Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Đau Khổ - Aleksey Nikolayevich Tolstoy

Con đường đau khổ là đỉnh cao chói lọi của tài năng A.Tôlxtôi, là cuốn tiểu thuyết cổ điển của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. A.Tôlxtôi đã viết bộ tiểu thuyết này trong hơn hai mươi năm (từ 1919 đến 1941) và quá trình viết cuốn tiểu thuyết ấy cũng là quá trình lớn lên trong tầm nhận thức của nhà văn đối với cách mạng. Tập đầu của bộ tiểu thuyết, cuốn Hai chị em, có thể xem là một thiên tự sự về vận mệnh cá nhân của các nhân vật trí thức đang tìm đường giữa những biến động dữ dội của cuộc sống. Mở đầu cuốn sách, A.Tôlxtôi đưa ta vào không khí của kinh thành Pêtecburg năm 1914, những ngày trước chiến tranh. Pêtecburg và cả nước Nga đang sống trong những ngày tháng hấp hối của xã hội tư sản, những ngày tháng chán chường, phờ phạc, sặc nồng mùi vốtka và ái ân không tình yêu. Xã hội tư sản đang sống những ngày tàn của nó và những nguời trí thức tiểu tư sản, như "những con bướm", "không dính dáng gì đến khía cạnh nào của nước Nga cả", đang khắc khoải, hoảng hốt đi tìm "con đường thứ ba" làm giải pháp phá vỡ bế tắc của cuộc sống. Sống trong không khí xã hội ấy, những nhân vật của A.Tôlxtôi do bản chất của mình, cũng đã dấn mình vào những cuộc tình phù du, những cuộc "dạ đàm" triết học và nghệ thuật, vào những suy tư dằn vặt vô vọng và đau đớn để tìm cách thoát ra khỏi xã hội và thoát ra khỏi chính mình. Katia, Đasa, Rốtsin... kẻ ít người nhiều, đều đã sống như những "thân phận cô đơn", những kẻ bị "lưu đày" trong xã hội ấy. Cuối cùng, họ sẽ đi tới đâu với những ưu tư ấy? Như tác giả sau này sẽ cho thấy, con đường của họ sẽ là con đường lạc lối, nếu không có một giải pháp thực sự cách mạng. Mặc dù trong tập đầu này, A.Tôlxtôi không có ý định mô tả chính quá trình lịch sử và có ý định viết một cuốn tiểu thuyết sử thi về nội chiến và cách mạng, Hai chị em vẫn không phải là một cuốn tiểu thuyết thuộc loại sinh hoạt gia đình tầm thường. "Hai chị em không phải là tiểu thuyết lịch sử. Đó là hình ảnh thời đại qua những ấn tượng riêng tư" (A.Tôlxtôi). Trong tập đầu tác phẩm này, A.Tôlxtôi đã chú ý xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng hơn là mô tả những biến cố đang diễn ra trên dòng lịch sử. Vào thời bấy giờ, đây chính là vấn đề thời sự của toàn thể giới trí thức Nga. Âm điệu của cuốn tiểu thuyết là âm điệu triết lý xã hội đi đôi với trữ tình cá nhân và điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu của cuốn tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tác phẩm trước hết là ở chỗ này, ở chỗ vận mệnh cá nhân các nhân vật đã được A.Tôlxtôi thể hiện trong sự tha thiết đối với vận mệnh của nước Nga, trong nhiệt hứng cải biến cách mạng, mặc dù chính tác giả đã không hiểu rõ thực chất của cách mạng. Nghệ thuật của tác giả trong việc tạo ra những bức tranh giàu màu sắc, trong việc sử dụng ngôn từ và chất thơ trữ tình đằm thắm, sự "miêu tả lý thú và tinh tế tâm lý của một người con gái Nga đến tuổi yêu đương" như lời nhận xét của Gorki... tất cả đã góp phần tạo nên hứng thú đặc biệt của cuốn sách. Kết thúc tập I, tác giả, qua lời nhân vật Rốtsin như muốn nói lên một tư tưởng chính của tác phẩm: "Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét và sẽ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại dịu dàng và chan chứa tình yêu thương..." Các nhân vật trong tập I đã tìm đến với tình yêu và nghĩ rằng tình yêu ấy sẽ là điểm chót cùng của hạnh phúc và hi vọng. Tình yêu muốn vượt lên cao hơn cuộc sống, tự biến thành vương quốc của tự do, vịnh biển bình yên cho những con tàu trong bão táp. Đối với A.Tôlxtôi, đây là một tư tưởng không mới. Đây chỉ là một tư tưởng mà A.Tôlxtôi khẳng định lại một lần nữa trong hoàn cảnh khác. Trong phần mở đầu vở kịch Ngày chiến trận viết từ năm 1914, qua lời nhân vật của mình, A.Tôlxtôi cũng đã tuyên bố sức mạnh toàn năng của tình yêu: "Những ngày của chúng ta sẽ trôi qua, những cơn bão táp sẽ lắng dần, lúc bấy giờ niềm vui sẽ trở thành sức mạnh thống trị toàn năng... Cần phải tin vào thời đại trị vì của niềm vui và biết rằng con đường của nó dẫn đến những cánh cổng vàng của tình yêu...". Nhưng chủ đề đi tìm hạnh phúc cá nhân, chủ đề chủ yếu trong phần đầu của cuốn tiểu thuyết, về sau đã bị phủ định vì chính cuộc sống đã bác bỏ quan niệm cũ kỹ này. Và nếu như tác phẩm kết thúc ở đấy, thì chính A.Tôlxtôi đã bỏ rơi các nhân vật của mình vào lúc cuộc sống của họ bước vào một giai đoạn gay go hơn bao giờ hết trước những biến chuyển đột ngột của cuộc đời. Thực ra, đây là một vấn đề dễ hiểu vì chính bản thân A.Tôlxtôi cũng đang choáng váng trước những chuyển động cách mạng, bản thân ông cũng đang ở trong tâm trạng hoài nghi, đau đớn. Với một tâm trạng như vậy làm sao có thể tìm thấy lối ra cho nhân vật? Tác giả bế tắc, thì nhân vật cũng bế tắc, đó là điều có tính quy luật trong nghệ thuật. Trong một bức thư viết sau này. A.Tôlxtôi đã giải thích sự kết thúc Hai chị em trong tâm