Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cô Gái Mất Tích

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết giật gân Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch). “Những cô gái mất tích” là tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của nữ nhà văn Megan Miranda. Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ, điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ. Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Vào đêm Corinne mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise Carter- hàng xóm của Nic cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm. Chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà, Annaleise đột ngột mất tích. Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, “Những cô gái mất tích” sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?” Một số nhận định về cuốn sách “Những cô gái mất tích”:  “Cuốn tiểu thuyết kinh dị này tập hợp đủ mọi yếu tố mà các mọt sách tìm kiếm!” – TheSkimm  “Bạn có đang chú ý không đấy? Bạn sẽ tập trung ngay thôi bởi cuốn sách này sẽ làm bạn xoắn não với cấu trúc thời gian đảo ngược, và bạn sẽ không thể ngừng đọc cho tới trang cuối cùng.” – Elle  “Với nhịp độ nhanh và đầy nguy hiểm, Những cô gái mất tích sẽ khiến bạn hiểu vì sao đi vào rừng một mình vào buổi tối là chuyện quá liều lĩnh.” – Refinery29. *** [Review Sách] “Những Cô Gái Mất Tích”: Đóa Hồng Gai… Sắc Lạnh “Sự thật giống như hoa hồng, đều có gai, nhưng bạn sẽ không thoát khỏi ám ảnh khi chưa tìm ra nó.” - đây đích xác sẽ là cái cảm giác mà bạn chắc chắn sẽ phải trải qua xuyên suốt 500 trang sách của cuốn Những cô gái mất tích (nguyên gốc tiếng Anh: All the missing girls) của tác giả Megan Miranda. Và nếu bạn đang tìm kiếm một màu sắc mới mẻ ở thể loại trinh thám vốn dĩ đã tồn tại nhiều điều bất ngờ này thì chắc chắn Những cô gái mất tích sẽ là một sự lựa chọn không tồi dành cho bạn. Được viết bởi nữ nhà văn Megan Miranda, Những cô gái mất tích không đơn thuần chỉ là một cuốn tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng. Cuốn sách là sự pha trộn của các yếu tố tâm lý đan xen với những phút dồn dập vốn có của thể loại hành động, những khoảng lặng sắc lạnh của thể loại kinh dị hay cũng không thiếu những phút giây sâu lắng của tình cảm trên nền u ám và bí hiểm của thể loại trinh thám. Toàn bộ cuốn sách có thể được xem như một thước phim tua ngược đưa độc giả quay trở về quá khứ, nơi giao thoa của những bí mật, dối trá và sự thật đầy ám ảnh dẫn tới kết cục chết chóc. Đôi nét về tác giả Megan Miranda được xếp vào hàng “tác giả bán chạy nhất của The New York Times”. Cô lớn lên ở New Jersey, học ở Học viện Công nghệ Massachusetts, tốt nghiệp MIT và hiện sống ở Bắc Carolina cùng với chồng và hai con. Megan là nhà khoa học và giáo viên trung học cơ sở trước khi viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Fracture (tạm dịch Rạn nứt). Cuốn tiểu thuyết được viết dựa trên sự say mê những bí ẩn khoa học của cô, đặc biệt là những thứ liên quan đến não bộ. Cô dành nhiều thời gian cho việc trả lời cho câu hỏi “tại sao?” và “làm như thế nào?” với mọi thứ và điều đó giúp Megan được bay bổng trong những giả thuyết “nếu - thì” của mình. Những tác phẩm làm nên tên tuổi của nữ tiểu thuyết gia gồm một số cuốn sách dành cho lứa tuổi mới trưởng thành: Fracture (tạm dịch Rạn nứt), Vengeance (tạm dịch Báo thù) và Hysteria (tạm dịch Ảo Ảnh), Soulprint (tạm dịch Dấu ấn tâm hồn) và The Safest Lies (tạm dịch Lời nói dối an toàn). Những cô gái mất tích (All the missing girls) là cuốn tiểu thuyết dành cho người lớn đầu tiên của Megan. Ngay sau khi phát hành, tác phẩm nhanh chóng nhận được cơn mưa lời khen và đánh giá cao từ giới chuyên môn.  