Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ông Già Goriot - Honore de Balzac

Ông Già Goriot là một tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1835 của nhà văn Pháp Honoré de Balzac. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng (Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời (La Comédie humaine). Lấy bối cảnh là kinh đô Paris năm 1819, Ông Già Goriot đề cập tới số phận của ba nhân vật, ông lão Goriot, tên tù khổ sai vượt ngục Vautrin và anh sinh viên luật Eugène de Rastignac. Tiểu thuyết này được coi là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của Balzac, nó lần đầu tiên cho thấy ý định của nhà văn trong việc nối kết các tác phẩm riêng lẻ của bộ Tấn trò đời bằng những nhân vật xuất hiện qua nhiều tiểu thuyết (điển hình là Rastignac). Ông Già Goriot cũng là điển hình cho chủ nghĩa hiện thực trong phong cách viết của Balzac với những nhân vật được mô tả chi tiết và có chiều sâu. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. *** Kính tặng đại danh sĩ Geoffroy Saint Hilare để tỏ lòng ngưỡng mộ sự nghiệp và thiên tài cùa ông De Balzac Bà Vauquer, nhũ danh de Conflans, là một bà già từ bốn mươi năm nay đang cai quản tại thành Paris một ký túc xá ờ đường mới Neuve Sainte Geneviève, khoảng giữa xóm la tinh và vùng ngoại ô Thánh Marcel. Ký túc xá này được gọi là ký túc xá Vauquer nhận ở trọ cả đàn ông lẫn đàn bà, cả người già cả đến hạng thanh niên, mà chẳng bao giờ thanh danh của nhà trọ ấy bị xuyên tạc. Nhưng cũng đã ba mươi năm nay, không hề có một người trẻ tuổi nào ờ đây, và nếu có thanh niên nào lạc lõng chốn này thì có lẽ thanh niên ấy chỉ nhận được của gia đình một số tiền cấp dưỡng rất kém cỏi. Tuy nhiên, vào năm 1819, là lúc mở màn tấn thảm kịch sắp kể ra đây, nhà này có chứa một thiếu nữ khôn lớn. Ta cần phải dùng chữ thảm kịch ờ đây, dầu danh từ này đã mất cả ý nghĩa vì người ta đã quá lạm dụng và quá ngược đãi nó trong thời buổi văn chương bi khổ này? Không phải vì câu chuyện có một kịch tính thật sự: nhưng câu chuyện kể ra có cũng sẽ làm cho đọc giả xa gần không cầm được nước mắt intra muros et extra? Nhưng bạn sống xa cách Paris thông cảm được câu chuyện này chăng? Điều đó không chắc. Những đặc tính của “Cảnh đời” (Scènce de la vie privée) này mang nặng màu sắc địa phương mà chỉ những dân ở giữa đồi Montmartre và vùng Montrouge, ở cái thung lũng nổi danh vì đầy vôi gạch lúc nào cũng sắp sụp đổ và đầy những rạch bùn đen. Cái thung lũng đầy những đau khổ thực sự, những vui mừng thường là giả tạo, cái thung lũng đã hằng bị náo động ghê gớm, đến nỗi chỉ có chuyện gì thật quá lố mới có thể gây được ở đây một cảm xúc lâu dài. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những nỗi đau khổ mà do sự quy tụ của tệ tập và đức hạnh đã làm cho thành lớn lao và nghiêm trọng: trước những cảnh huống ấy, lòng ích kỷ và quyền lợi đều trăm lại và thương cảm; nhưng sự khích động ấy chỉ như một quả ngon được nhai nuốt mau lẹ. Chiếc xe của văn minh, chẳng khác chi chiếc xe chở tượng Thần ờ thành Jaggernath (1), chỉ chậm tiến đôi chút vì có một mảnh tim khó nghiến hơn chững tim khác đã làm kẹt bánh thần xa. Và chính người cũng sẽ làm như thế, người là kẻ đang cầm cuốn sách này trong bàn tay trắng, là kẻ đang chễm chệ trên chiểc ghế bành êm dịu, và người cũng tự nhủ thầm: “Cái này có lẽ cũng tiêu khiển ta được đây!”