoàn toàn không ngủ. Đó là một bữa tiệc hồi sinh. Đến 4 giờ sáng khi chỉ còn lại hai người ở trong phòng, Maruja và Villamizar đều hưng phấn trao đổi về những kỉ niệm xưa cho tới khi trời gần sáng. Tại trang trại La Loma khách luôn được đón tiếp bằng bữa tiệc thịnh soạn, nhưng bây giờ trong bữa tiệc có cả rượu sâm banh để chúc mừng Maruja được trả tự do. Tuy nhiên, đó là một cuộc nghỉ ngơi ngắn, vì khi đó Pablo Escobar rất vội, ẩn nấp tại một nơi nào đó trên thế giới, không chiếc lá chắn là những con tin. Sứ giả mới của ông là một người rất cao to, tóc vàng, râu dài màu hung hung, nói nhiều, người ra gọi ông ra với cái tên Mono. Ông nói, ông có toàn quyền để đàm phán về việc ra đầu thú của Escobar.   Theo sự sắp đặt của tổng thống César Gaviria, trong suốt quá trình thảo luận về mặt pháp lý với những luật sự của Escobar đều tiến hành thông qua bác sĩ Carlos Eduardo Meija với sự hiểu biết của Bộ trưởng Tư pháp. Để đầu thú về mặt thể xác, Meija hành động theo thoả thuận với Rafael Pardo, người thay mặt chính phủ, và phía bên kia do Jorge Luis Ochoa đại diện. Mono và chính Escobar từ trong bóng tối. Villamizar tiếp tục đóng vai trò trung gian giữa Escobar và chính phủ, cha Garcia Herreros là người bảo trợ tinh thần cho Escobar, cha luôn sẵn sàng cho những vấp váp khẩn cấp.   Sự hối thúc của Escobar để Villamizar có mặt tại Medellin ngay sau ngày Maruja được trả lại tự do làm cho mọi người nghĩ rằng việc ra đầu thú của Escobar sắp xảy ra đến nơi, nhưng liền sau đó hoá ra không phải, vì còn thiếu một số chi tiết về việc giải trí cho Escobar, trong thời gian bị giam. Sự quan tâm lớn nhất của tất cả, trước hết là Villamizar là không xảy ra chuyện gì trước khi Escobar ra đầu thú. Villamizar biết rằng Escobar hoặc những người sống sót của ông ra có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của mình vì thiếu sự hoài nghi tối thiểu vào lời nói.   Sự băng giá để bị phá vỡ bởi chính Escobar khi ông gọi điện thoại tới trang trại La Lome, ông chào một cách thoải mái:   - Xin chào bác sĩ, Villamizar, ông vui lòng chứ? Villamizar chưa khi nào nhìn thấy Escobar mà cũng chưa khi nào nghe ông ta nói.   Ông cảm thấy cảm động và tuyệt đối tin tưởng vào tiếng nói hoàn toàn xa lạ.   “Tôi rất cảm ơn vì ông đã tới” – Escobar nói tiếp không đợi trả lời, với điều kiện sống của đời thường và giọng nói chói tai của những người chăn nuôi gia súc nơi thảo nguyên. “Ông là người giữ đúng lời hứa, chắc ông không làm tôi thất vọng”, ngay lập tức ông vào đề:   - Chúng ta bắt đầu thu xếp việc tôi ra đầu thú như thế nào? ... Mời các bạn đón đọc Tin Tức Về Một Vụ Bắt Cóc của tác giả Gabriel García Márquez.
