Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Khẩu Pháo Ở Navarone

Ở thế kỷ 21 nước Mỹ tốt hay xấu, mạnh hay yếu, là siêu cường quốc duy nhất hay đang trên đà tan rã? Hậu Đế Chế, là cuốn tiểu luận của tác giả Emmanuel Todd – người viết cuốn Sự sụp đổ cuối cùng nổi tiếng năm 1976, trong đó dự đoán chính xác sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Tác giả cho rằng thế giới ngày nay có 2 cách nhìn về nước Mỹ. Cách thứ nhất là: Xấu xa, áp bức, phát xít, giả dối vàkhông đóng góp vào hòa bình của nhân loại. Cách thứ hai: Cho Mỹ là siêu cường duy nhất đang thống trị toàn cầu. Theo tác giả, cả 2 cách nhìn này đều cực đoan, thiên lệnh… Với con mắt chính trị sắc bén, tác giả khẳng định chính chiến lược tự cho mình là cường quốc duy nhất đã biến Mỹ thành trở ngại và mối đe dọa với nền hòa bình nhân loại. … *** Les Canons De Navarone Năm 1944, trong quần đảo Hy Lạp, một cuộc chiến đấu không khoan nhượng diễn ra giữa toán biệt động Anh và đội quân trú phòng tiền phương của Phát xít Đức . Ở Navarone, quân đội Đức đã thiết lập một pháo đài thép vô cùng kiên cố để kiểm soát sự lưu thông trên eo biển trọng yếu. Một toán biệt động Anh đã được thành lập với sứ mạng : đổ bộ lên một điểm của hòn đảo nổi tiếng bất khả xâm nhập và vô hiệu hóa hai khẩu đại bác ở Navarone. Nhóm ít người này dấn thân vào một cuộc chiến ác liệt. Họ chiến đấu đến tận cùng sức lực ... CHƯƠNG MỘT CHỦ NHẬT 1g – 9g Que diêm được quẹt mạnh vào vách rỉ sét của căn nhà có mái tôn lượn sóng, kêu soẹt và bật cháy, ánh sáng lập lòe trong im lặng và bóng tối của màn đêm. Mallory đưa mắt nhìn theo ánh lửa đang được châm vào điếu thuốc nhô ra dưới hàm râu tua tủa như bàn chải đánh răng của viên thiếu tướng, rọi sáng luôn khuôn mặt bất động của một người đàn ông đứng cách đó vài phân, với tia nhìn đăm đăm, cuốn hút vào câu chuyện. Ánh lửa tắt ngúm, que diêm bị chà đạp trên cát của sân bay. - Tôi nghe thấy họ, thiếu tướng khẽ nói. Tôi nghe họ đang tới. Trong năm phút nữa, không lâu hơn. Tối nay, trời im gió, họ sẽ hạ cánh trên đường bay số 2. Chúng ta hãy tới chờ họ trong phòng họp báo. Ông ngưng nói, ném về phía Mallory một cái nhìn hóm hỉnh và có vẻ mỉm cười. Nhưng giọng ông không được chút gì vui: - Này chàng trai, hãy chế ngự nóng nảy. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi, anh sẽ nhận tất cả những câu trả lời đang mong đợi, và tôi e rằng còn hơi sớm đấy. Bất ngờ, viên thiếu tướng bước ra, về hướng dãy nhà to lớn lù lù ở đường chân trời đen nhạt. Mallory nhún vai, đi theo ông nhưng không bước chậm hơn, cùng với người thứ ba của nhóm, một nhân vật béo lùn đi núng nính nhưng rất gọn. Mallory nghĩ thầm Jensen hẳn phải khổ luyện mới có được dáng đi kiểu thủy quân như thế. Ông ta ở ba mươi năm trong nghề mà, nhưng đó chưa phải là vấn đề. Với chức vụ trưởng phòng 3 đặc trách những "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) 1 ở Caire 2 , hải quân đại tá James Jensen đã xuất sắc thành công và được tưởng thưởng Huân chương Công vụ Đặc biệt của Hải quân Hoàng gia. Đa mưu, giỏi nghi binh, tài bắt chước, hóa trang như thật, đều là "nghề" của chàng. Đã từng "quậy" ở các xứ phương Đông, từ Alexandrette 3 đến Alexandrie 4 , chinh phục sự nể nang của những người thợ ở các xưởng đóng tàu, cỡi lạc đà còn thành thạo hơn bọn cướp biển sa mạc, thân thể chằng chịt những vết thẹo không ai sánh kịp kể cả bọn ăn mày ghẻ lở ở các chợ trời phương Đông. Vậy mà tối nay, Jensen chỉ là một sĩ quan hải quân giản dị với vẻ mặt không vui. Bộ quân phục hoàn toàn trắng toát từ chóp mũ xuống tới đôi giày. Chỉ có lon đại tá óng ánh trên hai cầu vai và trên vành nón. Bước chân họ nhịp đều trên cát và sau đó nện vang rền trên xi-măng của đường ra phi đạo. Hai người đi sau hầu như mất hút bóng thiếu tướng. Mallory chợt quay sang Jensen. - Thưa Đại tá, như vậy có nghĩa gì? Tại sao mọi việc lại bí mật? Tại sao tôi phải có mặt ở đây? Lạy Chúa tốt lành! Mới hôm nào đây người ta "bốc" tôi ra khỏi đảo Crète 5 và chỉ báo trước có tám tiếng. Họ nói tôi được đi phép một tháng, và bây giờ thì… có mặt ở đây! - Rồi sao nữa? Jensen hỏi. - Còn sao nữa! Chẳng có nghỉ phép gì ráo trọi! Mallory nói bằng vẻ cay đắng. Không có lấy một đêm được ngủ. Chỉ có những giờ và những giờ trong văn phòng sở chỉ huy để trả lời hàng đống câu hỏi ngu xuẩn về leo núi Alpes 6 phía nam. Kế đó, họ lôi tôi ra khỏi giường ngủ với lệnh đi gặp Đại tá. Sau đó là những giờ xuyên qua sa mạc quỉ quái trong chiếc xe do một người Xcốt-len điên khùng vừa lái vừa hát những bài nồng nặc mùi rượu và đã hỏi tôi hàng trăm câu hỏi còn ngu xuẩn hơn nữa! - Hắn là một trong những nhân viên ưu tú nhất của tôi cải trang đấy. Theo tôi, đó là cuộc hành trình thú vị! - Một trong những… Mallory ấp úng không nói hết câu, lo lắng khi nghĩ tới những điều đã nói với viên đại úy già người Xcốt-len có râu mép lái xe. - Tôi… tôi xin Đại tá tha lỗi. Tôi thật không ngờ… - Dĩ nhiên, anh không được biết gì cả, Jensen ngắt lời. Tôi chỉ muốn trắc nghiệm xem anh có xứng đáng là người được chỉ định công tác này hay không. Trước khi "bốc" anh ra khỏi đảo Crète, tôi đã chắc rằng anh đủ khả năng, và qua thử thách vừa rồi, tôi lại càng thấy mình có lý. Nhưng tôi không hiểu anh nghĩ sao mà lại tin rằng được đi phép. Người ta thường hiểu sai ý tốt của cơ quan "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) nhưng dù sao cơ quan chúng tôi cũng không điên khùng đến nỗi trưng dụng nguyên một chiếc phi cơ cho các sĩ quan thuộc cấp nghỉ phép một tháng ở thủ đô của Ai Cập. - Tôi cũng chưa hiểu ý Đại tá… - Hãy kiên nhẫn, chàng trai, kiên nhẫn theo lời khuyên vừa rồi của ngài Thiếu tướng đáng kính của chúng ta. Thời gian bất tận. Chờ đợi và mãi mãi chờ đợi, đó là cuộc sống ở phương Đông. - Tổng cộng chỉ ngủ được có bốn giờ trong ba ngày như vậy còn chưa đủ sao? Mallory lầm bầm rủa thầm… A! Họ tới rồi! Cả hai chớp mắt liên hồi trước ánh sáng chói lóa của những đèn chiếu sáng phi đạo cho máy bay hạ cánh. Không đầy một phút, chiếc phóng pháo cơ dừng lại nặng nhọc, vụng về ngay gần họ. Thân máy bay màu xám và cánh bom lỗ chỗ những vết đạn kể cả đạn đại bác, một đầu cánh bị rách rời và động cơ ngoài bên trái ngưng hoạt động, dầu rỉ ra. Tấm kính của phòng lái thủng bể khoảng mười hai lỗ. Jensen chăm chú nhìn khá lâu những lỗ thủng và những vết thương chi chít của chiếc máy bay oanh tạc bị hư hại nặng, kế đó ông lắc đầu và quay mặt đi. - Đại úy Mallory, ông dịu dàng nói, anh than phiền chỉ được ngủ bốn tiếng, bây giờ tôi bắt đầu thấy anh là kẻ may mắn đã được ngủ trong thời buổi này. ° ° ° Gian phòng họp báo ít tiện nghi và thiếu thoáng khí được chiếu sáng bởi hai bóng đèn cực mạnh, Đồ đạc chỉ gồm vài tấm bản đồ sờn rách treo tường, khoảng gần hai chục cái ghế cũ mòn và một cái bàn bằng gỗ trắng. Viên thiếu tướng ngồi ở giữa đại tá Jensen và đại úy Mallory. Cửa phòng mở và những phi công đầu tiên bước vào, chớp mắt dưới ánh sáng