Đóa hồng gai huyền bí - một câu chuyện với những bí ẩn đầy sức hút Khác với lối kể chuyện xuôi dòng thời gian như thông thường, toàn bộ sự kiện trong cuốn sách này đều ngược về quá khứ. Và cho tới khi bạn tìm ra sự thật, Những cô gái mất tích vẫn sẽ khiến bạn chìm đắm trong nỗi ám ảnh khi chưa tìm ra chúng, như một đóa hồng gai sắc lạnh nhưng vẫn khiến ta tò mò mà chạm vào gai nhọn, và thậm chí, không ngần ngại mà bẻ gãy nó. Câu chuyện xoay quanh những vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ mà điều kỳ lạ là thời điểm họ biến mất cách nhau đúng một thập kỷ.  Đã mười năm trôi qua kể từ khi Nicolette Farrell – tên thường gọi là Nic, rời khỏi vùng nông thôn quê hương sau khi người bạn thân nhất của cô – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào. Cuộc điều tra mười năm trước tập trung vào Nic, anh trai cô – Daniel, Tyler – bạn trai Nic và Jackson – bạn trai Corinne. Kể từ khi vụ việc xảy ra, chỉ có Nic rời khỏi Cooley Ridge. Trở lại quê nhà để giải quyết nốt chuyện cũ và chăm sóc người cha ốm yếu, Nic nhanh chóng bị cuốn vào một tình huống bất ngờ khiến mọi ký ức về vụ án của Corinne ùa về, đồng thời khơi gợi lại những tổn thương cũ vốn đã ngủ quên trong lòng cô bấy lâu nay. Tất cả chỉ được đẩy lên đỉnh điểm khi Annaleise Carter – hàng xóm của Nic cũng đột nhiên mất tích chỉ vài ngày sau khi Nic trở lại quê nhà. Vào đêm Annaleise mất tích, Daniel và vợ anh – Laura đang chờ mong em bé chào đời; Jackson làm việc ở quán bar trong thị trấn còn Tyler đang hẹn hò với Annaleise cùng nhóm người có bằng chứng ngoại phạm.  Ngược từ ngày 15 trở về ngày 1 – thời điểm Annaleise biến mất, Nic quyết tâm làm sáng tỏ vụ mất tích của cô hàng xóm trẻ tuổi. Từ đây, những sự thật ngoài sức tưởng tượng về bạn bè, gia đình cô và chuyện xảy ra với Corinne vào buổi tối mười năm trước dần được tiết lộ. Không giống với bất kỳ cuốn sách nào bạn đã từng đọc trước đây, Những cô gái mất tích sắp xếp tình tiết cực kỳ thông minh và độc đáo. Đọc cuốn sách này giống như bạn đang dấn thân thám hiểm một vùng đất lạ. Khi những khúc quanh uốn lượn dẫn xuống ngõ cụt và những con hẻm tối tăm khép lại, có thể bạn nghĩ rằng mình đang đi trên con đường quen thuộc, nhưng chỉ một giây sau đó, Megan Miranda sẽ xoay chuyển toàn bộ bản đồ và khiến bạn băn khoăn tự hỏi: “Chúng ta sẵn sàng đi bao xa để bảo vệ những người mình yêu thương?”   … khiến con người ta lạc lối trong mê cung của thời gian “Con người… không thể học cách quên đi mà luôn muốn níu kéo quá khứ: dù anh ta có chạy xa và nhanh như thế nào, xiềng xích đó vẫn đuổi theo anh ta.” _ Friedrich Nietzsche. Đây là câu nói được tác giả Megan Miranda lựa chọn làm lời đề từ mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình. Nhân vật nữ chính của chúng ta cũng bị quá khứ quấn chân. Sau khi người bạn thân nhất của Nicolette Farrell – Corinne biến mất khỏi Cooley Ridge mà không để lại chút manh mối nào, cô rời khỏi vùng nông thôn quê hương đến một nơi thật xa. Điều thực sự thu hút cô quay về là lời nhắn từ bố với nội dung: “Bố cần nói chuyện với con. Cô gái đó. Bố đã nhìn thấy cô gái đó.” Cô gái đó ám chỉ người bạn thân nhất đã mất tích mà không để lại chút manh mối nào của Nic - điều khiến cô rời khỏi quê hương đến một nơi thật xa. Tôi