trạng ấy: "Tôi đã viết xong Con đường đau khổ ở Campa, nơi đây tôi đã viết các chương cuối trong vòng một tháng. Đoạn cuối tôi đã thất bại, và tôi đã có lần xé nó đi, vứt qua cửa sổ. Sở dĩ tôi thất bại trong phần cuối là do một mẫn cảm sâu sắc có tính quy luật của nghệ sĩ, vì ngay từ lúc bấy giờ tôi hiểu rằng cuốn này chỉ là phần đầu của một thiên anh hùng ca và thiên anh hùng ca đó sẽ khai triển. Chính vì thế mà có sự thất bại ở phần cuối chứ không phải vì như người ta nói, hồi bấy giờ tôi chưa bước lên những đỉnh cao để nhìn lại những sự việc đã xảy ra. Người nghệ sĩ còn có thể bước lên đỉnh cao như thế nào khi mà anh ta bắt đầu hiểu rằng mình đang ở trong sương mù, đang mò mẫm trong bóng tối, rằng mọi sự đều trở thành mơ hồ, rối ren, và muốn hiểu được những điều ấy thì phải đợi đến một lúc nào đó trong tương lai. Ngay khi tôi đã chữa lại, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thể nói là có một kết thúc. Vả chăng không thể có như thế được vì nó chỉ là phần đầu của một bộ tiểu thuyết ba tập". * K.Fêđin, một nhà văn Liên Xô nổi tiếng, đã có một nhận xét đáng chú ý về sự chuyển tiếp giữa Hai chị em và cuốn tiếp theo Năm 1918: "Trong Hai chị em ta nghe thấy bước đi của chính lịch sử, lúc đầu vang lên khe khẽ, sau đó rõ dần, kiên trì, kéo dài và cuối cùng lấn át tất cả. Trong khi xây dựng cuốn tiểu thuyết Năm 1918 tác giả đã để cơn bão táp tràn vào tất cả các cửa lớn, cuốn phăng đi tất cả những số phận cá nhân nhỏ bé, đáng yêu và tuyệt vọng của nhân vật tiểu thuyết". Hai chị em là tác phẩm về số phận của mình, của thế hệ mình. "Ấn tượng riêng tư về thời đại", tính chất "phi lịch sử" - nếu như có thể nói được như vậy - của cuốn Hai chị em lộ ra trong cách hình dung cách mạng, xem cách mạng như sự bùng nổ những sức mạnh tự phát tàn nhẫn. Các nhân vật của Hai chị em thấy cách mạng, chiến tranh, lịch sử như là một cái gì trớ trêu, thù địch, thay đổi bất thường, và họ cố đem đối lập tính chất "bấp bênh" của lịch sử với sự "vững vàng" của hạnh phúc cá nhân. Tính chất phi lịch sử đó cũng biểu lộ rõ qua việc mô tả phiến diện những người đại diện của cách mạng, những người cộng sản. Vaxilli Rubliôp trong Hai chị em, trong cách nhìn của Têlêghin, tuy là một con người tiêu biểu cho nước Nga đang thức tỉnh, cũng chỉ là một người được mô tả gọn lỏn trong mấy tiếng "rất thông minh, ác như quỉ". Viết cuốn Năm 1918, A.Tôlxtôi đã chuyển hẳn cách nhìn và cách miêu tả đời sống nhân vật. Quá khứ đang còn nóng bỏng được tái hiện và tác phẩm bản lề này chuyển hẳn tác phẩm ba tập thành tác phẩm sử thi, anh hùng ca. A.Tôlxtôi đã thể nghiệm lại cuộc sống của đất nước Xô viết trong một giai đoạn đột biến, ông phải suy nghĩ lại, cảm xúc lại tất cả dưới một cái nhìn mới và bản thân tầm rộng lớn của cuộc sống chiến đấu định tái hiện vào tác phẩm đã đòi hỏi một dung lượng tiểu thuyết rộng lớn, buộc A.Tôlxtôi phải chuyển sang sử dụng thể loại anh hùng ca. Nhưng bản thân tầm rộng lớn của dung lượng tiểu thuyết không phải bao giờ cũng dẫn đến tính chất sử thi, hoành tráng. Vấn đề là "với tư cách một sử gia" A.Tôlxtôi đã cảm thụ thời đại mình như là lịch sử. Ông đã nhìn thấy trong vô số biến cố của quá khứ những bước tiến của lịch sử, nhìn thấy ngọn nguồn của lịch sử hoành tráng trong hiện thực của đất nước Xô viết đang diễn ra sôi động từng ngày. Nếu như đi tìm hạnh phúc cá nhân là mô-típ chủ yếu của phần đầu cuốn tiểu thuyết thì trong Năm 1918 những sự kiện lịch sử dường như đối lập với số phận cá nhân các nhân vật. Trong tác phẩm này, các nhân vật của A.Tôlxtôi đã đi vào cuộc sống và sự tiếp xúc với nhân dân đã dần dần thủ tiêu những mâu thuẫn cá nhân và xã hội, cuối cùng hòa hợp lại trong tình yêu đối với Tổ quốc và nhân dân. Cùng với việc miêu tả chính quá trình lịch sử của đất nước Nga, trong Năm 1918 và sau đó trong Buổi sáng ảm đạm đã xuất hiện hàng loạt những nhân vật cộng sản đầy sức sống và có ý nghĩa lớn lao. Những con người này, những người đã cứu đất nước và nhân dân ra khỏi bàn tay của bọn phản động và bọn can thiệp nước ngoài, đã là "tinh hoa, lực lượng và tương lai của đất nước" (Lê Nin). Đấy là những người yêu nước chân chính, chiến đấu kiên định, những người thông minh mà giản dị, đôn hậu, được tôi luyện vững vàng trong chính cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù. Ivan Gôra, người công nhân cộng sản có ý thức, người chính ủy đã dương cao ngọn cờ đỏ trong trận ác liệt trên bờ sông Manyts và khi hi sinh rồi, anh vẫn còn "dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm mảnh đất này" Tsugai, người cán bộ tổ chức quần chúng thông minh, giàu kinh nghiệm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Số phận của Anyxya tượng trưng khát vọng vươn tới cái đẹp và chứng tỏ cách mạng đã mở rộng, thức tỉnh những khát vọng chưa từng có đối với văn học của nhân dân lao động, Cô thanh niên cộng sản Maruxya được miêu tả chỉ trong vài trang, nhưng hình bóng của cô thấm nhuần chất thơ của sự trong trắng và niềm tin ở lý tưởng... Qua tất