cao độ. Dẫn đầu đoàn là một viên phi công tóc đen, vóc người to lớn, tay trái ôm nón và bộ đồ bay. Hàng chữ "Australie" 7 màu trắng nổi bật phía trên phù hiệu bên vai bộ kaki và trên hai nắp túi ở ngực. Anh chàng nhíu lông mày, im lặng ngồi xuống không cần xin phép, trước mặt ba vị sĩ quan, móc ra bao thuốc lá và quẹt diêm. Mallory lén nhìn thiếu tướng, nhưng ông có vẻ chịu đựng, giọng nói cũng thế. - Giới thiệu với các ông: đây là Thiếu tá không quân Bill Torrance. Và thiếu tướng nói thêm tuy hơi thừa: - Torrance là người Úc. Mallory có cảm tưởng ông hy vọng giải thích đôi điều về thái độ của thiếu tá Torrance… - Torrance đã chỉ huy một phi đội tấn công Navarone. Này Bill, các ông đây là hải quân đại tá Jensen, thuộc Hải quân Hoàng gia, và đại úy Mallory thuộc Viễn đoàn Xung kích Sa mạc 8] đều đặc biệt chú tâm đến Navarone. Thế nào Bill? Tối nay "làm ăn " ra sao? Mallory thầm nghĩ: "Navaron! Thì ra vì mày mà ta hiện diện ở đây" Anh chàng khá rõ về Navarone hay đúng hơn đã nghe nói đến như tất cả những ai từng phục vụ miền đông Địa Trung Hải. Nó là một pháo đài thép bất khả xâm phạm, ở ngoài khơi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, được bảo vệ kiên cố, theo ước lượng, bởi một đơn vị quân trú phòng hỗn hợp Đức và Ý, được xây dựng trên một hòn đảo của biển Egée 8 nơi đó quân Đồng minh hoàn toàn không tấn công nổi. Mời các bạn đón đọc Những Khẩu Pháo Ở Navarone của tác giả Alistair MacLean.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano - Marina Fiorato
"Người thổi thủy tinh xứ Murano" là tiểu thuyết mang đầy không khí thần bí về lịch sử và truyền thống thổi thủy tinh của người dân ở đảo Murano, thành Venice, một trong 3 thành phố nổi tiếng của Italy. Nghề thổi thủy tinh là nghề sống còn thành phố này và những tấm gương được làm từ đây đắt hơn vàng. Được những kẻ giết người từ Hội đồng thành phố canh cẩn mật, nhiều người thợ thủy tinh xứ Murano gần như bị cầm tù trên đảo của họ. Nhưng một bậc thầy của nghề là Corradino Manin đã bán các phương thức và linh hồn mình cho vua Louis XIV (Pháp), nhằm bảo vệ cô con gái bí mật của ông. Nhiều thế kỷ sau, hậu duệ của ông, Nora Manin - một phụ nữ Anh trẻ tuổi - vì muốn thoát khỏi cuộc sống không hạnh phúc của mình ở London, đã quyết định đến Venice và theo học nghề thổi thủy tinh ở thành phố của tổ tiên mình. Sôi nổi và tài năng, tên họ nổi tiếng của cô đã đặt cô vào nguy hiểm bên trong các xưởng thủy tinh cổ xưa khi các kình địch của cô xuất hiện. Tìm thấy được cuộc sống mới và tình yêu ở Venice, số phận của Nora trở nên gắn bó chặt chẽ với ông tổ Corradino; và lúc này, những bí mật về sự phản bội của ông lộ ra. *** Marina Fiorato là nhà văn nữ gốc Venice. Cô tốt nghiệp ngành lịch sử tại Đại học Oxford, từng theo học chuyên ngành về kịch Shakespeare tại Đại học Venice. Sau khi tốt nghiệp đại học, nhà văn theo đuổi hội họa và trải qua nhiều nghề: diễn viên, nhà phê bình phim và họa sĩ minh họa. Cô từng thiết kế chuyến du lịch bằng hình (visual tour) cho ban nhạc U2 và Rolling Stones. Cô kết hôn tại Venice và hiện sống ở North London với chồng, con trai và con gái. Nữ nhà văn được xem là một "Rowling thứ hai" khi vừa viết sách vừa trông con trong một quán cà phê. Fiorato đang thương thảo việc chuyển nhượng bản quyền để chuyển thể tác phẩm này thành phim. *** Khi Corradino Manin nhìn những ngọn đèn của San Marco lần cuối cùng. Venice bên kia phá với chàng dường như là một chòm sao vàng