. Lúc đã đọc xong những nghịch cảnh âm thầm của ông già Goriot, người sẽ ăn ngon cơm; còn lòng người không chút rung cảm, người chỉ quy tội cho tác già đã nói quá, hoặc đã thi vị hóa câu chuyện. Ẩy, nhưng người hãy biết cho rằng tấm thảm kịch xảy ra đây không phải là chuyện bịa đặt hay là một tiểu thuyết. Tất cả đều có thật (2), thật đến nỗi ai cũng có thể nhận thấy từng chi tiết ở ngay mình, có lẽ ở ngay nội tâm mình. Ngôi nhà dùng làm ký túc xá thuộc quyền sở hữu của bà Vauquer. Nhà ở dưới dốc Đường mới Sainte Genevière, ngay chỗ con đất uốn thấp xuống để rẽ qua đường Cái Ná một cách rất đột ngột và rất gắt, đến nỗi ngựa ít lên xuống con đường đó. Trường hợp này đã làm thuận tiện cho không khí êm lặng ở những con đường bị ép giữa khu vực nhà thờ Val de Grâce và đền Panthéon: hai lâu đài đã biến đổi bầu không khí với những màu vàng tung vào đấy, và đã làm mọi vật phải tối tăm vì những mầu sắc chát chúa của các nóc dọi xuống. Ở đây những đá lát đường khô ráo, những rãnh chẳng có nước mà cũng chẳng có bùn, cỏ mọc ven theo các bức tường. Người rất vô tư vào đây cũng phải u buồn như những khách khác, tiếng ồn một cái xe đến đây cũng thành một biến cố đặc biệt, nhà cửa ủ rủ, tường vách sặc mùi một ngục tù. Một người dân Paris lạc loài vào đây chỉ nhận thấy toàn những nhà trọ tầm thường hoặc những trường học, một vẻ nghèo nàn hoặc buồn nản, những người già sắp chết, hoặc những thanh niên đang tươi vui mà phải cặm cụi làm việc. Không một xóm nào ở Paris có thể ghê tởm hơn, hoặc ít người biết hơn. Nhất là con đường mới Sainte Genevière giống như một cái khung bằng hoàng đồng, cái khung cảnh độc nhất hợp với cốt truyện này: để đưa vào cốt truyện và để hiểu, không gì bằng những màu sắc nâu sậm, những lý tưởng trang trọng... cũng như từ bậc một ánh mặt trời tối dần và tiếng hát người đánh xe trầm dần lúc kẻ lữ hành xuống đần Hầm mộ. So sánh đúng thay! Nào ai đoán định được còn gì rùng rợn hơn sự việc này, ai, những kẻ có một quả tim khô héo, hay những kẻ mang một khối óc trổng rỗng? Mặt tiền của ký túc xá nhìn xuống một cánh vườn nhỏ, và cái nhà đâm thẳng góc ra đường Mới Sainte Genevière, trông hình như cái nhà bị con đường cắt sâu vào vậy. Dọc theo mặt tiền nhà, giữa nhà và vườn có một đám sân sỏi lõm sâu vào và rộng lối một thước (3); trước đám sân là một con đường nhỏ rải cát, hai bên có những cây phong lữ thảo, trúc đào và cây lựu trồng trong những chậu lớn bằng sành màu xanh và trắng. Người ta vào đường nhỏ ấy do một cửa lớn trên có tấm bảng mang chữ: Nhà Vanquer, và ở dưới: Nhà trọ cho cả nam phụ lão ấu. Ban ngày, một cánh cửa song thưa có mắc cái chuông rung kêu rổn rảng để thấy ở cuối con đường nhỏ, trên bức tường đối diện với đại lộ một cái vòm tròn vẽ màu cẩm thạch xanh do tay một họa sĩ trong xóm vẽ. Trong chỗ lõm dưới vòm vẽ ấy, có đựng cái tượng thần Ái tình. Nhìn lớp sơn long của bức tượng, những người thích tượng trưng có lẽ nhận thấy đây là một thần thoại của thứ tình ái ở thành Paris mà người ta đang chữa bệnh khỏi được chỉ cách đó vài bước đường. Trên đế bức tượng, một hàng chữ đã bị xóa hết phân nửa làm cho ta nhớ tới cái thời đã xây dựng kỷ vật trang trí này, do lòng hâm mộ đối với văn hào Voltaire, đã trở về Paris vào năm 1777. Đây là thầy ngươi, bất cứ người là ai: Hiện tại ông là thầy ngươi, trong quá khứ ông cũng đã là thầy, hoặc ông phải là thầy của ngươi. Tối đến, cánh cửa song thưa được thay thế bằng một cánh cửa kín. Cái vườn nhỏ rộng bằng bề dài mặt tiền cái nhà, ở giữa bức tường phía đường cái và bức tường ngăn cách nhà bên cạnh. Một màn bìm bìm treo dọc phủ kính cả bức tường chung này, và giữa thành Paris đây là một cảnh đẹp làm người qua đường lưu ý: Mỗi tường thành đều cổ phủ một thảm cây nho hoặc cây ăn quả khác với