cả những nhân vật này, cũng như qua việc thể hiện một cách chân xác hình tượng đám đông thủy thủ, hình tượng của những người lao động, A.Tôlxtôi muốn vạch rõ ảnh hưởng và tác động của họ đối với những người trí thức, vạch rõ sự xuất hiện con người mới. Năm 1939, Tôlxtôi viết cuốn Buổi sáng ảm đạm, tập cuối của bộ ba Con đường đau khổ và đã chấm dấu hết vào đúng ngày nổ ra chiến tranh vệ quốc vĩ đại - ngày 22-6-1941. Nối tiếp nhiệm vụ mô tả những biến cố lịch sử của Năm 1918, trong phần cuối này của bộ tiểu thuyết, A.Tôlxtôi đã sáng tạo một cách thể hiện độc đáo. Trong khi thu hẹp nhiệm vụ mô tả các sự kiện lịch sử vào vùng Ukrain và vùng xung quanh Xarítxưn, A.Tôlxtôi đi vào chiều sâu nội tâm của nhân vật, chiều sâu do cuộc cách mạng và nội chiến, do cuộc sống tác động vào ý thức và tâm lý của hàng triệu người. Trong Buổi sáng ảm đạm cũng như trong Năm 1918, A.Tôlxtôi đã sử dụng rộng rãi những tài liệu lưu trữ lịch sử. Và do đó có thể gọi Buổi sáng ảm đạm và Năm 1918 là biên niên sử của cuộc nội chiến. Dễ có ấn tượng là kết cấu của cuốn tiểu thuyết bị xé lẻ do sự mô tả luân phiên, chồng chéo nhau giữa hai tuyến sự kiện và con người, nhưng dụng ý của A.Tôlxtôi là muốn làm nổi bật tính chất bão táp của thời đại. Một bên là số phận cá nhân của các nhân vật, tình yêu, cuộc sống, những ưu tư dằn vặt, những tìm tòi đau đớn... và một bên là chính lịch sử đang chuyển động và soi bóng mình vào vận mệnh của mỗi cá nhân. Lịch sử không chỉ chuyển động trong các lớp tầng riêng tư của tiểu thuyết, chính lịch sử là một nhân vật lớn. Đã có nhiều nhà văn viết về nội chiến cách mạng của nước Nga. Nhưng sức mạnh của tài năng A.Tôlxtôi là ở chỗ ông đã miêu tả thành công những bức tranh sử thi rộng lớn, đồng thời đã mô tả một cách tinh tế, đầy cảm hứng thơ ca những tình cảm sâu kín nhất của con người. *** Nếu ví văn học Nga thế kỷ 19 như một cánh rừng đại ngàn thì Puskin, Lermantov, Gôgôl, Turghênhiev, Lev Tôlxtôi, Đôxtôiépxki, Tsêkhốv... là những đại thụ của rừng Nga mênh mông ấy. Các nhà văn Xô viết trong thế kỷ này cũng đã tạo ra một rừng Nga mới, trong đó cũng có những cây lớn mà bóng mát hẳn sẽ che rợp cho cả thế hệ mai sau. Lần lượt ta có thể điểm qua: Corki, con người khổng lồ của nền văn học Xô viết, cái gạch nối vĩ đại giữa văn học cổ điển Nga với nền văn học mới, người mở ra kỷ nguyên của nền văn học vô sản toàn thế giới. Maiacôvxki, nhà thơ Xô viết vĩ đại, Đăng tơ của thời đại mới, người bằng trái tim lớn đập mãnh liệt trong lòng ngực khỏe của mình, lần đầu tiên kết hợp thành công thơ ca và chủ nghĩa cộng sản. Sôlôkhôv, cánh chim đại bàng đã bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông trong văn học, người đã khắc họa vận mệnh của nhân dân Nga trong tiểu thuyết bằng những nét dao trổ tàn nhẫn, với một vẻ đẹp chói gắt, xốn xang... Và Phađêev, và Phuốcmanôv, và Axtơrốvxki... những nhà văn bước thẳng từ chiến trường nội chiến vào văn học, đã để lại những tiểu thuyết Chiến bại, Tsapaev, Thép đã tôi thế đấy như là những tượng đồng đen vững chắc trong văn học. Giữa những nhà văn ấy, con người có khuôn mặt hiền lành phúc hậu không lẫn với ai - A.Tôlxtôi - đã bước vào văn học Xô viết bằng con đường riêng của mình. Sinh năm 1889, A.Tôlxtôi đã qua thời thơ ấu tại một châu thành nhỏ trên bờ sông Vôlga nước Nga, con sông mà những người nông nô đã còng lưng kéo thuyền trong bức họa nổi tiếng của Rêpin   Ngoài tiểu thuyết Con đường đau khổ, trong thời gian từ 1923 đến khi mất (1945) A.Tôlxtôi đã lao động sáng tạo không ngừng, đạt đến những đỉnh cao của tài năng nghệ thuật với những cuốn "Piốt đệ nhất" (1925-1945), "Truyện của Ivan Xuđarep" (1942-1944), "Ivan Lôi đế" (kịch- 1943), "Bánh mì" (1937)... Là một người yêu mến nồng nhiệt Tổ quốc của mình không phải chỉ với tư cách là một công dân, một nghệ sĩ mà còn với tư cách một sử gia, A.Tôlxtôi đã viết về những bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử Nga: thời đại Ivan Lôi đế; thời đại Piốt đệ nhất; thời đại cách mạng Tháng Mười và nội chiến cách mạng, thời kỳ chiến tranh chống phát-xít xâm lược. Năm 1937, A.Tôlxtôi được bầu vào Xô viết tối cao của Liên Xô; năm 1938 ông được thưởng huân chương Lê Nin và được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1942 ông được trao giải thưởng Xtalin (sau này đổi thành giải thưởng Lê Nin, giải thưởng cao nhất về văn học của Liên Xô). Tổ quốc và nhân dân đánh giá rất cao những công trình sáng tạo nghệ thuật của A.Tôlxtôi. Tiếc thay cái chết quá sớm của ông đã làm nền văn học Xô viết mất đi những tác phẩm hùng vĩ mà ông chưa kịp viết hoặc còn đang viết dở dang. Mời các bạn đón đọc Con Đường Đau Khổ của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuần Làm Việc 4 Giờ