óng trong màn đêm nhung xanh thẫm. Bao nhiêu ô cửa trong số những ô cửa sổ đó, điểm trang kinh thành của chàng như những viên đá quý, mà chàng đã làm ra bằng chính đôi tay mình? Giờ đây chúng là ánh sao lấp lánh soi đường chàng cuối cuộc hành trình của đời chàng. Dẫn lối cho chàng cuối cùng cũng trở về quê nhà. Khi con thuyền chạy vào San Zaccaria, chàng không nghĩ – một lần này thôi – là mình có thể diễn tả cảnh này trong thủy tinh bằng một pulegoso 1 với vàng lá và đá da trời nóng ra sao, mà là chàng sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy khung cảnh dấu yêu này nữa. Chàng đứng trước mũi thuyền, hình chạm đầu mũi thuyền lấm tấm nước biển, nhìn sang trái về Santa Maria della Salute, đôi mắt nhìn cái khối mái vòm trắng lờ mờ hiện ra trong màn đêm vẻ tinh khôi của nó. Người ta đã đặt móng cho ngôi nhà thờ lớn vào năm 1631, năm Corradino chào đời, để cảm tạ Đức Mẹ Đồng Trinh đã cứu thành khỏi Trận dịch. Tuổi thơ và thời trai trẻ của chàng đã sánh bước với công trình đang dần hình thành. Giờ nó đã hoàn thành, năm 1681, năm chàng chết. Chàng chưa từng được thấy sự rỡ ràng trọn vẹn của nó dưới ánh sáng ban ngày, và giờ thì sẽ không bao giờ nữa. Chàng nghe thấy một người trèo traghetto 2 thê lương mời khách khi băng qua Kênh lớn. Chiếc thuyền đen của ông gợi nhớ một chiếc gondola 3 đưa tang. Corradino rùng mình. Chàng cân nhắc xem có nên gỡ cái mặt nạ bauta trắng ra không ngay khi chân chàng đặt lên bờ; một khoảng khắc nên thơ – một cử chỉ cao cả khi chàng trở về Serenissima 4. Không, mỉnh còn một việc nữa phải làm trước khi họ tìm thấy mình. Chàng cài kín chiếc áo choàng đen trên vai chống lại sương mù tăm tối và đi qua Piazzetta dưới lớp che của chiếc mũ ba sừng và bauta. Bộ trang phục tabarro 5 truyền thống, đen từ đầu đến chân trừ chiếc mặt nạ trắng, phải giúp chàng đủ vô danh để kéo dài thời gian chàng cần. Bản thân cái bauta, một phiến mặt nạ ma quái hình thù như cái xuổng của phu đào huyệt, có cái mũi ngắn và cằm dài có thể biến đổi giọng một cách kỳ quái nếu chàng phải nói. Chẳng mấy lạ là, chàng nghĩ, cái mặt nạ vay mượn tên nó từ ngữ "baubau", "ác quỷ" mà các ông bố bà mẹ cầu khẩn để làm mấy đứa con lang thang của họ khiếp sợ. Theo thói quen do mê tín, Corradino đi nhanh vào màn đêm qua giữa hai cây cột San Marco và San Teodoro vươn lên, trắng và đối xứng. Vị Thánh và con quái vật đứng trên đỉnh trán tường của hai cây cột chìm trong bóng tối. Nấn ná lại đây là xui xẻo, vì các tội nhân bị hành quyết giữa hai cây cột này – bị treo bên trên hoặc chôn sống ở dưới. Corradino làm dấu thánh giá, tự nhận ra mình và mỉm cười. Còn vận rủi nào nữa có thể xảy đến cho chàng? Ấy thế mà chàng vẫn rảo bước. Vẫn còn một tai họa có thể làm hỏng mình: bị ngăn cản không hoàn thành được việc cuối cùng. ... Mời các bạn đón đọc Người Thổi Thủy Tinh Xứ Murano của tác giả Marina Fiorato.
Người Trong Bóng Tối - Paul Auster
Ngày 19/8, độc giả nước Mỹ cầm trên tay cuốn tiểu thuyết 'The man in dark' của nhà văn Paul Auster. Và cùng ngày này, bản dịch cuốn sách do dịch giả Trịnh Lữ thực hiện với tựa 'Người trong bóng tối' cũng xuất hiện trên các kệ sách. Người trong bóng tối là câu chuyện về August Brill, một nhà phê bình văn học 72 tuổi, bị tai nạn phải ngồi một chỗ. Trong khi ông ngồi trên xe lăn hay nằm lì trên giường, chong chong mất ngủ, thì một thế giới khác, một "thực tại song hành" đang diễn ra với đầy những phức tạp và phi lý. Thực tại ấy đúng là do