mở bức thư ra - một trang báo bị xé nham nhở, nét chữ của ông kéo dài qua cả đường kẻ, hơi nghiêng về phía bên trái, cứ như thể ông đang cố rượt đuổi để ghi lại các suy nghĩ của mình trước khi chúng vuột khỏi tầm nắm. … Tờ giấy bị xé, nét chữ nghiêng ngả, tên tôi trên phong bì. Và giờ một thứ gì đó sắc nhọn và hoang dã đã bị thả ra trong đầu tôi. Tên của cô gái đó, xuất hiện xung quanh như một tiếng vọng. Sắc lạnh nhưng không thiếu đi vị ngọt của tình yêu, Megan Miranda đã kể Những cô gái mất tích theo chiều ngược về quá khứ, cuốn độc giả lần theo từng manh mối của vụ án. Vẫn là những con đường quanh co, tăm tối dẫn tới kết cục chết chóc, song nó đã được biến hóa thành một mê cung phức tạp, khó lường và điểm tận cùng của sự thật sẽ làm bạn thực sự sửng sốt.  Lật giở từng trang sách, bạn đọc sẽ như đang lạc vào mê cung nơi những manh mối và đích đến vẫn còn là bí ẩn, nơi mà cả không gian và thời gian chỉ dường như là một thứ gì đó đầy mơ hồ và mờ ảo. Như vẻ ngoài vốn dĩ chỉ như một lớp vỏ bọc, càng đi sâu, cách dẫn dắt của Megan càng khiến cho bầu không khí trở nên căng thẳng và hồi hộp.  Thời gian không cạn kiệt. Nó thậm chí còn không có thật nữa kia. … Nó chỉ là một biện pháp đo lường khoảng cách mà chúng ta tạo nên để hiểu rõ về mọi vật. Giống như một inch. Hoặc một dặm. … Chiếc đồng hồ kia. Nó không đo thời gian. Nó tạo ra thời gian. Khi những cô gái… mất tích Corinne, mãi mãi tuổi 18 trong ký ức của thị trấn Cooley Ridge, một cô gái tính cách có phần “điên dại” mà có lẽ bị ảnh hưởng một phần bởi sự bạo lực trong gia đình mà cô sinh trưởng. Việc mất tích của cô sớm bị chìm vào quên lãng và “đóng băng” suốt 10 năm mà không một ai mảy may quan tâm và suy nghĩ, tất cả những gì còn sót lại là những lời đồn, một câu chuyện mà người ta cho rằng sự việc là thế, tất cả manh mối chỉ gói gọn trong chiếc hộp, mà có lẽ, đã phủ bụi nhiều năm ở một góc nào đó trong sở cảnh sát.  Và vào tối muộn sau đó, khoảng thời gian không rõ giữa lúc hội chợ đóng cửa và 6 giờ sáng, Corinne đã BIẾN MẤT. Những tuần tiếp sau đó, khả năng cái chết đã xảy ra trở nên rõ ràng. Nó hiển hiện mọi nơi xung quanh chúng ta, không mang hình hài nhưng lại khiến chúng tôi nghẹt thở, hiện hữu ở mọi biến thể tình huống khác nhau của sự kiện đã xảy ra. Kết quả của cô ấy luôn là cái chết, bằng một ngàn cách khác nhau. Có lẽ cô ấy đã rời đi bởi người cha bạo hành cô. Cũng có thể đó là lý do vì sao mẹ cô đã ly dị ông ta và rời khỏi thị trấn một năm sau đó. Hoặc có lẽ người bạn trai của cô, Jackson, bởi vì thường là do người bạn trai, và họ đã cãi nhau. Hay người đàn ông mà cô đã tán tỉnh ở hội chợ, người mà không ai trong chúng tôi không quen biết - người đứng ở quầy bán bánh mì kẹp xúc xích. Người mà Bailey đã thề cứ theo dõi chúng tôi. Hoặc cũng có thể cô ấy đã chìa ngón tay cái ra để xin đi nhờ về nhà, trong chiếc váy quá ngắn và chiếc áo dài tay, mỏng manh của cô, và có lẽ một người lạ mặt đi ngang qua thị trấn đã thấy cô, lạm dụng và bỏ lại cô. Có thể cô ấy chỉ đơn giản là rời đi. Đó là điều mà cảnh sát đã quyết định cuối cùng. Cô mười tám tuổi - là một người lớn, theo luật - và cô đã chịu đựng quá đủ với nơi này... Corinne không hoàn toàn hiện hữu trong cuốn sách, bởi lẽ cô là người bị mất tích cơ mà, nhưng hình ảnh của cô gái này dần dần hiện rõ qua từng lời kể, từng hồi ức và từng bí mật dần được lộ diện. Đọc Những cô gái mất tích, có lẽ bạn sẽ phải bối rối khi không biết nên nhìn Corinne là một con người như thế nào, bởi cô gái này đáng thương có, nhưng đáng trách cũng có. Tính cách của cô có thể xem như một bảng màu loang lổ với đầy sự hỗn loạn của các nét tính cách khác nhau.  