những lớp trái mảnh mai và đầy bụi: những trái cây này là mối lo âu hằng năm của bà Vanquer và là đầu đề của những cuộc trò chuyện của bà và các khách ở trọ. Dọc theo mỗi bức tường có một đường nhỏ dẫn đến một lùm cây điền ma (4) cái tên cây mà bà Vanquer tuy thuộc dòng dõi de Conflans vẫn đọc trại đi, dầu mấy khách trọ cố phê bình về văn phạm cho bà. Giữa hai con đường bên hông là một cái bồn vuông trồng artisô, có kèm những cây ăn quả được cắt cành lá tròn như búp chỉ, chung quanh thêm những cây chua me, rau diếp hay ngò tây. Dưới vòm cây điền ma có để cái bàn tròn sơn màu lục, có ghế để quanh. Những ngày nóng bức, những khách trọ nhà giàu có thể dùng đến cà phê được đều ra ngồi đây uống nhâm nhi trong lúc ánh nắng có thể làm nở được trứng ấp. Mặt tiền cao ba tầng có cả rầm thượng kiến trúc bằng đá cuội và quét bằng thứ màu vàng nó đã làm cho hầu hết những nhà ở cận Paris đều có cái vẻ khả ố làm sao. Mỗi tầng lầu có năm cửa sổ đều lắp kính nhỏ và đều có bỏ mành mành, nhưng chẳng có bức mành nào được cuốn lên giống nhau, thành thử chẳng bức nào ngay hàng với bức nào. Bề sâu nhà có hai cửa sổ, và tầng dưới hai cửa sổ này được trang trí bằng những song sắt có rào lưới. Sau nhà có cái sân rộng độ hai chục bộ (5): trong sân phát hiện một cuộc sống chung rất hòa hiệp giữa những giống lợn, gà, thỏ.., và phía sau có một cái kho để củi. Giữa kho củi và cửa sổ của nhà bếp, có treo một tủ đồ ăn, dưới tủ là dòng nước dơ của chậu rửa bát. Từ sân này ra đường Mới có một cửa nhỏ do đó đầu bếp đổ rác rến trong nhà ra đường và giội nước chùi rửa nơi đây, nếu không có thể phát bệnh ôn dịch. Lẽ tất nhiên tầng dưới nhà dùng làm nhà trọ và gồm có một phòng ngoài: phòng này được sáng nhờ hai cửa sổ trông ra đường, đi vào do một cửa lớn vừa là cửa sổ. Phòng khách này thông vào một phòng ăn, rồi đến cái chân cầu thang mới đến nhà bếp. Bậc thang bằng gỗ và gạch vuông sơn màu, đánh bóng. Chẳng có gì buồn hơn quang cảnh cái phòng khách đầy ghế bành và ghế dựa bọc vải sọc chen lẫn đường lì và đường láng. Giữa phòng kê một bàn tròn mặt cẩm thạch trang trí bằng hình cái quán trên một tấm sành trắng viền chỉ vàng đã phai hết nửa hình trang trí mà hiện nay đâu cũng có. Nền phòng lát gập ghềnh, tường đóng ván đến ngang lưng người đứng. Phần trên tường còn lại thì dán một giấy sơn vẽ những cảnh chính của truyện Télémaque với các nhân vật vẽ màu. Khoảng giữa hai cửa sổ rào lưới sắt là bức tranh vẽ buổi tiệc của nữ thần Calypso đãi con trai vua Ulysse (6). Trong bốn mươi năm trường, bức vẽ đã gợi bao nhiêu lời chế giễu của bọn thanh niên ở trọ: tự kiêu ngạo bữa ăn mình, bọn này vẫn tưởng đang ở một địa vị cao sang hơn cảnh hiện tại mà sự nghèo khổ đã buộc họ vào. Lò sưởi được trang trí bằng hai độc bình cắm đầy hoa giả đã cũ rích và được bọc lồng lại, ở giữa là một đồng hồ bằng cẩm thạch màu xanh nhạt rất xấu xí. Lòng lò sưởi lúc nào cũng sạch sẽ chứng tỏ là lò chỉ được đốt lửa vào những cơ hội lớn. Phòng thứ nhất này để xông ra một mùi mà trong ngôn ngữ không có danh từ nào diễn tả được, và có lẽ phải gọi nó là cái mùi nhà trọ. Đây là mùi của một phòng hay đóng cửa, mùi mốc, mùi ôi; lạnh lẽo ẩm iu ngửi thấy ngay ở mũi, thâm nhập vào cả áo quần, mùi của một phòng người ta mới ăn cơm, hôi mùi chén bát, mùi một phòng để đồ ăn, mùi một nhà thương thí. Cái mùi có lẽ diễn tả được nếu người ta sáng chế được một phương pháp để đo lường được số lượng yếu tố và buồn nôn của hơi đờm dãi và đặc biệt của mỗi người ở trọ, trẻ hay già. Ấy thế mà mặc dầu có những cái ghê tởm tầm thường ấy, và nếu ta