Nếu bạn biết cách quản lí thời gian, các mục tiêu cũng như thứ tự ưu tiên các công việc một cách hợp lí thì bạn hoàn toàn có khả năng tạo ra nguồn thu nhập đầy đủ dù chỉ làm việc 4 giờ mỗi tuần. Và thế là, tạm biệt nhé - những ngày làm việc 8 tiếng đồng hồ nặng nhọc! Cuốn sách THE 4-HOUR WORK WEEK đã làm dấy lên một làn sóng tư tưởng mới mẻ tại thung lũng Silicon. Marc Andreesen - chuyên gia về tối ưu hoá năng suất làm việc cá nhân đồng thời là một trong những doanh nhân nổi tiếng nhất ở trung tâm công nghệ cao của thế giới trong một bài phỏng vấn cho biết: "Về cơ bản, việc Tim đã làm là tập hợp và chắt lọc những học thuyết về quản lý thời gian cùng năng suất lao động trong vòng 2, 3 thập kỷ vừa qua, sau đó tối ưu hoá nó và đưa ra những khái niệm mới, rất hữu dụng". Bí quyết mà tác giả phát hiện ra được gói gọn trong chữ DEAL tương ứng với bốn bước: D: Definition (Xác định) Trong bước này Tim Ferriss giúp bạn thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ sai lầm và đưa ra những qui tắc và mục đích của một phương pháp mới. Bạn sẽ có câu trả lời cho câu hỏi những nhà giàu mới (new rich) là ai và họ hành động như thế nào. E: Elimination (Loại bỏ) Giết chết những quan điểm lỗi thời về cách quản lí thời gian. Bằng cách sử dụng những kĩ thuật khác thường của những nhà giàu mới: áp dụng “sự thờ ơ có chọn lựa” – loại bỏ những thứ rườm rà không cần thiết, chỉ chuyên tâm vào những việc thực sự quan trọng, bạn có thể tăng năng suất lao động lên ít nhất mười lần. Phần này cũng giải thích nhân tố đầu tiên tạo nên một phong cách sống sung túc, đó là thời gian. A: Automation (Tự động hóa) Có những phương pháp nào khiến tiền của cứ thế tự động chảy vào túi bạn? Trong bước này bạn sẽ tiếp tục tìm hiểu về thu nhập (income): nhân tố thứ hai tạo nên một phong cách sống sung túc, thoải mái và đâu là điểm khác nhau chính giữa thu nhập tương đối và thu nhập tuyệt đối? L: Liberation (Tự do) đây là bản tuyên ngôn về tính lưu động. Bạn sẽ học được cách điều khiển công việc từ xa trong khi đang ở trong kì nghỉ. “Tự do” ở đây không có nghĩa là các kì nghỉ rẻ tiền, nó ám chỉ cách bạn thoát khỏi các mối quan hệ ràng buộc bạn với một địa điểm cố định. Phần này cũng đề cập đến nhân tố cuối cùng tạo nên một cuộc sống thoải mái: tính lưu động (mobility). Ngoài rất nhiều ý kiến khen ngợi, đồng tình với những bí quyết này, cũng có một số ý kiến phản đối khá gay gắt. Có người cho rằng cuốn sách đang cố rao giảng một thứ phương châm sống không còn mới mẻ: “Tận hưởng cuộc sống ngay khi bạn còn có thể.” (Đã được Thoreau đưa ra cách đấy 2 thế kỷ!) Và đưa ra giải pháp để có thể thực hiện lối sống “nhàn hạ” đó là bằng cách thuê làm bên ngoài (outsource) tất cả những công việc có thể, do vậy bạn giảm thiểu những việc bạn phải làm và nhờ đó có thời gian để hưởng thụ cuộc sống. Những độc giả này lập luận rằng: như vậy, thực ra chẳng có công việc nào mất đi cả, nó chỉ được thực hiện bởi những người khác mà thôi. Và nếu ai cũng làm theo lời khuyên của Tim Ferriss thì cuối cùng ai sẽ là người làm những việc đó? Thêm nữa, bí quyết làm giàu mà Tim Ferriss cung cấp trong quyển sách này tập trung vào việc thành lập một doanh nghiệp điện tử, làm giàu nhờ kinh doanh qua mạng (công thức phổ biến giúp làm nên các nhà giàu mới). Công thức này khó có thể áp dụng cho mọi người, vì không phải ai cũng được thông minh và có điều kiện tốt như Ferriss. Những luồng dư luận có vẻ “đối nhau chan chát” với cuốn sách cũng là điều dễ hiểu, bởi không có gì là hoàn toàn tuyệt đối, cũng như Tim Ferriss không tham vọng khiến cả thế giới được “xả hơi thoải mái” chỉ nhờ cuốn sách của anh. Điều đáng ghi nhận nhất ở đây có lẽ là đa số các độc giả đều đánh giá cao cuốn sách của Tim Ferriss với nhận xét: cuốn sách có lối viết kiểu tự sự dễ đọc, bố cục mạch lạc dễ hiểu và đã cung cấp rất nhiều thủ thuật hay giúp những người làm công việc công sở tiết kiệm thời gian và giảm stress (ví dụ thủ thuật kiểm tra và trả lời email 2 lần một ngày vào những giờ xác định). Họ cũng cho rằng cuốn sách giúp họ thiết lập một cuộc sống “ngăn nắp hơn” và vui vẻ hơn nhiều. Và điều đó thêm một lần nữa khẳng định thêm: mọi bí quyết chỉ là bí quyết, còn áp dụng như thế nào, tùy thuộc hoàn toàn vào bạn, mà khởi đầu cho tất cả, bạn cứ tự nhủ với mình rằng: có thể làm nó tốt đẹp và ổn thỏa hơn hiện tại rất nhiều lần! *** Bạn đang cầm trên tay cuốn sách Tuần làm việc 4 giờ, chắc chắn bạn không khỏi ngạc nhiên về tựa đề của cuốn sách, khái niệm về New Rich1  (NR) cũng như tài năng siêu việt của tác giả trẻ tuổi viết nên cuốn sách này. Cảm giác đó của bạn cũng giống như cảm giác của chúng tôi khi lần đầu tiên biết về cuốn sách, lạ lẫm bởi những nguyên tắc, những khái niệm và một lối sống hoàn toàn khác biệt với lối mòn suy nghĩ từ hàng nghìn năm về trước. Sau một năm phát hành, cuốn sách đã được xuất bản ở 30 quốc gia trên thế giới, ngoài ra cuốn sách luôn nằm trong danh sách bestseller của các tạp chí nổi tiếng như New York Times, Wall Street Journal và Business Week. Tác giả Timothy Ferriss đã mô tả vô cùng chi tiết về cách bạn có thể thiết kế lối sống cho riêng mình và gia nhập nhóm NR. Bạn đã từng có rất nhiều giấc mơ phải không, cuốn sách này sẽ giúp bạn lập kế hoạch và không để những giấc mơ đó bị lãng quên