Thế nhưng khi tiếp tục có một cô gái khác mất tích thì chuyện này không còn đơn giản như vậy nữa. Và tương tự, có một điều trùng hợp đến ngẫu nhiên rằng ngay khi Nic quay trở lại quê hương sau cả một thập kỷ, lại có thêm một cô gái nữa mất tích, bỗng dưng “hóa thinh không” như một màn deja vu lặp lại sau 10 năm dài đằng đẵng. Annaleise, người con gái thứ 2 bị mất tích, nhà của cô là hàng xóm gần nhất xét về mặt khoảng cách địa lý đối với ngôi nhà của Nic, một cô gái mà mà mới ngày hôm trước vẫn còn loáng thoáng xuất hiện trong tiềm thức của Nic bên khung cửa sổ thì ngày hôm sau đã biến mất một cách kỳ bí. Như khu rừng vốn dĩ âm u và huyền ảo, ở cô gái này hội tụ những điều luôn luôn bí ẩn. Trong mắt người khác, cô là một kẻ lập dị bị bạn bè khinh ghét, hành động kỳ cục và lủi thủi chìm đắm trong thế giới riêng của bản thân, thế giới của nghệ thuật với nhiếp ảnh và hội họa. Phòng của cô có vô vàn những bức tranh về các cô gái, trong đó có Corinne, mà ở họ đều mang vẻ gì đó buồn bã. Cho đến cuối cùng thì điều thực sự ẩn giấu sau những bức tranh ấy, có thể, vẫn còn là ẩn số.  Những đôi mắt mở to, những đôi mắt nhắm chặt, bằng một cách nào đó, tất cả đều cô độc.   … và những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật Ở phần đầu câu chuyện, độc giả có thể trở nên mơ hồ khi các mảnh ghép lần lượt chồng chéo lên nhau và những manh mối thậm chí còn chẳng đủ để kết luận điều gì. Nhưng có lẽ điều khiến các bạn bất ngờ hơn cả đó là quá khứ thậm chí còn không bí ẩn bằng những gì hiện hữu và vốn có, và những người bí ẩn hơn cả lại chính là người đóng vai “thám tử” trong câu chuyện này, những con người không biến mất mà vẫn luôn tồn tại, chỉ có điều, mỗi người đều có những bí mật bị che giấu. Bởi lẽ, như sợi dây nối mạch truyện lại với nhau, giữa những con người này cũng có những điều bí mật mà một khi đã được phơi bày, tất cả sẽ lần lượt kéo nhau phơi bày ra ánh sáng.  Càng lật giở những trang sách về sau, bầu không khí càng trở nên dồn dập và bí bách. Cái hay ở đây là khi Megan Miranda có thể khiến cho độc giả vừa trải qua cảm giác hồi hộp và sợ hãi, nhưng cũng có thể khiến người ta phát sinh cái cảm giác khó chịu do mất kiên nhẫn khi sự thật mãi vẫn chưa được tiết lộ, để rồi cuối cùng, nếu muốn giải quyết được hết tất cả mớ tơ vò ấy, chúng ta bắt buộc phải đọc cho đến những trang sách cuối cùng.  Những sự thật dường như chỉ mang nửa sự thật, bí mật dường như nằm gói gọn tất thảy trong chiếc hộp nơi sở cảnh sát. Nhưng không, tất cả mới chỉ là vẻ bề ngoài. Thứ thực sự bí ẩn là thị trấn Cooley Ridge, nơi những con người và khu rừng bản địa cũng mang trong mình những bí mật tiềm tàng. Một câu chuyện với nhiều góc nhìn khác nhau và ai cũng có mặt tối của riêng mình. Nhưng thực sự thì cô ấy không biến mất ở đó. Còn nhiều điều khác nữa. Một mẩu thông tin mà chúng tôi đã giấu đi. Đối với Daniel, cô ấy đã biến mất bên ngoài hội chợ, đằng sau quầy bán vé. Đối với Jackson, là từ bãi đỗ xe. Còn đối với tôi, cô ấy dần tan biến sau khúc quanh của con đường trở về Cooley Ridge. Chúng tôi là một thị trấn đầy sợ hãi, tìm kiếm câu trả lời. Nhưng chúng tôi cũng là một thị trấn đầy sự giả dối.    