so sánh với cái phòng ăn kề cận đó, ta lại cho cái phòng khách là trang nhã và thơm tho như một phòng khuê. Phòng ăn có vách hoàn toàn lót gỗ nguyên trước có sơn một màu mà bây giờ không còn nhìn ra màu gì nữa, màu ấy đã thành cái nền trên đó cát bụi chồng chất thành lớp vẽ nên những hình kỳ lạ. Những tủ chén bát trơn nhớt dựa tường, trên tủ bày những bình nước sứt mẻ, lu mờ, những tấm sắt tây tròn có vân, mấy chồng dĩa bằng sành dầy có viền xanh, chế tạo tại Tournal. ở một góc để một cái thùng có nhiều hộc số để đựng khăn lau lốm đốm dơ hay đỏ màu rượu vang, của những người ở trọ. Lại có những thứ bàn ghế bất hủ, đâu đâu cũng phế bỏ nhưng được đặt tại đây như những di vật của nền văn minh được đặt tại Nan y viện (7). Người ta còn có thể thấy một phong vũ biểu được đem ra lúc mưa, những tranh ảnh ghê gớm làm hết muốn ăn, cái nào cũng để trong khung gỗ sơn đen có chỉ vàng; một đồng hồ treo bằng đồi mồi khảm đồng; một lò sưởi màu lục, những cây đèn dầu mà dầu và bụi trộn lẫn nhau, một bàn dài trải tấm vải sơn, nhờn mỡ trên ấy một trú sinh nghịch ngợm đã lấy ngón tay viết tên lên như đã dùng một mũi sắt nhọn, những ghế dựa khập khễnh, những tấm đệm cói chỉ trải ra mà không lúc nào hưởng những lồng ấp có lỗ đã bè, bản lề lật ra, gỗ đã đen thui. Muốn giải rõ đồ đạc ở đầy đã cũ kỹ đến bậc nào, đã lũng, mục, lung lay, sứt bể, cụt tay dơ dáy, què quặt, gần tàn phế hấp hối... thì phải làm một bài miêu tả làm quá chậm câu chuyện, và những người gấp nghe chuyện không thể tha thứ. Gạch lát vuông đỏ thì bị vạch đường vì sự lau chùi hay vì những lúc tô màu. Tóm lại, nghèo khổ ngự trị ở đây, không chút thi vị, một nghèo khổ tằn tiện, cô đọng, xơ xác. Nếu cảnh nghèo ở đây chưa có bùn lầy, thì cũng đã có những vết dơ, nếu nó chưa có áo lũng, giẻ rách, thì nó cũng sắp đồ ra thối mục. Căn phòng này hoàn toàn sáng lạn vào lúc bảy giờ sáng, lúc con mèo của bà Vanquer dậy trước chủ nó nhảy lên các tủ đồ ăn, đánh hơi sữa trong những tô có dĩa đậy, và lên tiếng gầm gừ. Ngay sau đó bà chủ xuất hiện với cái mũ ren trên đầu, với một vành tóc giả treo lủng lẳng vụng về ở dưới. Bà ta kéo xà lệt một đôi dép méo mó. Khuôn mặt bì dày dày, mập mạp, ở dưới nổi lên một cái mũi mỏ keo; hai bàn tay nhỏ nhắn, múp míp, thân hình bụ bẫm như con chuột ở nhà thờ, áo lót quá dày và phồng phềnh lên, tất cả hình ảnh này rất phù hợp với căn phòng đầy mùi khốn đốn, chứa một không khí đầu cơ, trong ấy bà Vanquer biết thở mùi nồng thối, không chút gì ghê tởm. Vẻ mặt bà tươi tắn như buổi gió lạnh đầu tiên của tiết thu, đôi mắt nhăn nheo của bà đi từ vẻ nụ cười bắt buộc của vũ nữ đến vẻ cau có của viên thu ngân chiết khấu... tóm lại là cả con người bà giải thích cho cái nhà trọ, cũng như cái nhà trọ ám tàng con người của bà. Ngục tù không thể tồn tại được nếu không có tên ngục tốt, người ta không thể tưởng tượng có thể có cái này mà không cái kia. Vẻ phì nộn xanh xao của người đàn bà thấp bé này là kết quả của lối sinh hoạt kia, cũng như bệnh đậu lào là quy kết của bể khí một bệnh viện. Cái váy lót bằng len đan của bà ló dài hơn cái váy ngoài may với một áo dài cũ mà lớp bông lót lòi ra do những đường nứt nẻ của đường vải rách, cái váy này là một hình ảnh thu gọn của phòng khách, căn phòng ăn, cái vườn nhỏ, và báo trước cái nhà bếp, làm thấy trước những khách trọ ra thế nào rồi. Lúc bà chủ có mặt, quang cảnh thật là hoàn mỹ, bà Vanquer tuổi lối năm mươi, bà giống như mọi người đàn bà khác đã chịu đựng đau khổ. Mặt bà lờ đờ, bộ bà ngây thơ như một mụ môi dong làm bộ tức giận để đòi hoa hồng thêm, nhưng