một cách vô nghĩa. Bạn có thể làm việc cả tuần ở nhà mà vẫn hiệu quả hay vừa leo lên núi Rainier hoặc thăm vịnh Panama mà vẫn xử lý tốt công việc ở công ty của mình. Bạn đã bao giờ từng thuê một người trợ lý cách xa nửa vòng trái đất làm việc cho bạn chưa, cô ta có thể viết một lá thư ngọt ngào để xoa dịu người vợ đang giận dỗi của bạn, sắp xếp lịch trình làm việc cũng như chuẩn bị cho bạn báo cáo bán hàng sáng hôm sau. Bạn cũng có thể học thành thạo một ngôn ngữ trong vòng sáu tháng và sống cuộc sống của một triệu phú. Thời gian làm việc của bạn có thể giảm đi 20 lần nhưng thu nhập lại tăng lên gấp hơn 10 lần... Nếu bạn là người không xác định được mình thực sự cần gì, thì đây là cuốn sách dành cho bạn. Nếu bạn là một ông chủ hay một nhân viên đang chìm ngập trong đống công việc, cuốn sách này cũng dành cho bạn. Cuốn sách này không chỉ giúp bạn làm việc thông minh hơn, kiếm được nhiều tiền hơn mà còn giúp bạn thực hiện được những giấc mơ đã bị lãng quên của mình. Cuốn sách không chỉ dừng lại ở chỗ đưa ra những quan niệm, những câu châm ngôn hay ví dụ của tác giả để khơi dậy trong bạn mong muốn thay đổi cuộc sống hiện tại mà cuốn sách còn mô tả rất chi tiết cách bạn cần hành động, những thông tin hay trang web mà bạn cần sử dụng trong quá trình thay đổi cuộc sống của mình. Tuần làm việc 4 giờ là món quà tuyệt vời đối với chúng tôi, những người đầu tiên tiếp cận với cuốn sách và chúng tôi mong muốn chia sẻ món quà này cùng bạn. CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH THÁI HÀ  Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc 1 Những nhà triệu phú sống và làm việc tự do, không bị giới hạn bởi thời gian hay không gian... Họ có thể tự Thiết kế Lối sống - Lifestyle Design (LD) cho riêng mình. Mời các bạn đón đọc Tuần Làm Việc 4 Giờ của tác giả Timothy Ferriss.
Con Chim Xanh Biếc Bay Về
Không giống như những tác phẩm trước đây lấy bối cảnh vùng quê miền Trung đầy ắp những hoài niệm tuổi thơ dung dị, trong trẻo với các nhân vật ở độ tuổi dậy thì, trong quyển sách mới lần này nhà văn Nguyễn Nhật Ánh lấy bối cảnh chính là Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh nơi tác giả sinh sống (như là một sự đền đáp ân tình với mảnh đất miền Nam). Các nhân vật chính trong truyện cũng “lớn” hơn, với những câu chuyện mưu sinh lập nghiệp lắm gian nan thử thách của các sinh viên trẻ đầy hoài bão. Tất nhiên không thể thiếu những câu chuyện tình cảm động, kịch tính và bất ngờ khiến bạn đọc ngẩn ngơ, cười ra nước mắt. Và như trong mọi tác phẩm Nguyễn Nhật Ánh, sự tử tế và tinh thần hướng thượng vẫn là điểm nhấn quan trọng trong quyển sách mới này. Như một cuốn phim “trinh thám tình yêu”, Con chim xanh biếc bay về dẫn bạn đi hết từ bất ngờ này đến tò mò suy đoán khác, để kết thúc bằng một nỗi hân hoan vô bờ sau bao phen hồi hộp nghi kỵ đến khó thở. Bạn sẽ theo phe sinh viên-nhân viên với những câu thơ dịu dàng và đáo để, hay phe ông chủ với những kỹ năng kinh doanh khởi nghiệp? Và hãy đoán thử, điều gì khiến bạn có thể cảm động đến rưng rưng trong cuộc sống giữa Sài Gòn bộn bề? Lâu lắm mới có hình ảnh thành phố rộn ràng trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh - điều hấp dẫn khác thường của Con chim xanh biếc bay về. Chính vì thế mà cuốn sách chỉ có một cách đọc thôi: một mạch từ đầu đến cuối! Đặc biệt, kèm theo mỗi cuốn sách là 6 postcard với nhiều tranh vẽ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường. *** Tác giả Nguyễn Nhật Ánh Nguyễn Nhật Ánh (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955) là một nhà văn người Việt. Ông được biết đến qua nhiều tác phẩm văn học về đề tài tuổi mới lớn, các tác phẩm của ông rất được độc giả ưa chuộng và nhiều tác phẩm đã được chuyển thể thành phim. Ông lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, ông còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông. Năm 13 tuổi, ông đăng báo bài thơ đầu tiên. Tác phẩm đầu tiên in thành sách là một tập thơ tên Thành phố tháng tư (Nhà xuất bản Tác phẩm mới, 1984, in chung với Lê Thị Kim). Truyện dài đầu tiên của ông là tác phẩm Trước vòng chung kết (Nhà xuất bản Măng Non, 1984). Hai mươi năm trở lại đây, ông tập trung viết văn xuôi, chuyên sáng tác về đề tài thanh thiếu niên. Năm 1990, truyện dài Chú bé rắc rối của ông được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao giải thưởng Văn học Trẻ hạng A. Năm 1995, ông được bình chọn là nhà văn được yêu thích nhất trong 20 năm (1975-1995) qua cuộc trưng cầu ý kiến bạn đọc về các gương mặt trẻ tiêu biểu trên mọi lĩnh vực của Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ, đồng thời được Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh bình chọn là một trong 20 nhà văn trẻ tiêu biểu trong 20 năm (1975-1995). Năm 1998, ông được Nhà xuất bản Kim Đồng trao giải Nhà văn có sách bán chạy nhất. Năm 2003, bộ truyện nhiều tập Kính vạn hoa được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương Vì thế hệ trẻ và được Hội Nhà Văn Việt Nam trao giải