Tiểu Thư Victoria
Trong tác phẩm Tiểu thư Victoria, Hamsun miêu tả câu chuyện tình bi thảm của giới trẻ, ý thức của họ về mất mát và khao khát, với sự đồng cảm và chia sẻ. Đó là câu chuyện tình yêu lãng mạn, say đắm của Johannes - con trai một thợ xay bột mì nghèo và nàng Victoria xinh đẹp, con gái một chủ lâu đài. Nhưng số phận trớ trêu đã khiến họ không thể đến được với nhau. Những định kiến xã hội về tầng lớp, gia đình và những biến cố dữ dội xảy ra trong cuộc đời Victoria đã đem lại một câu chuyện buồn... Chuyện hấp dẫn người đọc với đầy đủ trạng thái của cảm giác, với hình ảnh sinh động và ngôn ngữ đầy sáng tạo. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Con trai người thợ xay bột mì vừa đi vừa suy nghĩ. Đó là một cậu bé có đôi vai rộng, khoảng mười bốn tuổi, da rám cháy vì gió và mặt trời, là một người có tài phịa ra đủ các chuyện. Lớn lên, cậu sẽ theo nghề làm diêm. Nghề này rất nguy hiểm, không thể đùa với nó được, vì hễ để lưu huỳnh dính vào các ngón tay, sau đó sẽ không một người nào đủ dũng cảm chìa tay cho anh bắt. Thế nhưng anh lại được bạn bè kính trọng vì thông thạo một nghề đáng sợ như vậy. Cậu vào rừng thăm các con chim của mình. Chim chóc ở đây đều là bạn cũ của cậu, cậu biết chỗ chúng làm tổ, hiểu ngôn ngữ chúng và biết bắt chước tiếng chúng để trả lời. Cậu thường cho chúng ăn các viên bột mì được xay ở chiếc cối xay nhà cậu. Những hàng cây mọc theo lối đi cũng là bạn cũ của cậu. Mùa xuân cậu lấy nhựa cây, còn mùa đông thì cậu chăm sóc chúng một cách tận tâm, rung tuyết khỏi cành để chúng khỏi gãy vì nặng. Thậm chí ở tít trên đỉnh núi, trong cái hang trước kia là nơi khai thác đá, không có hòn đá nào cậu không biết rõ. Cậu khắc chữ lên mặt các phiến đá rồi xếp lại theo thứ tự: tảng lớn chính giữa là ông linh mục, còn các tảng bé xung quanh là các con chiên ngoan đạo. Nói chung, cái hang đá bị bỏ quên này đã được chứng kiến đủ các trò chơi lạ lùng của cậu. Lúc này cậu đang rẽ sang bên và đi xuống bờ đập. Bánh xe của chiếc cối xay chạy bằng nước đang quay, tạo nên những tiếng ồn kinh khủng. Cậu thường đi dạo ở đây, vừa đi vừa nói chuyện thành tiếng với chính mình. Cậu có cảm giác như mỗi chiếc bong bóng nhỏ đều có cuộc sống riêng của mình, và có thể nói về một điều gì đấy, còn dòng nước tràn qua đập đổ xuống thì mỏng và thẳng đứng như những bó sợi trắng lấp lánh treo trên dây. Ở quãng sông phía dưới bờ đập có cá, và cậu đã nhiều lần tới câu ở đó. Lớn lên, cậu sẽ làm nghề thợ lặn. Chỉ làm nghề thợ lặn thôi, chứ không làm gì khác. Từ boong tàu, cậu sẽ nhảy ùm xuống biển để lạc vào một thế giới kì diệu, nơi các con sóng làm đung đưa các khu rừng hoang dã, còn tận dưới đáy là một lâu đài nguy nga bằng san hô, sẽ có một công chúa đứng bên cửa sổ lâu đài vẫy tay bảo cậu: "Mời chàng vào!"... Nhưng đúng lúc ấy cậu bỗng nghe có tiếng người. Đó là tiếng bố cậu đang gọi to: "Juhannes!". - Có người từ lâu đài tới tìm con. Họ cần người chở các cô cậu sang đảo. Juhannes vội rảo bước về phía lâu đài. Thế là cậu con trai của người thợ xay bỗng nhiên nhận được một ân huệ lớn. Trong thực tế, khu nhà của ông chủ trông chẳng khác gì một lâu đài nhỏ, một lâu đài đơn độc, huyền ảo giữa rừng xanh. Một dãy các cửa sổ hình bán nguyệt chạy dài theo tường và mái nhà dốc đứng của ngôi nhà gỗ được quét sơn trắng. Mỗi lần có khách, một ngọn cờ được cắm trên đỉnh chiếc tháp hình tròn. Khu nhà này được nhân dân trong vùng gọi là lâu đài, với một bên là bờ vịnh, bên kia là rừng rậm, còn thấp thoáng phía xa là những túp lều nông dân nhỏ bé. Juhannes gặp đám trẻ con nhà quyền quý ở bến và giúp chúng lên thuyền. Cậu biết chúng từ lâu - đó là con của ông chủ lâu đài và các bạn bè của họ từ thành phố tới. Mọi người đều đi giày cao cổ, và khi thuyền tới đảo, chỉ một mình Victôria - lúc ấy mới mười tuổi - đi đôi giày bé tí, nên chắc ai đó phải bế cô lên bờ. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Thư Victoria của tác giả Knut Hamsun.
Tiếng Nói Trong Nhà
Tiếng nói trong nhà được giải Nobel vǎn chương nǎm 1938. Jessica là con gái của bà bếp và người lái xe cho luật sư William Asher, ở Manchester, Vermont, Mỹ.  Khác với bố mẹ là những người quê mùa cục mịch, Jessica rất thanh mảnh, xinh đẹp. Lớn lên trong khu nhà của chủ nhân, Jessica được ông bà William thương mến, được gởi vào trọ học tại một Dòng Tu Nữ ở Canada. Cô hằng nuôi mộng được là con gái của chủ nhân.  Đến tuổi cập kê, Jessica bị mẹ ép gả cho Herbert, anh tài xế mới (thay thế cho bố cô đã từ trần). Bất mãn vì phải lấy một anh chàng thô lỗ, vô học, người ngợm như một con gấu, chỉ biết tình dục là trên hết, Jessica đã hoá điên.  Trong những lúc điên loạn, cô phát ngôn bừa bãi, và gieo vào lòng mọi người trong nhà mối nghi ngờ về mối quan hệ bất chính giữa cô và Edwin, cậu con trai thứ của ông William, cũng như giữa cô và ông chủ.  Phải chǎng đó là phản ứng qua mạnh của Jessica về một mộng mơ không được thoả mãn.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** N gôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biên thành phố Manchester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngay người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh.   Ngôi nhà của dòng họ Winter rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng tây. Nhờ mỏ vàng và thiết lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà.   Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thơi gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia. Ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, ba Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó.   Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thương tiếc rẻ vì trong mùa he chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manchester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Nói Trong Nhà của tác giả Pearl S. Buck.