trí tưởng tượng của August Brill tạo ra, đưa đẩy ảo thuật gia Owen Brick vào một nước Mỹ khói lửa của cuộc nội chiến lần thứ hai, như cách lý giải của tác giả: "Chuyện chiến tranh. Cứ mất cảnh giác một tí thôi là chúng ào đến, từng trận một, từng trận một". Và chiến tranh vẫn chỉ là cái cớ để Paul Auster kể những câu chuyện nhiều ngụ ý của mình. Trước đó, hai tác phẩm của Paul Auster là Trần trụi với văn chương và Nhạc đời may rủi đã được dịch và phát hành tại Việt nam. *** Paul Auster sinh năm 1947 tại thành phố Newark, bang New Jersey (Mỹ) trong một gia đình Do Thái trung lưu gốc Ba Lan. Tốt nghiệp đại học Columbia năm 1970, ông sang Paris và sống bằng việc dịch văn học Pháp. Năm 1974, ông trở lại Mỹ và bắt đầu sáng tác. Tên tuổi Paul Auster bắt đầu nổi lên khi bộ ba tiểu thuyết The New York Trilogy (đã được dịch sang tiếng Việt với tựa Trần trụi với văn chương), trong đó ông tạo nên hình thức hậu hiện đại riêng biệt của mình. ***  Tôi một mình trong bóng tối, đang quay cuồng vật lộn với một cơn mất ngủ nữa, một đêm trắng nữa trong chốn hoang mạc Mỹ vĩ đại. Trên gác, con gái và cháu gái tôi đang ngủ trong phòng của chúng, đứa nào cũng một mình. Miriam, bốn mươi bẩy tuổi, đứa con duy nhất của tôi, đã ngủ một mình từ 5 năm qua, và Katya hai mươi ba tuổi, đứa con duy nhất của Miriam, trước đây vẫn ngủ với một thanh niên tên là Titus Small, nhưng giờ thì Titus đã chết rồi, và Katya ngủ một mình với con tim tan nát của nó.   Sáng trưng, rồi bóng tối. Nắng dội xuống từ mọi ngả trời, sau đó là đêm đen, những vì sao im lặng, gió xao động lá cành. Lệ thường là vậy. Tôi đã sống trong ngôi nhà này được hơn một năm nay, suốt từ ngày họ cho tôi xuất viện. Miriam cứ nhất định là tôi phải về đây. Lúc đầu chỉ có hai bố con, với một hộ lý hàng ngày đến chăm tôi trong lúc Miriam đi làm. Thế rồi, ba tháng sau đó, tai họa giáng xuống đầu Katya, và nó bỏ dở trường điện ảnh New York để về nhà với mẹ ở Vermont.   Cha mẹ thằng bé ấy đã lấy tên đứa con trai của nhà danh họa Rembrandt ngày xưa để đặt cho nó, thằng bé của những bức tranh, đứa nhỏ tóc vàng với cái mũ đỏ, cậu học trò mơ mộng ngỡ ngàng với những bài học của mình, thằng bé đã lớn lên trong bệnh tật và chết khi mới trên hai chục tuổi đầu, hệt như Titus của Katya[1]. Một cái tên tuyệt mệnh, nhẽ ra phải bị cấm tiệt từ lâu rồi. Tôi thường nghĩ đến cái chết của Titus, câu chuyện khủng khiếp của cái chết ấy, những hình tượng của cái chết ấy, đám tro tàn trắng xóa của nó bao phủ lên đứa cháu gái buồn khổ của tôi, nhưng tôi không muốn lại về miền ý nghĩ ấy nữa, nhất là bây giờ, tôi phải tránh xa nó, càng xa càng tốt. Đêm còn rất dài, và khi tôi nằm trên chiếc giường này nhìn vào bóng tối, một thứ bóng tối đậm đặc đến mức cả trần nhà cũng không còn thấy đâu nữa, tôi bắt đầu nhớ đến câu chuyện mình đã bắt đầu đêm hôm trước. Đó là việc tôi làm khi giấc ngủ không chịu đến. Tôi nằm trên giường và tự kể chuyện cho mình. Có thể những câu chuyện ấy chẳng đi đến đâu, nhưng cứ còn sống với chúng thì tôi còn không phải nghĩ đến những thứ mình vẫn muốn quên đi. Nhưng tập trung cũng không phải là dễ, và thường thì cuối cùng tâm trí tôi vẫn cứ trôi khỏi câu chuyện mình đang cố kể và dạt vào những thứ mình chẳng muốn nghĩ đến chút nào. Chẳng biết làm sao được. Tôi vẫn cứ thua như thế, thua nhiều hơn được, nhưng không có nghĩa là tôi không chịu gắng hết sức mình. ... Mời các bạn đón đọc Người Trong Bóng Tối của tác giả Paul Auster.