thưởng. Đến nay ông đã xuất bản gần 100 tác phẩm và từ lâu đã trở thành nhà văn thân thiết của các bạn đọc nhỏ tuổi ở Việt Nam. Năm 2004, Nhật Ánh ký hợp đồng với Nhà xuất bản Kim Đồng tiếp tục cho xuất bản bộ truyện dài gồm 4 phần mang tên Chuyện xứ Lang Biang nói về hai cậu bé lạc vào thế giới phù thủy. Đây là lần đầu tiên ông viết một bộ truyện hoàn toàn dựa trên trí tưởng tượng. Vì vậy, để chuẩn bị cho tác phẩm này, ông đã phải mất 6 tháng nghiên cứu tài liệu và đọc sách báo liên quan như Phù thủy và Pháp sư, Các huyền thoại phương Đông, Ma thuật và thuật phù thủ. Sau Chuyện xứ Lang Biang, tác phẩm tiếp theo của ông là bút ký của một chú cún có tên Tôi là Bêtô. Năm 2008, ông cho ra đời tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, được báo Người lao động bình chọn là tác phẩm hay nhất năm 2008. Năm 2012, Nhật Ánh cho ra mắt truyện dài Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ. Các tác phẩm ra đời gần đây nhất là Ngồi khóc trên cây (tháng 6 năm 2013), Chúc một ngày tốt lành (tháng 3 năm 2014), Bảy bước tới mùa hè (tháng 3 năm 2015), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (28 tháng 2 năm 2016), Cây chuối non đi giày xanh (7 tháng 1 năm 2018) và Làm bạn với bầu trời (tháng 9 năm 2019). *** Con chim xanh biếc Đậu hờ trên tay Yêu anh đến thế Mà thành mây bay… Con chim xanh hạnh phúc ấy có trở về với Lương, với áo pull xanh, với Khuê, với Sâm? Ờ, cả đôi nam nữ hay ghé quán nữa, con chim xanh biếc kia dường như vẫn thấp thoáng trên vai họ. Chúng ta không ai sống để chết, dù cái chết sớm muộn gì cũng vẫy gọi chúng ta. Cũng như vậy, chúng ta không yêu để tan vỡ, đặc biệt khi tan vỡ là điều chúng ta hoàn toàn tránh được. Trái tim trong lồng ngực mỗi người giống như chiếc đồng hồ đỏng đảnh, thỉnh thoảng tỏ ra mệt mỏi biếng lười, nhưng bạn yên tâm đi, rồi nó sẽ tích tắc chạy lại một khi thần tình yêu đã lên dây. *** “Viết về tuổi thơ là cách duy nhất để tôi trục vớt những kỷ niệm đã chìm sâu dưới đáy thời gian, tái hiện lại những ngày tháng tươi đẹp đó và bày chúng trên trang sách như bày ra một thứ bánh ngon để hương vị quyến rũ của chúng mãi mãi ở lại với chúng ta. Cũng có thể chính tuổi thơ đã mượn tay tôi để làm tất cả những chuyện này.” — NGUYỄN NHẬT ÁNH, trích thư gửi bạn đọc Nhật Bản trong tác phẩm Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Đi qua hoa cúc bản tiếng Nhật do hai dịch giả Kato Sakae và Itoh Hiromi chuyển ngữ, nhà xuất bản Nikkei, 2020. “Tuổi dậy thì là thế hệ chưa chín chắn như người lớn nhưng không còn là trẻ nhỏ nữa, đây là lứa tuổi phức tạp và khó bảo đối với các bậc phụ huynh. Trẻ em thuộc thế hệ này có quan tâm và sở thích riêng, có vấn đề riêng không chia sẻ được với cha mẹ. Đầu thập niên 90 khí các tác phẩm dành cho lứa tuổi này của Nguyễn Nhật Ánh xuất hiện, các trẻ em sinh ra sau chiến tranh đã lớn lên thành thiếu niên tuổi dậy thì và hình thành một đội ngũ khá đông. Họ đã nhiệt liệt ủng hộ tác phẩm của ông và các tập sách của ông đã đạt được những kỷ lục không thua kém sách manga Nhật Bản. Liệu đó là vì bản thân ông vốn giàu tâm hồn trẻ, hiểu thấu những vui buồn của tuổi trẻ, muốn nâng cánh ước mơ của họ qua tác phẩm của mình, hay đó chính là những ước mơ thời trai trẻ của ông, nhưng dù là gì đi chăng nữa thì điều ông đã làm thật sự đáng kinh ngạc.” — Giáo sư KATO SAKAE, dịch giả người Nhật (Nguyễn Nhật Ánh trong mắt đồng nghiệp, NXB Trẻ 2017) “Nguyễn Nhật Ánh có cách kể chuyện rất cuốn hút. Cách viết của ông tuy nhẹ nhàng nhưng khi bắt đầu cầm sách của ông lên rồi thì khó có thể đặt xuống. Đọc sách của ông mới hiểu ra rằng tại sao các tác phẩm của ông lại bán chạy và được các độc giả từ nam tới nữ, đặc biệt là thế hệ trẻ yêu thích đến vậy. Bởi sáng tác của ông không chỉ phản ánh góc nhìn về xã hội Việt Nam đương đại, mà còn đem lại năng lượng tích cực cho người đọc.” — Tiến sĩ MONTIRA RATO, dịch giả người Thái Lan “Tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh có tầm ảnh hưởng lớn tới một lượng bạn đọc thiếu nhi đông đảo cả nước. Tôi gọi Nguyễn Nhật Ánh là ‘người soát vé trên chuyến tàu tuổi thơ’. Bởi trong mắt tôi, anh luôn hiện ra trong trẻo, với nụ cười nhân hậu, tay cầm tập vé là những cuốn sách phát cho hành khách lên con tàu trở về với tuổi thơ đẹp đẽ trong lành.” — Nhà văn PHẠM NGỌC TIẾN (Nhân Dân hàng tháng, tháng 6-2018) “Đến nay nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã viết trên 100 cuốn sách, chinh phục cả trẻ em lẫn người lớn. Tôi không rõ trong đầu ông còn bao nhiêu câu chuyện chưa được viết ra. Những câu chuyện của ông rất hài hước, giàu tính triết lý và đồng cảm với thế giới trẻ em một cách kỳ lạ. Tôi gọi Nguyễn Nhật Ánh là Astrid Lindgren của Việt Nam. Và tôi rất mong các tác phẩm của ông sẽ sớm được dịch sang tiếng Thụy Điển để độc giả nước tôi có cơ hội được đọc những tác phẩm thú vị của ông.” — LENA RYDIN, nhà văn Thụy Điển (Nhật báo Dagens Nyheter, 28-3-2019) Mời các bạn đón đọc Con Chim Xanh Biếc Bay Về của tác giả  Nguyễn Nhật Ánh.