Liệu bạn có dám “theo chiều ngược” để tìm ra ánh sáng? Hẳn là không phải ngẫu nhiên khi Những cô gái mất tích lại nhận được những đánh giá tích cực và khen ngợi từ công chúng, và lối kể chuyện “ngược” của Megan Miranda chính là minh chứng cho điều đó. Với các cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám, thông thường sẽ có một “ai đó” đóng vai trò thám tử đi đào sâu và bóc tách vấn đề để từ đó bằng chứng ngày một nhiều lên, nhân chứng ngày càng lộ diện thì Những cô gái mất tích lại không như thế. Với cuốn sách này, sự thật vẫn ở đó, vẫn luôn tồn tại trước mắt, và khi thời gian qua đi thì có nghĩa là để đào sâu chân tướng, chúng ta phải lật ngược quá khứ.  Cách kể chuyện của tác giả có thể coi là khá “lạ” và cũng là một phương thức tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Ban đầu, độc giả có thể cảm thấy bố cục lỏng lẻo và sự thiếu liên kết giữa các chương, ứng với các ngày trong chuỗi từ ngày 15 trở về ngày 1. Điều này hoàn toàn có thể lý giải được. Tuy nhiên, khi chúng ta đã quen với dòng thời gian này thì rất dễ dàng để nhận ra sức hút từ câu chuyện. Bởi lẽ chương sau sẽ là “ngày hôm qua”, cho nên cuối chương sau sẽ liên kết với chương trước để hình thành nên sợi dây với các mắt nối để giữ mạch truyện được trở nên thống nhất. Một cuốn sách tưởng đứt đoạn mà lại liền mạch không tưởng, một câu chuyện tưởng rời rạc với các chi tiết và hành động tưởng như chẳng liên quan, hóa ra lại can hệ đến nhau một cách “cố ý”.  Câu hỏi đặt ra là: sẽ ra sao nếu chúng ta đọc ngược lại câu chuyện để mọi thứ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn? Dĩ nhiên, chẳng sao cả, vì bạn mới chính là người đọc cuốn sách này. Nhưng hẳn là Megan Miranda có dụng ý khi viết ra một câu chuyện như thế, nên lời khuyên cho bạn là vẫn nên “xuôi chiều ngược” để cảm nhận được cái lạ của Những cô gái bị mất tích.  “Triết học đã nói một điều khá đúng, rằng cuộc sống cần phải được thấu hiểu theo chiều ngược lại.” _ Soren Kiergaard.    Thay lời kết Dịu ngọt mà cũng không kém phần sắc lạnh, Những cô gái mất tích được bao trùm lên bởi một màu sắc u ám và tang thương, như những gì độc giả có thể thấy ngay từ phần bìa sách vậy. Hỗn độn nhưng lại liền mạch một cách ngẫu nhiên, cuốn sách như một bảng màu loang lổ mà sau cùng dần dần được pha trộn và sắp xếp lại các khối màu. Vẫn là cái nền huyền bí với các khối màu lạnh phác họa nên các đường nét huyền bí nhưng cái bầu không khí trong Những cô gái mất tích, bằng một cách nào đó, có thể khiến độc giả bị ám ảnh. Bạn sẽ được đắm chìm trong thế giới mờ ảo xen lẫn những điều bí ẩn do Megan Miranda tạo ra, và khi ấy, chính bạn sẽ là người giải mã mê cung.  Nếu bạn đang kiếm tìm một sắc màu mới trong những gam màu u buồn vốn có của dòng trinh thám hay kinh dị, ắt hẳn Những cô gái mất tích sẽ là một cuốn sách đáng thử. Một cuốn sách đi theo chiều ngược, ngược về phía bóng tối và sợ hãi, thách thức đặt ra cho bạn là, liệu bạn có dám quay đầu lại và xuôi theo chiều ngược ấy?   Tác giả: Annie - Bookademy *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Những cô gái mất tích” của Megan Miranda xoay quanh hai vụ mất tích bí ẩn của hai người phụ nữ trẻ trong một thị trấn nhỏ. Vụ việc đầu tiên xảy ra cách đây 10 năm, nạn nhân là Corinne, người bạn thân nhất của Nicolette Farrell. Vụ việc thứ hai xảy ra ngay sau khi Nic trở về quê hương để chăm sóc người cha ốm yếu, nạn nhân là Annaleise Carter, hàng xóm của Nic. Nic quyết tâm làm sáng tỏ cả hai vụ án, và từ đây, những sự thật kinh hoàng về những người cô yêu thương dần được tiết lộ. Review “Những cô gái mất tích” là một cuốn tiểu thuyết trinh thám giật gân với lối