vẫn sẵn sàng làm hết mọi sự để số phận mụ được êm dịu hơn, sẵn sàng bán cả Georges hay Pichegru nếu còn một Georges hay một Pichegru để bán. Tuy vậy, bà là một người tốt, các người ở trọ nói vậy, và ai cũng tưởng bà là nghèo, vì ai cũng nghe bà kêu rêu ho hen như họ. Còn ông Vanquer trước kia thẽ nào? Bà không lúc nào phân giải về người quá cố. Tại sao ông ta mất hết của cải? Bà chỉ trả lời: “Trong những tai nạn”. Ông ta cư xử với bà không tốt, chỉ lưu lại cho bà cặp mắt để khóc, ngôi nhà này để sinh sống, và cái quyền không thương hại một nghịch cảnh của ai, vì theo bà nói, bà đã chịu đựng tất cả những gì người ta có thể chịu đựng được. Nghe tiếng chân bà chủ đi lắc nhắc, mụ Sylvie béo, người làm bếp lật đật dọn ăn sáng cho khách trọ. ... Mời các bạn đón đọc Ông Già Goriot của tác giả Honore de Balzac.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Đường Cách Mạng - Richard Yates
“Còn hơn cả lối viết đẹp, đó là tất cả những gì làm cho cuốn sách này trở thành sống động một cách mạnh mẽ, rực sáng và ngay lập tức là một tuyệt tác” Tennessee Williams “Được đón nhận như một tuyệt tác ngay từ lần xuất bản đầu tiên, Con đường Cách mạng là câu chuyện kể về Frank và April Wheeler, một đôi vợ chồng trẻ nhàm chán với cuộc sống tầm thường, vô vị ở ngoại ô và luôn mong mỏi được trở thành đặc biệt. Richard Yates đã để lại cho người đọc một sự hoài nghi về quyết định thay đổi nhằm đạt được những điều tốt hơn trong cuộc sống của Frank và April Đơn giản đây là cuốn tiểu thuyết hay nhất trong năm mà tôi đã được đọc” Nick Hornby *** Những âm thanh kết thúc cuối cùng của buổi diễn tập thử trang phục đã làm cho nhóm Laurel không còn việc gì để làm ngoài việc đứng đó, im lặng và đầy tự tin, lung linh qua ánh đèn chiếu của khán phòng trống không. Họ hầu như không thở được khi diện mạo nghiêm nghị và thấp tè của người quản lý xuất hiện từ hàng ghế trống gọi họ nhóm họp lại trên sân khấu, và khi ông kéo chiếc thang cọt kẹt từ phía cánh gà, leo lên đó và nói với họ rằng, bằng tất cả nhiệt huyết của mình, họ là những diễn viên thật tài năng và ông thấy thật tuyệt vời khi được làm việc với họ. “Đây quả thật không phải là công việc đơn giản”, ông nói, với cặp kính lấp lánh trang nhã nhìn quanh sân khấu. “Chúng ta đã có rất nhiều vấn đề, và thật sự, đã đôi lúc tôi phải bắt mình không được mong chờ quá nhiều. Nghe như là ủy mị, nhưng thật sự tối nay chúng ta đã làm được. Ngồi ở dưới kia, đột nhiên tối nay, tận sau trong đáy lòng, tôi nhận thấy lần đầu tiên các bạn đã làm việc bằng cả trái tim mình”. Một tay ông đặt lên ngực để chỉ rằng đường đi đến trái tim thật đơn giản và tự nhiên; rồi tay kia ông nắm lại, không lời, đưa qua đưa lại thật chậm, gây ấn tượng thật sâu sắc, một bên mắt nhắm lại với môi dưới cong lên thể hiện niềm vui hân hoan và đầy vẻ tự hào. “Tối mai hãy biểu diễn như thế này nhé”, ông nói “và chúng ta sẽ có một đêm diễn hoàn hảo”. Họ đã có thể khóc trong sự nhẹ nhõm. Nhưng, trong sự rung động, họ đã cười, nói, bắt tay và hôn nhau. Ai đó ở tình huống như họ sẽ đi uống bia, còn họ lại cùng nhau hát quanh chiếc đàn piano ở khán phòng cho đến tận khi cùng thống nhất ra về và chúc nhau có một giấc ngủ ngon. “Hẹn gặp nhau ngày mai nhé!”, họ nói với nhau, hạnh phúc như những đứa trẻ, và dưới ánh trăng trên đường về nhà họ chợt nhận thấy họ nên kéo cửa xe ô tô xuống để tận hưởng khí trời, mùi thơm của đất và hoa. Đây là lần đầu tiên nhóm Laurel cho phép họ được cảm nhận sự đến gần của mùa xuân. ... Mời các bạn đón đọc Con Đường Cách Mạng của tác giả Richard Yates.