Lão Tàn Du Ký
Lão Tàn du ký (chữ Hán: 老殘遊記), là truyện dài theo lối chương hồi do Lưu Ngạc viết vào những năm 1903 - 1906, tức cuối đời Thanh ở Trung Quốc. Theo các nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc, thì tác phẩm này thuộc thể loại Tiểu thuyết khiển trách. Lão Tàn du ký gồm tập I (20 hồi) và tập II (9 hồi). Ban đầu (1906), từ hồi 1 đến hồi 13 được đăng từng kỳ trên tờ bán nguyệt san Tú tượng tiểu thuyết, sau mới đăng đầy đủ trên Nhật nhật tân văn ở Thiên Tân. Do nội dung truyện hấp dẫn, có sức thu hút bạn đọc, nên sau đó được in thành sách (tái bản nhiều lần), và được trích giảng trong các sách giáo khoa ở Trung Quốc. Trong Lời giới thiệu sách Lão Tàn du ký (bản tiếng Việt), Trần Văn Chánh cho biết: Cuối đời Thanh, địa vị tiểu thuyết mới chính thức được đề cao, và nhiều tác giả đã có ý thức rõ rệt về mục đích sáng tác. Họ đã dùng tiểu thuyết để phơi bày và tố cáo thực trạng xấu xa của xã hội, sự sa đọa của giới quan lại và triều đình nhà Thanh trước vận mệnh đen tối của đất nước. Do đó đã xuất hiện hàng loạt những tiểu thuyết mang tính chất hiện thực, mang nội dung liên quan mật thiết đến những vấn đề thời sự nóng bỏng, mà các nhà nghiên cứu văn học của Trung Quốc thường gọi là Khiển trách tiểu thuyết. Một trong số tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc của thể loại này là Lão Tàn du ký. Lão Tàn du ký chép chuyện một nhà nho tên là Thiết Anh, hiệu Lão Tàn. Ông có tính hào hiệp, có kiến thức về kinh tế; nhưng không chịu làm quan, mà làm ông lang dạo, đi khắp miền Sơn Đông, tiếp xúc với mọi giới trong xã hội, nhìn thấy mọi cảnh đau khổ của dân chúng, rồi kể lại những điều mắt thấy tai nghe trên suốt dọc đường. Đó là thói nhũng nhiễu, tham lam, bỉ ổi, hay dùng cực hình giết hại dân lành, v.v...của các quan lại; là số phận bi thảm, cai đắng của những người thất cơ lỡ vận, nhất là phụ nữ mà Lão Tàn góp phần phanh phui và ra tay cứu vớt... Tuy nhiên, theo nhà văn Lỗ Tấn, thì 20 hồi đầu (tức tập I) là của Lưu Ngạc, có lời tựa cho chính ông viết vào đầu năm Bính Ngọ (1906) tại Thượng Hải; còn hai ba hồi cuối (ý nói tập II), có người nói là do người con viết nối thêm. *** Học giả Nguyễn Hiến Lê viết: Ở "Lão Tàn du ký", ngọn bút của Lưu Ngạc vừa có tính cách hiện thực phê phán, vừa có tính cách lãng mạn. Ông dùng chữ rất khéo, miêu tả sinh động. Tuy nhiên, bố cục cũng rời rạc như các trường thiên tiểu thuyết hồi đó, không có nhân vật nổi bật và cố sự cứ nối tiếp nhau, chứ không có liên lạc gì mật thiết với nhau. Tập nhì "Lão Tàn du ký" kể tiếp chuyện ông lang già đó đi chơi miền núi Thái Sơn, nội dung kém tập trên, đầy những tư tưởng Phật học mà thiếu sự nhận xét về thế sự. Mời các bạn đón đọc Lão Tàn Du Ký của tác giả Lưu Ngạc.
Nhật Ký Của Một Cha Xứ Miền Quê
Nguyên tác: Journal d'un curé de campagne (1936) Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp 1936 Dịch giả: Lê Hồng Sâm, Phùng Đệ, Nguyễn Dương Khư NXB: Hội nhà văn Năm XB: 1999 Đây là một dạng tiểu thuyết cổ điển: đơn giản, đẹp, buồn và hứng khởi. Một vị linh mục trẻ tuổi đầy lý tưởng tại một ngôi làng hẻo lánh ở nước Pháp vẫn ngày đêm viết nhật ký mô tả về sự chịu đựng không có gì là anh hùng cho lắm và những mâu thuẫn vặt trong giáo xứ của mình. Điều này trông có vẻ như nhạt nhẽo đối với một cuốn tiểu thuyết, thế nhưng với "Nhật ký một cha xứ vùng quê" của George Bernanos, thì nó vẫn còn là một trong những hình thức gợi hứng sống động nhất ở thế kỷ thứ 20 về một đời sống thánh thiện. Lần đầu tiên được xuất bản vào năm 1936, "Nhật ký một cha xứ vùng quê" của Bernanos mô tả về cảm nghiệm thất bại của một người có đầy đức tin. Trong nhật ký của mình, vị linh mục viết lại hết những cảm tưởng thấp kém và nỗi buồn mà ông không thể diễn tả được cho các giáo dân của mình. Và khi cận kề cái chết vì bệnh ung thư, tính thánh thiện của vị linh mục vẫn chưa mấy rõ ràng lắm đối với ông, thế nhưng nó lại trở thành một điều không thể nào chối cãi được đối với các độc giả. *** Nhận xét của Cao Việt Dũng về tác giả:   Lần đọc này mới thấy Bernanos là một nhà văn lớn đến như thế nào, một văn chương rung động sâu thẳm, một buổi chiều cũng có thể kêu vo ve và ánh trăng vàng thì biết run rẩy. Lịch sử văn chương toàn chuyện quái đản: những nhà văn tiền phong và tiến bộ thường xuyên chạy thẳng vào sọt rác, trong khi các nhà văn phát xít, các pháo đài bảo thủ hạng nặng lại thường xuyên là những nhà văn lớn. Bernanos là một người Thiên chúa giáo (các tiểu thuyết của Bernanos chỉ xoay quanh các ông thầy tu và giáo dân địa phận), thù người Do Thái, lại là một người bảo hoàng, từng rất