Quan Hệ Nguy Hiểm - Khiêu Dược Hỏa Diệm
Khiêu Dược Hỏa Diễm là cái tên tương đối lạ, không có sức thu hút như Cố Mạn, Tiên Chanh, Diệp Lạc Vô Tâm hay Đường thất công tử. Tuy nhiên, sau khi đọc xong cuốn Quan hệ nguy hiểm, Hoa Ban quyết định phải ra sức săn lùng các tác phẩm khác của tác giả này. Nói làm sao nhỉ? Một tác phẩm đồ sộ về nội dung, hình thức, lối viết và từ ngữ. Ngay từ  chương 1 của câu chuyện, người đọc đã không cách này dứt ra được. Bối cảnh diễn ra chủ yếu ở 3 nước Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan. Đây là một câu chuyện nồng nặc mùi súng đạn, tình dục, bạo lực… thể loại bao gồm có tình cảm, trinh thám, hình sự, …người viết đã xây dựng tỉ mỉ và chân thực bộ mặc xấu xa của thế giới ngầm vùng Tam giác vàng. Bắt đầu từ khi cô bác sĩ trẻ Đặng Sơ Vũ bị bắt làm con tin trong một vụ khủng bố ở Thái Lan rồi may mắn rơi vào tay Tam ca Lục Tử Mạc của nhóm buôn bán ma túy Kim Gia. Con người này tự nhận mình bị bất lực, chỉ muốn dùng cô làm vật chơi đùa. Ấn tượng ban đầu của cô về anh ta chính là giọng nói trầm ấm, còn cảm nhận ban đầu của người đọc là có linh cảm anh ấy là người tốt. Bởi vì theo cách kể của tác giả, Tử Mạc đã cố ý cứu Sơ Vũ trở thành trò tiêu khiển dung tục của đám đàn ông và còn tạo cơ hội để cô được giải cứu. Tuy nhiên, tác giả cũng sớm làm người đọc vỡ mộng khi cho anh ta lộ ra sự nhơ nhuốc, máu lánh, nguy hiểm chết chóc như đúng công việc anh ta làm. Lục Tử Mạc được người trong giới đánh giá là “không có nhược điểm” từ ngày gặp Sơ Vũ đã để lộ mọi sơ hở chết người cũng như hành động trái quy tắc bản thân Sau khi đọc hết truyện, Hoa Ban quyết định cho tên anh vào nhóm nam nhân vật top tem của tiểu thuyết ngôn tình. Nếu xét trong đề tài xã hội đen, tội phạm thì rõ ràng Lục Tử Mạc cuốn hút hơn cả Hàn Trạc Thần, An Dĩ Phong, Lôi Kình vân vân và ve ve ^^ Anh được miêu tả với phong cách Bad Guy trong công việc, sự can đảm và bãn lĩnh phi thường lúc nguy nan. Nếu Hàn Trạc Thần khiến người đọc ngất ngay vì uy quyền, tiền tài, bề ngoài, lòng si tình thì Lục Tử Mạc là hình mẫu của người đàn ông không thể đốn ngã, hành động siêu phàm và bình tĩnh ngay lúc cận kề cái chết. Hầu hết câu chuyện anh không mấy khi thảnh thơi làm ông hoàng trong địa vị thứ 3 của Kim Gia mà là lăn lộn trong cuộc chiến ma túy và sinh tử. Cả tình huống ngặc nghèo nhất cũng không khiến anh khiếp sợ. Người đọc sẽ yêu mến nhân vật dù cho anh thường là kẻ bị chỉa súng vào đầu, bị săn lùng, tả tơi hay thương tích trầm trọng. Chỉ như thể mới thấy được bản năng sinh tồn và lòng dũng cảm của con người này. Phong cách viết của truyện này là theo trường phái hành động. Nhiều lúc tình hình của đôi nhân vật chính nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc, khiến ta phải thót tim chờ đợi. Cái hay khác là câu chuyện viết quá thực, không hề kể lể sơ sài mà còn cho thấy vốn kiến thực của người viết về chính trị, quân sự, thao lược, văn hóa các dân tộc người Thái Lan,… Nhờ vậy mà câu chuyện sống động như một bộ phim của HBO. Dường như mọi chi tiết đều có căn cứ, tính logic rõ ràng. Nhân vật không đối thoại thừa câu nào và sự tỉ mỉ trong lối tả khiến không gian truyện như hiện ra trước mắt. Đọc câu chuyện chính là khám phá xem 2 người làm cách nào để sống sót và thoát khỏi mỗi khi bị vây bắt, bị phản bội, bị hãm hại, bị cho vào tròng,… Có thể thấy rằng, con người thường quá ỷ lại vào vũ khí trong tay, vào số đông hay vào chút hiểu biết ít ỏi. Chính vì thế mà lần lượt các nhân vật bị thua thảm hại dưới tay Lục Tiểu Mạc dù anh không có lấy một tất sắt. Thật ra cái đầu của con người mới là quyết định chứ không phải tứ chi. Câu chuyện có nội dung mang tính kịch như trong điện ảnh nhưng không tạo cảm giác hoang đường mà còn