Cuộc Đời Dài Lắm - Chu Lai
Những cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai luôn đem lại cho người đọc những cảm xúc rất thật, đi đến tận cùng của những suy nghĩ, quan điểm cũng như cảm xúc. Lúc cười thì cười rất tự nhiên, lúc buồn thì cảm giác như cả bầu trời chỉ còn lại một màu của khói thuốc trong đêm gác của anh lính tân binh...   Với giọng văn đậm chất lính, mộc mạc, chân thành, hóm hỉnh và có lúc ầm ầm như cơn lốc, có lúc ưu tư như mặt hồ mùa thu đầy chất thơ.   Đặc biệt tình yêu trong tiểu thuyết Chu Lai rất khắc khoải, rất sâu nặng mà cũng rất...bụi. Bụi theo kiểu lính.   Cuộc đời dài lắm là một tác phẩm như vậy. Hà Vũ Nguyên là một người lính, một người lính đẹp với đầy đủ nghĩa đen và nghĩa bóng của từ đó. Một người đẹp thì tình yêu luôn trắc trở-cái quy luật ấy hình như cũng chẳng nể gì người lính. Nguyên về nhận chức giám đốc của một công ty đang tụt dốc. Cá tính, nhân cách, tài năng của anh đã làm nhiều người cảm phục nhưng cũng không ít kẻ ganh ghét và rắp tâm hãm hại… Liệu những gian truân của vị giám đốc sẽ đưa cuộc đời anh gặp những thăng trầm thế nào? Và tình yêu của anh nữa? Kết cục của truyện có hậu nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy xót xa cho người lính. Tại sao cuộc đời dài lắm mà cuộc đời cũng thật chóng vánh làm sao... *** SỰ LINH CẢM VỀ MỘT NỖI BẤT HẠNH NÀO ĐÓ TRONG THẾ giới vô thức mù mờ của anh đã xảy ra. Đó là vào khoảng lúc 5 giờ sáng. Cả thị xã trung du vẫn còn chìm trong cơn ngái ngủ trễ nải mà nếu để ý tinh một chút, dường như có thể nghe được cả tiếng cựa mình nồng nàn của những tấm thân con gái dưới làn chăn mỏng. Sông Đa Quýt thở phập phồng dưới chân đồi. Một chút sương mù lãng đãng vương trên mái nhà bưu điện. Tiếng mèo động tình cuối cùng đã yếu đi trong màu da trời bợt bạt như da người chết trôi. Một tiếng giao hủ tiếu mỳ cô đơn và dấm dứt kẽ răng trườn trong ngõ nhỏ. Bụi và rác từ những chỗ mai phục im lìm bắt đầu túa ra để từ bây giờ thực thi cái ngôi vị độc tôn cho đến tối hỉm. Tiếng máy nước nhà ai chảy từng giọt từng giọt gợi lên cái sự tiểu tiện đầu sáng của một gã đàn ông u xơn tiền liệt tuyến… Có tiếng gõ cửa vang lên chát chúa như tiếng cối tép nổ miệng hầm. Anh không giật mình. Nói đúng ra, vào cái tuổi ngoài bốn mươi đã bươn trải đủ chuyện trên đời, anh không con cái khả năng biết giật mình. Vả lại cả đêm qua anh có ngủ được chút nào đâu mà giật kia chứ. - Long à! – Anh gọi cậu con ngủ ở phòng trong – Ra xem ai mà ngõ cửa hỗn vậy? Anh định nói sớm vậy nhưng cứ nói mạnh thế để tự trấn an mình. Thằng con 17 tuổi, mới học có lớp 12 mà đã cao 1 thước 65 vừa càu nhàu vừa gãi đùi cành cạch đi ra. Cửa mở. Cơn gió lạnh cùng với hai, ba bộ sắc phục công an tím tái ùa vào. - Ông Vũ Hà Nguyên! Gớm! Giọng ai mà mới sáng ra đã ráo hoảnh, quyền uy thế nhỉ? - Tôi đây! – Anh chui ra khỏi cánh màn có dính vài ba vết máu muỗi. - Mời ông đứng lên nghe đọc tuyên lệnh khám nhà và bắt giữ! Đến rồi đây! Dẫu đã lường trước trăm lần ngàn lần nhưng vừa nghe, anh đã thấy cổ chân mình sưng phù lên, hụt hẫng, chao nghiêng như chân người khác lắp vào. Thằng con nhìn bố. Đôi mắt mười bảy mở to đến tưởng chừng không thể mở to hơn được nữa. Rùng mình. Đôi mắt này sẽ buốt xoáy vào anh không biết đến bao giờ! Nhưng anh lại chỉ, lạy trời, mong cho cái sự bắt bớ này diễn ra thật chóng vánh, đừng đánh động cho bất cứ một ai ở khu tập thể này biết cả, lạy trời! Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…  ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Dài Lắm của tác giả Chu Lai.