thân cận với lãnh tụ nhánh bảo hoảng Charles Maurras. Không cần thực sự đọc thì nhiều người cũng biết đến Georges Bernanos: ngay thập niên 50 Nhật ký một cha xứ vùng quê đã được dựng thành phim. *** Xứ đạo của tôi là một xứ đạo như mọi xứ khác. Mọi xứ đạo đều giống nhau. Các xứ đạo ngày nay, dĩ nhiên rồi. Hôm qua tôi đã nói điều ấy cùng Cha xứ Norenfontes: tại đó cái thiện và cái ác hẳn phải cân bằng với nhau, duy có trọng tâm ở dưới thấp, rất thấp. Hoặc nếu nói cách khác thiện ác cái nọ chồng lên cái kia mà không hòa trộn, như hai chất lỏng có tỷ trọng khác biệt. Cha xứ đã cười vào mũi tôi. Đó là một linh mục tốt, rất nhiều hảo ý, rất nhân từ, thậm chí tòa tổng giám mục coi cha là một đầu óc không tín giáo, hơi nguy hiểm. Các câu khôi hài của cha gây hoan hỉ trong các ngôi nhà linh mục, cha còn nhấn thêm bằng một cái nhìn mà cha những muốn là sắc sảo, song tôi thấy thực ra nó rất mòn mỏi, rất chán ngán, làm tôi muốn khóc. Xứ đạo của tôi bị nung nấu bởi nỗi buồn chán, vấn đề là thế đấy. Như bao xứ đạo khác! Nỗi buồn chán tiêu hủy nó trước mắt chúng tôi mà chúng tôi chẳng làm gì được hết. Có lẽ một ngày nào đó chúng tôi sẽ bị truyền nhiễm, chúng tôi sẽ phát hiện ở mình khối ung thư ấy. Người ta có thể sống rất lâu với cái đó. Ý nghĩ này nảy ra trong tôi hôm qua trên đường cái. Trời mưa, một thứ mưa nhỏ mà người ta nuốt vào đầy phổi, nó xuống tận ruột bạn. Từ dốc Saint-Vaast, làng đột ngột hiện ra trước tôi, thật dúm dó, thật khốn khổ dưới bầu trời gớm guốc tháng Mười một. Nước, bốc hơi khắp chốn, bên trên làng, và làng có vẻ nằm phục xuống đó, trong cỏ ướt đầm đìa, như một con vật tội nghiệp kiệt sức. Một thôn làng, sao mà bé nhỏ! Và làng ấy là xứ đạo của tôi. Đó là xứ đạo của tôi, nhưng tôi chẳng làm được gì cho nó, tôi buồn bã nhìn nó chìm vào bóng tối, mất hút… Vài khoảnh khắc nữa, rồi tôi sẽ không còn thấy nó. Chưa bao giờ tôi cảm nhận một cách ác nghiệt đến thế sự cô quạnh của nó và của tôi. Tôi nghĩ đến những gia súc mà tôi nghe tiếng khục khặc trong sương mù, mà em bé chăn dắt, đi học về, tay cắp cặp, lát nữa sẽ dẫn qua các đồng cỏ đẫm nước, về chuồng trại ấm nóng, thơm tho… Và nó, thôn làng, hình như cũng đang đợi – chẳng hy vọng nhiều – sau bao đêm trong bùn lầy, một người chủ để theo đến chốn nương náu nào đó không tưởng tượng được, không chắc đã có. Ôi! tôi biết rõ đó là những ý nghĩ điên rồ, thậm chí tôi không thể coi là thực hoàn toàn, những mơ mộng… Các thôn làng chẳng đứng dậy trước tiếng nói của em học sinh nhỏ, như các gia súc. Có hề gì! Tối qua, tôi nghĩ rằng một vị thánh đã gọi nó. Vậy tôi tự nhủ là thế gian bị nung nấu bởi nỗi buồn chán. Dĩ nhiên, phải suy ngẫm đôi chút mới nhận ra, điều ấy không nắm bắt được ngay tức khắc. Đó là một loại bụi. Bạn đi đi lại lại mà chẳng nhìn thấy nó, bạn hít thở nó, bạn ăn nó, uống nó, và nó mịn quá, tinh vi quá đến mức chẳng lạo xạo trong miệng nữa. Nhưng bạn chỉ dừng lại một giây thôi, là nó phủ đầy mặt, đầy tay bạn. Bạn phải không ngừng quẫy cựa để rũ đám mưa bụi ấy. Vậy là, thế gian quẫy cựa rất nhiều. Có lẽ người ta sẽ bảo rằng từ lâu thế gian đã quen với nỗi buồn chán, và buồn chán là thân phận thực sự của con người. Có thể là hạt giống buồn chán đã gieo rắc khắp chốn và nảy mầm đây đó, trên mảnh đất nào thuận lợi. Nhưng tôi tự hỏi liệu con người đã bao giờ biết sự lây nhiễm buồn chán, cái bệnh hủi đó? Một nỗi tuyệt vọng bất thành, một hình thái xấu xa của tuyệt vọng, có lẽ giống như sự lên men của một Cơ đốc giáo bị phân giải. Dĩ nhiên, đó là những tư tưởng mà tôi giữ riêng cho mình. Tuy thế, tôi không hổ thẹn vì chúng. Thậm chí tôi nghĩ tôi sẽ làm mọi người hiểu tôi rất rõ, có lẽ quá rõ cho sự bình an của tôi – ý tôi muốn nói sự bình an của lương tâm tôi. Niềm lạc quan ở các bề trên đã chết hẳn. Những ai còn giáo huấn điều này chỉ dạy dỗ theo thói quen, mà không tin ở nó. Hơi bị phản bác, là các vị ban cho bạn những nụ cười am hiểu, xin dung tha. Các linh mục già chẳng nhầm đâu. Bất kể bề ngoài, và nếu như vẫn trung thành với một cách nói năng nhất định, vả chăng nó là bất biến, thì các chủ đề thuyết giảng chính thức không như cũ, các bậc đàn anh không còn thừa nhận chúng. Thí dụ, trước đây, theo truyền thống rất lâu đời, một bài diễn giảng của chủ giáo chẳng khi nào kết thúc mà không có sự ám chỉ thận trọng – đầy niềm tin chắc, dĩ nhiên, song thận trọng – về sự ngược đãi sắp tới và máu của những người tử vì đạo. Ngày nay những dự báo đó ít hơn nhiều. Chắc là vì sự thực hiện có vẻ kém chắc chắn. Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Của Một Cha Xứ Miền Quê của tác giả Georges Bernanos.