kể chuyện độc đáo. Tác giả Megan Miranda đã sử dụng cấu trúc thời gian đảo ngược, bắt đầu từ ngày 15 của tuần cuối cùng trong cuộc đời của Annaleise và ngược trở về ngày 1, thời điểm cô gái này biến mất. Cách kể chuyện này khiến người đọc bị cuốn hút và tò mò muốn tìm hiểu những gì đã xảy ra. Cuốn sách cũng được đánh giá cao về cách xây dựng nhân vật. Nic là một nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường. Cô sẵn sàng làm mọi thứ để tìm ra sự thật, ngay cả khi điều đó có nghĩa là cô phải đối mặt với những bí mật đen tối về những người thân yêu của mình. “Những cô gái mất tích” là một cuốn sách hấp dẫn và đáng đọc. Cuốn sách sẽ khiến bạn phải suy nghĩ lại về những người bạn bè và gia đình của mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Lối kể chuyện độc đáo, đảo ngược thời gian Nhân vật nữ chính mạnh mẽ và kiên cường Cốt truyện hấp dẫn, đầy bất ngờ Khiến người đọc phải suy ngẫm về những mối quan hệ thân thiết Mời các bạn mượn đọc sách Những Cô Gái Mất Tích của tác giả Megan Miranda & Hoàng Thị Minh Phúc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Người Đẹp Ngủ Mê - Yasunari Kawabata
Qua tác phẩm “Người đẹp ngủ mê”, Kawabata mô tả những suy tư của một người đàn ông già với những cô gái trẻ hoàn toàn xa lạ, vô danh, khỏa thân chung chăn chiếu nhưng không hề có trao đổi bằng ngôn ngữ hoặc đụng chạm thân xác. Đó như thái độ phản tỉnh của một người thực hành thiền định để tới giác ngộ về dục tính của chính mình và về ý nghĩa của nhân sinh. Cũng trong tác phẩm này, Kawabata nhận định: “Trên thế gian không có gì cao quý bằng con người. Trong loài người không có gì vinh dự bằng thân thể trong trắng của người nữ. Tuy nhiên, để chiếm đoạt, sở hữu nó người ta phải phá hủy sự trinh khiết đó”. Tác phẩm “Người đẹp ngủ mê” đã giúp cho tác giả Yasunari Kawabata trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học năm 1968 với lời ca ngợi của Viện Hàn Lâm Thụy Điển rằng: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uất của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người”. *** Yasunari Kawabata sinh năm 1899 và mất năm 1972. Sinh ra ở Osaka, sớm mồ côi năm lên hai tuổi, từ đóYasunari Kawabata và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Cảm thức cô đơn trong tác phẩm văn chương của Kawabata thường phản ánh từ chính cuộc sống thời thơ ấu và tuổi trẻ của ông. Cái cô đơn ấy bắt đầu với tập “Nhật ký tuổi mười sáu”được xuất bản vào năm 1925. Rồi lần lượt là sự ra đời của các tác phẩm như: “Izu no Odoriko” (Vũ nữ Izu, 1926), “Tenohira nsetsu” (Những truyện ngắn trong lòng bàn tay, 1926), ”Asakusa Kurerai dan” (Hồng đoàn Asakusa, 1930), ”Kinju” (Cầm thú, 1933), “Yukiguni” (Xứ tuyết, 1935-1937 & 1947), “Meijin” (Danh thủ cờ vây, 1951-1954), ”Utsukushisa to Kanashimi to” (Đẹp và buồn, 1964), ”Utsukushii Nihon no Watakushi” (Đất Phù Tang, cái đẹp và tôi, 1968), “Kani wa Nagaku” (Tóc dài, 1970) ... Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo mà đáng chú ý nhất là tờ Mainnichi Shimbun ở Osaka và Tokyo. Nhà văn García Márquez của Colombia tình cờ đọc “Người đẹp ngủ mê” của Kawabata trên một chuyến bay và từ cảm hứng được gợi từ cuốn tiểu thuyết này đã xây dựng về cuộc tình giữa một ông già 90 tuổi và một cô gái 14 tuổi qua cuốn “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. *** BI CẢM CỦA CÁI ÐẸP VÀ CÁI CHẾT. Trong tất cả các tác phẩm của Yasunari Kawabata, “Người đẹp ngủ mê” là tiểu thuyết đẫm cảm thức u huyền nhất. Nó thuộc về nền “Văn