rất chân thật. Nguồn: Hoa Ban - hoabanland.wordpress.com *** Ngày thứ bảy, Sơ Vũ cuối cùng cũng có thời gian dành cho bản thân sau 48 tiếng đồng hồ làm việc liên tục. Kể từ lúc đến công tác ở phòng cấp cứu bệnh viện số một Chiang Rai, Sơ Vũ đã quên mất cảm giác thong dong đi dạo phố là như thế nào. Di động của Sơ Vũ luôn ở tình trạng 24/24h mở máy. Dù cô vừa ngồi xe buýt hơn nửa tiếng đồng hồ về đến nhà, chỉ cần bệnh viện gọi điện thông báo bệnh nhân do cô phụ trách xảy ra tình hình đột xuất, Sơ Vũ sẽ lập tức quay lại, có thể lao vào cấp cứu thông đêm. Gần như không có thời gian cá nhân, phòng cấp cứu ở nước ngoài khác với trong nước. Ở đây giống như chiến trường không ngừng nghỉ. Trách nhiệm và sức ép đối với những người làm việc ở đây là không thể tưởng tượng nổi. CÓ lúc, Sơ Vũ cảm thấy cô không thể tiếp tục, dù bắt cô đi nơi mệt mỏi nhất là khoa phụ sản, cô cũng cảm thấy còn đỡ hơn phòng cấp cứu. Sơ Vũ năm nay 28 tuổi, vẫn sống độc thân. Công việc bận rộn ở nước ngoài khiến cô không có tinh thần nghĩ đến chuyện riêng tư. Tuy người nhà luôn thúc giục, nhưng ưu điểm lớn nhất của độc thân là sự tự do. Không cần nghĩ đến chuyện tan sở về nhà phải chăm sóc người đàn ông tứ chi mạnh khỏe nhưng chẳng làm gì, không cần nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa, giặt giũ, rửa bát. Nếu không muốn nấu cơm thì ra ngoài ăn. Khi nào cảm thấy cô đơn thì có sách báo, đọc hết số sách ba cô thu thập cũng phải mất mấy năm. Thứ bảy này nếu không phải trong nhà dùng hết vật phẩm thiết yếu, nếu siêu thị không chỉ cách nhà cô 5 phút đi bộ, Sơ Vũ sẽ ở nhà ngủ chứ chẳng thèm chạy ra ngoài mua đồ. Về cơ bản, Sơ Vũ không có tâm trạng shopping. Thân thể mệt mỏi khiến cô chỉ thèm chiếc giường mềm mại. Sơ Vũ hận mình không mọc hai móng sắc, quét sạch đám người xếp hàng đằng trước, sau đó mọc thêm hai đôi cánh, thanh toán xong bay vụt về nhà. Xếp hàng mất 10 phút, khó khăn lắm mới đến quầy thu ngân, Sơ Vũ cố nhấc giỏ đựng hàng nặng đặt lên quầy thu ngân. Đúng lúc này, siêu thị phát ra tiếng nổ cực lớn. Cửa kính lớn đằng trước quầy thu ngân nổ tung giống như trong phim điện ảnh, vô số mảnh thủy tinh bay đến như cơn mưa băng. Sơ Vũ đứng ngây người nhìn các mảnh thủy tinh bay về phía cô giống như phim quay chậm. Tay Sơ Vũ đột nhiên truyền đến sức mạnh to lớn. Có người bảo vệ đầu cô, nhanh chóng đẩy cô xuống đất. Tất cả động tác này chỉ diễn ra trong một hai giây. "Đi!" ... Mời các bạn đón đọc Quan Hệ Nguy Hiểm của tác giả Khiêu Dược Hỏa Diệm.
Nghe Mùi Kết Thúc - Julian Barnes
Hội đồng chỉ mất đúng 31 phút để quyết định Julian Barnes sẽ là người thắng giải, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc, có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Hãy lưu ý rằng Julian Barnes viết cuốn sách này khi ông đã ở ngoài ngưỡng 60 tuổi (năm 2011). Trước đó, qua mỗi thập kỉ, nhà văn đương đại nổi tiếng người Anh này đều có tác phẩm từng lọt vào chung khảo Man Booker. Đó là "Flaubert's Parrot" năm 1984, "England, England" năm 1998 và "Arthur & George" năm 2005. Có nghĩa là liên tiếp qua 4 thập kỉ, hội đồng giám khảo của Man Booker đều đã chú ý đến Julian Barnes - tác gia từng hoạt động rất nhiều trong các tổ chức đấu tranh vì quyền con người. Đến năm 2011, họ chỉ mất đúng 31 phút để quyết định ông sẽ là người thắng giải năm nay, với một tác phẩm được tuyên bố là viết đẹp, dễ đọc,  có chất lượng cao và phản ánh được con người của thế kỉ 21. Không chỉ thành công với Man Booker, trước đó Julian Barnes từng sở hữu gần 10 giải thưởng khác, trong đó có giải  Shakespeare, giải Prix Femina Étranger hay giải David Cohen.  Nói vậy để biết rằng, "Nghe mùi kết thúc" đã được viết với tất cả kinh nghiệm và trí tuệ sâu sắc, đo bằng chiều dài của thời gian. Nó cũng là một cái nhìn ngược chiều có tính suy nghiệm về tuổi trẻ của một nhà văn thông tuệ.  "Khi bạn còn trẻ, bạn nghĩ bạn có thể đoán trước được ít nhiều những đau đớn và trống vắng tuổi tác sẽ mang lại... Nhưng tất cả những cái ấy đều là nhìn về phía trước. Điều bạn không làm nổi ấy chính là nhìn về phía trước, rồi thì tưởng tượng mình đang nhìn lại đằng sau từ cái điểm tương lai đó. Học những cảm xúc mới mà thời gian đem lại. Những nhân chứng cuộc đời bạn giảm dần, có ít thuyết chứng hơn, và thế là bớt đi tính chắc chắn việc bạn là ai hay đã từng là ai." - nhân vật chính Tony Webster tự ngẫm.  Ý tưởng của cuốn tiểu thuyết rất có thể bắt nguồn từ một câu chuyện gia đình giữa Julian Barnes và anh trai ông - một nhà triết học. Julian Barnes thừa nhận ông và anh của mình từng bất đồng ý kiến khá nhiều về những sự kiện xảy ra trong thời thơ ấu. Người anh tuyên bố những kí ức rất có thể sai lầm nếu ta không có những chứng cứ độc lập để xác minh. "Tôi thì tin hơn vào kí ức, hoặc đang tự đánh lừa bản thân mình" - Julian nói.  Có lối viết chiêm nghiệm và mở ra nhiều suy nghĩ nhưng "Nghe mùi kết thúc" lại rất dễ đọc, rất thanh lịch, tao nhã, đậm chất Anh. Nó cũng là một câu chuyện tình thời tuổi trẻ khi bản năng và lý trí nằm ở những tầng khác nhau. Ở giữa Tony Webster và Adrian là Veronica - một cô gái vô cùng thông minh, lý trí, người đã chuyển từ vị trí người yêu của Tony sang yêu Adrian.  "Nghe mùi kết thúc" thực sự là một cuộc phiêu lưu đáng giá của suy nghĩ và kí ức. Dù kí ức của mỗi người hiện đang có là ngắn hay dài.  *** “Một viên ngọc của sự hàm súc và chính xác… Nghe mùi kết thúc gói gọn chỉ trong ngần ấy trang nhiều thứ đến nỗi khi đọc xong ta thấy thỏa mãn hơn so với đọc nhiều cuốn tiểu thuyết dày gấp mấy lần như vậy.” – THE LOS ANGELES TIMES “Bi đát nhưng mạnh mẽ, Nghe mùi kết thúc dấn sâu vào những bí ẩn của ký ức chúng ta, nói thôi thúc khiến chúng ta muốn chỉnh sửa, viết lại và đôi khi xóa bỏ hoàn toàn quá khứ của chúng ta.” – VOGUE “Với sự tinh tế và khéo léo đặc trưng, Barnes chuyển trò chơi mèo-bắt-chuột này thành một câu chuyện thực sự căng thẳng và hấp dẫn.” – THE WASHINGTON POST “Ngắn gọn, đẹp… Cái câu hỏi lạnh xương sống ấy – Tôi có đúng là người mà lâu nay tôi vẫn đinh ninh là mình không? – hóa thành một câu hỏi ẩn chứa nhiều bất ngờ đến đáng ngạc nhiên. Như Barnes đã làm phơi lộ ra một cách vừa cao nhã vừa đau đớn, chúng ta thẩy đều là những người kể chuyện không đáng tin, những kẻ được cứu chuộc không phải nhờ sự chính xác của ký ức chúng ta mà nhờ chúng ta sẵn sàng đặt nghi vấn về ký ức đó.” – THE BOSTON GLOBE Tony đã già, Tony cảm nhận rõ đoạn kết cuộc đời mình. Một cuộc đời dường như ổn thỏa, tuy có thất vọng, có ly dị và nhiều mất mát – như mọi cuộc đời. Thế nhưng Tony sẽ rất bất ổn ở chính cái đoạn kết này. Julian Barnes, nhà văn danh tiếng của nước Anh, đã vô cùng lạnh lùng và tỉ mỉ - nhưng chỉ cần sử dụng rất ít trang giấy – miêu tả cái nhà tù mà con người bị giam hãm bên trong, như một điều không thể khác; nhà tù ấy ác nghiệt vì là tổng thể của hiện tại, tương lai và quá khứ. Những mảnh vụn li ti của quá vãng, cộng dồn thêm bao nhiêu thời gian và sự nham hiểm của số phận, khi đuổi kịp Tony đã mang sức nặng khủng khiếp, sức nặng của kết cục. Văn chương bậc thầy thường xuyên có một sắc thái quỷ quyệt, điều này thể hiện trong cuốn tiểu thuyết này dưới dạng một lời nhắn nhủ vô thanh của tác giả: Đừng quá tự tin, vì cuộc đời này vốn dĩ rất nhiều bất ổn. “Dày đặc những ý tưởng triết lý… Cuốn sách tạo ra sự căng thẳng đích thực chẳng khác gì một loại truyện trinh thám về tâm lý con người.” – Michiko Kakutani, THE NEW YORK TIMES   Mời các bạn đón đọc Nghe Mùi Kết Thúc của tác giả Julian Barnes.