Chàng Trai Năm Ấy - Tuyết Ảnh Sương Hồn
"Từ trong hành lang đi ra, bị ánh nắng gay gắt đổ ập xuống người, Tịch Duệ Nam phải hơi nheo mắt lại, mặt mày nhăn nhó. Ngẩng lên nhìn bầu trời xanh thăm thẳm, trên mặt anh ta hiện ra một thứ cảm xúc lạc lõng, cô liêu, cặp mắt hoang mang như bị sương mù che phủ. Tịch Duệ Nam của thời khắc này so với Tịch Duệ Nam khoa trương, khiêu khích ở trong phòng lúc trước dường như là hai con người khác nhau. Chuyện cũ từ ký ức xa xôi bị cái nắng như đổ lửa làm cho thức tỉnh, giống như bầy kiến bò ra từ ký ức, chầm chậm bò đến gần trái tim Bạc Hà. Chín năm trước, cũng dưới cái nắng chiều chói chang như thế này, thiếu niên Tịch Duệ Nam uể oải, bất lực ngồi phịch xuống bên đường, đầu gục xuống, chẳng nói chẳng rằng, chỉ khóc lóc thảm thiết. Nước mắt rơi xuống mặt đường bỏng rát liền bốc hơi, sự đau đớn thấu vào tận xương cốt đó lại lan đi rất xa qua bầu không khí hừng hực. Đó là lần đầu tiên Bạc Hà nhìn thấy chàng nam sinh cùng tuổi rơi lệ, nước mắt và sự bi thương của anh ta đã hòa loãng sự phản cảm của cô đối với anh ta trước đó…" *** Mùa hè của phương Nam luôn luôn đến rất sớm. Cuối tháng Ba đầu tháng Tư, khi phương Bắc vẫn đang ở tiết trời đầu xuân, mưa bay lất phất, thì phương Nam đã đón những tia nắng mặt trời đầu hạ tươi sáng. Đầu hạ là thời tiết đẹp nhất của phương Nam, non xanh nước biếc, hoa nở khắp nơi, trời xanh trong vắt. Bầu trời không một gợn mây, màu xanh toát lên vẻ trong suốt đến cực hạn. Màu xanh ngắt trong suốt ấy khiến lúc ta ngước nhìn lên, ánh mắt cũng như có thể bị nhuộm xanh. An Nhiên đã từng nói với Bạc Hà, cô ấy đặc biệt thích bầu trời mùa hạ của phương Nam, vì đó là bầu trời xanh trong thuần khiết nhất mà cô ấy từng nhìn thấy. Khi đó, Bạc Hà vô thức liếc nhìn bầu trời xanh trên đỉnh đầu một cái, màu xanh đó thực sự là thuần khiết, nhưng cô lại không thích... nhiều năm nay, cô vẫn luôn không thích màu xanh da trời này. Bạc Hà họ Bạc, tên chỉ có một chữ Hà. Cô gái mang họ Bạc sẽ luôn khiến người ta liên tưởng đến bốn chữ “hồng nhan bạc mệnh”, nhưng Quý Phong lại nói Bạc Hà không hề mang đến cho người ta loại cảm giác “bạc mệnh” này. Câu này nghe có vẻ giống như một lời an ủi tốt đẹp, nhưng Bạc Hà lại nửa cười nửa không. “Anh là muốn nói em chẳng hề mang đến cho người ta loại cảm giác “hồng nhan” này phải không?” Quý Phong cười ha ha. “Thông minh, thông minh!” ... Mời các bạn đón đọc Chàng Trai Năm Ấy của tác giả Tuyết Ảnh Sương Hồn.