chương của cái bóng” trong văn học Nhật Bản thế kỷ hai mươi mà có lẽ mở đầu với tác giả Izumi Kyôka. “Cái bóng” (Kage: ảnh) vừa là bóng tối, bóng râm, bóng cây, bóng người mà cũng là ánh sáng, như bóng trăng. Ngay từ chương đầu, cái bóng tối lung linh đó đã hé lộ: “Những tấm màn nhung màu đỏ thẫm. Màu đỏ trông thẫm hơn trong cái ánh sáng lờ mờ. Như thể có một vừng sáng mỏng lơ lửng trước các màn, như thể ông bước vào một thế giới ma quái. Màn che cả bốn bức tường. Cánh cửa thông cũng được che màn... Ông khóa cửa, vén màn, và nhìn xuống cô gái... Eguchi nín thở: nàng đẹp quá, đẹp hơn ông tưởng...” Ông già Eguchi đến ngôi nhà có người đẹp ngủ mê chờ đợi. Ông lần lượt “gặp” những tấm thân ngà ngọc phô bày trước mắt mình vô ý thức vì đang say giấc nồng. Lần cuối cùng ông nằm với hai cô gái như vậy. Ông gặp cái chết đến với một cô gái đang ngủ. Ðó là ngôi nhà của những nhan sắc thanh xuân bí ẩn cũng như của những cái chết bí ẩn. Một người bạn già của Eguchi cũng đã chết ở đây vào một đêm đến chơi. Ðó là trò chơi của thanh xuân, của cái già và cái chết. Ðó là bi cảm của cái đẹp và cái chết. Các cô gái đó là ai? Một loại kỹ nữ? Nhưng họ không có nghệ thuật nào ngoài cái đẹp của lõa thể, của tuổi xuân mơn mởn trong giấc ngủ vùi. Vậy mà nằm bên họ lại được so sánh là “ngủ với Bụt” (chương một) hơn nữa, “ông gần như nghĩ tới chuyện nàng là hóa thân của vị Phật nào đó, như trong các truyền thuyết xưa cũ”. Tác phẩm “Người đẹp ngủ mê” trong cảm thức u huyền của nó đã gợi không khí của sân khấu Nô lại càng liên kết nhau qua truyền thuyết Bồ Tát hóa thân thành kỹ nữ. Nói cách khác, văn chương Nô và Kawabata đi giữa trầm luân và cứu độ. Cái tên Eguchi (Giang Khẩu) mà Kawabata gọi nhân vật của mình trong “Người đẹp ngủ mê” cũng là tên vở kịch Nô lừng danh Eguchi. Nó bắt nguồn từ một truyền thuyết xưa cũ. Nhà sư Shôku trên núi Shosha nhiệt tâm cầu nguyện Ðức Quan Âm cho mình có thể nhìn thấy hiện thân của Phổ Hiền Bồ Tát - giấc mơ một đêm kia mách bảo sư hãy đến miền Eguchi tìm gặp một kỹ nữ được gọi là Nàng Eguchi. Sư lên đường, đến nơi và gặp nàng đang vui đùa với các kỹ nữ khác trên một du thuyền. Tiếng nước rì rầm trên sông vang vọng bên tai sư như lời tụng kinh êm dịu. Bỗng hiện lên trước mặt ông hình ảnh rạng ngời của Phổ Hiền Bồ Tát cùng với đoàn nữ tùy tùng lộng lẫy. Ðã mãn nguyện rồi đấy. Và khi mở mắt ra, lại thấy Nàng Eguchi trong hình thể một người nữ như trước. Ca từ trong vở kịch Nô Eguchi có đoạn: Ðời theo đời trôi vào quá khứ Trôi vào vô thủy ai hay Ðời theo đời trôi vào tương lai Trôi vào vô chung ai biết. Trong “Người đẹp ngủ mê”, Eguchi không biết gì về các cô gái say ngủ. Họ càng không biết gì về ông. Ðời theo đời trôi đi. Ðiệp khúc vô tận. Một vở kịch Nô khác là Murôzumi, Phổ Hiền Bồ Tát hiện hình trên thớt voi trắng, chiếu ngời hào quang. Chỉ trong chớp mắt, biến tan. Nhà sư lại nhìn thấy nàng kỹ nữ Murôzumi. Khi đã nhìn ra hiện thân bồ tát hay Phật tính ở những nơi thấp hèn rồi thì cái nhìn từ đó đã khác. Cái nhìn đó cứu vớt cái đẹp. văn chương nghệ thuật là nỗ lực cứu vớt cái đẹp của đời sống trong bất kỳ tình thế nà> Kawabata viết “Người đẹp ngủ mê” vào năm 1960 lúc ông đã 61 tuổi. Nhưng từ năm 1925 ông đã sáng tác truyện ngắn Bồ tát O-Shin trong đó một “cô gái điếm bẩm sinh” được thờ như một thần hộ mệnh trẻ thơ. Cái đẹp mang tính cứu độ mà Kawabata miêu tả trong “Người đẹp ngủ mê” còn gợi ta nhớ đến Nghìn lẻ một đêm, trong đó có một đêm miêu tả người đẹp say giấc nồng bằng những