Tầng Đầu Địa Ngục
Bản dịch khác: Vòng Đầu Tác giả: Aleksandr Solzhenitsyn NXB Ngàn Khơi, 1971 Dịch giả: Vũ Minh Thiều Nguyên tác: В круге первом (1968) Tác phẩm Tầng đầu địa ngục do Nhà xuất bản Đất Mới chúng tôi gửi tới tay bạn đọc được dịch theo bản Anh văn The First Circle do Nhà Bantam Books ấn hành. Quyển này dày 674 trang và gồm 87 chương. Như các bạn đã thấy, tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện. Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm. Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý. Trân trọng cám ơn bạn đọc. Nhà xuất bản Đất Mới. *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post [2], Time [3]. NewYork Times [4] *** Đôi kim đồng hồ chỉ bốn giờ năm phút. Trong ánh sáng hấp hối của một ngày tháng Chạp, mặt đồng của chiếc đồng hồ đặt trên giá trông như có màu đen. Hai cánh cửa kiếng của khung cửa sổ cao nhìn xuống dãy phố đông đảo, nhộn nhịp bên dưới, nơi những người gác cửa đang dồn những mảnh tuyết nâu lại thành từng đống, tuyết tuy mới rơi nhưng đã ướt và dơ bẩn, những cây cào gỗ đẩy tuyết ngay dưới chân những người qua đường. Innokenty Volodin, cố vấn Quốc gia đệ nhị, nhìn ngây xuống cảnh đó nhưng không ghi nhận gì hết, chàng đứng dựa vài vào thành cửa sổ, miệng khẽ huýt gió một điệu nhạc mệt mỏi. Những ngón tay chàng lật mở từng từ giấy trắng bóng, in sặc sỡ nhiều màu của một tập san ngoại quốc. Nhưng mắt chàng cũng không nhìn thấy những hình ảnh in trên những trang báo đó. Cố vấn Quốc gia đệ nhị hạng Innokenty Volodin, chức vụ này của chàng trong ngành ngoại giao tương đương với cấp Trung tá trong quân đội, là một thanh niên cao và mảnh mai. Không bận đồng phục và bận bộ y phục may bằng một thứ hàng len dệt, trông chàng có vẻ là một công tử hào hoa hơn là một viên chức trung cấp trong Bộ Ngoại giao. Bây giờ đã đến lúc chàng phải bật đèn trong văn phòng nếu chàng muốn ở lại làm việc ngoài giờ, nhưng chàng không bật đèn, hoặc rời văn phòng để về nhà. Chàng cũng không để lộ vẻ gì là sửa soạn ra về. Bốn giờ chiều không có nghĩa là giờ làm việc trong ngày đã hết, bốn giờ chiều chỉ có nghĩa là ánh sáng của một ngày đã tắt, hoặc mờ đi, vào giờ nay tất cả mọi người đều về nhà ăn bữa tối để rồi bắt đầu từ mười giờ đêm, cả ngàn khung cửa sổ của sáu mươi nhăm cơ quan chính phủ ở Mạc Tư Khoa lại sáng đèn. Chỉ có một người, một người mà thôi, sống ở giữa khoảng một tá tường thành ở Mạc Tư Khoa, không ngủ được ban đêm, và người này đã làm cho tất cả những viên chức chính phủ lớn nhỏ ở Mạc Tư Khoa cũng phải thức với y cho tới ba, bốn giờ sáng. Vì đã biết rõ thói quen thức đêm của Vị Chúa Tể, đêm nào cũng vậy, khoảng ba mươi ông Tổng trưởng ngồi như những chú học trò được gọi đến tên. Để cho khỏi buồn ngủ, những ông Tổng trưởng này hành hạ những ông phụ tá, những ông phụ tá hành hạ những ông trưởng phòng và những nhân viên phụ trách lưu trữ hồ sơ vất vả leo lên những bậc thang mở những ô kéo tìm những tấm phiếu lý lịch hồ sơ, trong hành lang có những viên thư ký hấp tấp đi lại và trong văn phòng có những viên thư ký hồi hộp làm gãy những ngọn viết chì. ... Mời các bạn đón đọc Tầng Đầu Địa Ngục của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.