Chiếc Lồng Đèn Của Má - Khởi Huỳnh
Tập truyện ngắn đưa ta trở về dòng sông tuổi thơ nhiều nhiều khó nhọc nhưng thấm đẫm tình người ở một làng quê vùng Nam Bộ. Trên dòng sông ấy có nhiều xuồng ghe từ các nơi đổ về.  Những người đàn ông, đàn bà nghèo khổ đến đây gặt thuê, bắt cá và làm nhiều việc khác để sinh nhai. Ghe nào cũng chở theo những đứa trẻ. Chúng bị những đứa trẻ trên bờ ghét bỏ, xa lánh, thậm chí bị cấm không cho lên đó chơi. Truyên nào trong tập sách cũng khiến đọc giả rưng rưng xúc động. Đó là câu chuyện kể về người mẹ cõng đứa con tật nguyền mười hai tuổi mới xin được vào học lớp một. Mỗi ngày đi học phải qua cánh đồng lau sậy. Bờ ruộng trơn trượt khi trời mưa, người mẹ phải gồng mình bấm hai ngón chân cái xuống đất để khỏi ngã.  Đó là nỗi day dứt của đứa em chỉ vì muốn lấy lòng mẹ để được mặc thử bộ đồ tết mà nhẫn tâm làm khổ cả cuộc đời người chị. Tác giả cho biết những câu chuyện kể ra trong cuốn sách chủ yếu đều là ký ức về tuổi thơ của anh và bạn bè thuở cắp sách tới trường làng. Con sông êm đềm, cánh đồng lúa vàng rực rỡ, những trò chơi trận giả, buổi chiều ngóng gánh hát về quê… là những hình ảnh đẹp về quê hương, những  kỷ niêm ai lớn lên ở nông thôn cũng có một thời như thế. Bởi thế, bạn sẽ tìm thấy mình đâu đó khi đọc tập truyện này. Bằng giọng văn mộc mạc, giản dị Chiếc lồng đèn của má như một món ăn tinh thần dành cho các bạn tuổi mười bốn, mười lăm. Đọc cuốn sách này để hiểu hơn về tuổi thơ bố mẹ ta, yêu hơn những vùng đất trên quê hương mình. Tác giả cuốn sách là họa sĩ Khởi Huỳnh. Ngoài chuyên môn chính ra anh còn viết thơ, đóng phim, diễn kịch, viết văn, dạy vẽ.  *** Năm mười hai tuổi, lần thứ ba má xin cho tôi vào học lớp một. Má nói so với mấy đứa bằng tuổi trong xóm thì tôi đã trễ đến năm năm. Nghĩ vậy nên má khuyên tôi nếu được nhận vào thì phải ráng học cho thiệt giỏi, kẻo người ta coi không ra gì. Vả lại, con người ta “khi mất cái này thì phải cố gắng đạt được cái khác để bù lại”. Tôi chẳng hiểu ý má nói gì, cứ tưởng là má nói mất đồ nên tôi vội kiểm tra lại tập vở và tiền má cho thì vẫn còn y nguyên, tôi khoe với má. Má xoa đầu tôi rồi cười ý nhị. Nói nào ngay(1), lúc đó tôi cũng không để ý đến chuyện mất còn gì đó mà má vừa nói. Cái tôi lo nhất là năm nay biết có được nhận vào lớp một không (vì đã hai lần trước đều bị từ chối) nên trong lòng tôi lúc nào cũng phập phồng lo sợ. Trước ngày khai giảng, đêm nào tôi cũng lấy đồ đi học của thằng em mặc vào, rộng thùng thình, tay cầm mấy quyển tập cứ đi tới đi lui, gặp ai cũng thưa đi học, rồi ra trước sân đi một vòng lại trở vô thưa đi học mới về (những động tác này là tôi học được từ đứa em, khi tôi mới xuất viện). Trong nhà ai cũng ôm bụng cười ngất. Riêng mỗi mình má tôi là không cười, má nhìn về một hướng nào đó xa xăm, đôi mắt buồn hiu. Rồi ngày khai giảng đã đến. Đêm đó má bảo tôi ngủ sớm để ngày mai đi học. Tôi ngoan ngoãn nghe lời má lên giường nằm nhưng không tài nào ngủ được, cứ lăn qua lộn lại, trong lòng thì mừng lo lẫn lộn. Má thì ngồi cặm cụi dưới ngọn đèn dầu lo chuẩn bị cho tôi, nào là tập vở, nào là thước kẻ, bút chì rồi lấy chiếc áo của đứa em đã mặc chật sửa lại cho tôi. Má đi nhóm lửa đốt than ủi lại cho thẳng thớm treo lên vách, má đứng ngắm hoài như thể tôi đang mặc vậy. Nhà tôi cách trường xã chừng năm cây số, cái khó là phải băng qua hai cánh đồng đầy lau sậy, mùa mưa trơn trợt rất khó đi nên lúc màn trời còn một màu đen kịt thì má đã gọi tôi thức dậy. Tất cả má đã chuẩn bị từ đêm hôm, má chỉ tôi chỗ treo bộ đồ rồi nói khi nào mặc xong lại đây má biểu. Tôi rất hồi hộp không biết có chuyện gì. Đoạn tôi vừa đi đến thì má cũng vừa mở tủ lấy ra một cái chai chừng bằng ngón tay út có nước màu vàng nhạt, bên trong có một cọng dây bằng mủ màu trắng dính liền với cái nút đậy. Má lấy ra rẩy rẩy, quét quét lên đầu tôi. Mùi thơm nhanh chóng tỏa ra rất dễ chịu. Tôi cứ lấy tay quẹt lên đầu rồi đưa xuống mũi ngửi hoài. Má biết tôi thích nên ra điều kiện: nếu con đi học được điểm mười thì hôm nào má cũng xức dầu thơm cho. Tôi hí hửng dạ thiệt lớn rồi chạy quanh nhà một vòng với bước chân khập khiễng. Má lại có vẻ buồn. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Lồng Đèn Của Má của tác giả Khởi Huỳnh.