lời thơ tuyệt đẹp: Người ngủ ơi, đừng xoay Ngực em trong giấc ngủ Như sóng triều vơi đầy Ngực em là tuyết trắng Hay là bọt biển đây?... (Ðêm 206, theo bản Anh dịch của Mathers) Trong “Người đẹp ngủ mê”, cái đẹp của cô gái cũng được hòa lẫn với thiên nhiên: “Hơi ấm người nàng bao trùm Eguchi hơn là đi sâu vào ông. Ngực nàng đầy đặn, đôi vú lớn hay trễ xuống nhưng núm vú thì nhỏ một cách khác thường... Tuyết rơi rất nhẹ hòa lẫn với mưa rì rào vọng tới tận căn phòng... Ông tưởng mình thấy được mặt biển tối đen, không bến bờ và những nụ tuyết trắng rơi xuống rồi tan đi”. Kiệt tác “Người đẹp ngủ mê” đã ảnh hưởng lớn đến văn chương Nhật cũng như được yêu thích trên thế giới. Dấu ấn của nó có thể thấy sâu đậm ở García Marquez (Người đẹp ngủ mê trên máy bay, Hồi ức những cô gái điếm buồn của tôi). Cả hai tác giả đều là những tên tuổi lớn của giải Nobel văn học. Nhật Chiêu   Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Ngủ Mê của tác giả Yasunari Kawabata.
Mùa Mưa - Nevil Shute
Tác giả Nevil Shute đã mất năm 1960, nhưng dự báo của Ông về một nước Anh hùng cường trong Khối Thịnh Vượng Chung đã thấy rõ. Đấy cũng là nhờ sự đóng góp tích cực của Vương Triều qua hình ảnh sống động, đầy gan dạ, mưu trí và đầy lòng nhân đức của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhị và lòng trung thành của người dân Anh trong 50 năm qua, trước bao thử thách. Câu chuyện tình lãng mạn của một phi công người Úc lai một phần tư da đen với cô thư ký của Nữ Hoàng, tuy có hơi ước lệ trong khung cảnh của Hoàng Gia, nhưng đầy kịch tính của một xã hội nền nếp, gia phong của nước Anh, cộng với sự khoáng đạt, đầy nhiệt tình của một nước Úc đang trên đà phát triển. Chọn tác phẩm “Mùa Mưa” (In the wet) để dịch, Tôi muốn kêu gọi lòng thương yêu, đùm bọc trong Hoàng Gia Nguyễn Phước trước những thành quả lịch sử hết sức vĩ đại của Tiên Đế. Còn gì nữa mà chia năm xẻ bảy, còn gì nữa mà tranh phần, đoạt lợi, để con cháu nghìn đời mai mỉa !. Tôi lại muốn kêu gọi sự đoàn kết tôn giáo để nhân loại tránh đi bao nỗi thống khổ, chết chóc triền miên. Còn hình ảnh nào đẹp bằng một vị Cha Xứ của Thiên Chúa Giáo La Mã và một Mục Sư Tin Lành đều được người dân Úc trọng nễ như nhau như là những vị Thừa Sai của Chúa mang đến hạnh phúc cho nhân dân. Ngoài ra trong một xã hội dân chủ pháp trị, thì quyền bầu cử của người dân là quan trọng hơn cả, nó định đoạt tương lai và vận mạng của một dân tộc. Vậy 7 quyền bấu cử Quốc Hội của nước Úc cũng đáng cho ta học hỏi, rút kinh nghiệm để làm cho đất nước phồn vinh. Và nếu chúng ta có được cái “Tâm Bồ Đề”, tâm Từ Vô Lượng, quả đất này sẽ không còn cảnh tranh bá đồ vương, tàn sát lẫn nhau, để cùng nhau xây dựng một “thiên đàng hạ giới”, cõi Nát Bàn ngay trong tim mình. *** Trước đây tôi chưa bao giờ chịu khó ngồi viết những chuyện dài dòng như thế này, tuy cũng đã viết nhiều những bài giảng đạo hay những đề tài khác cho các tạp chí trong họ đạo. Nói thật tôi cũng không biết cách sắp xếp câu chuyện hay cần viết dài hay ngắn như thế này cho thích hợp, nhưng chẳng có ai ngoài tôi ra đọc truyện này nên chẳng lấy đó làm quan trọng. Tuy vậy, sự thật là tôi cũng đã băn khoăn lo nghĩ từ khi ở Blazing Downs trở về nên cũng thường xuyên bị mất ngủ và không thể làm việc hết mình cho họ đạo, tuy rằng các buổi lễ ở nhà thờ vẫn tiến hành như thường lệ và máy móc. Tôi nghĩ rằng nếu cố gắng viết ra thì tâm hồn cũng nhẹ nhõm phần nào, điều mà từ lâu tôi vẫn đè nặng trong tâm tư, hơn nữa, sau khi viết, tôi sẽ gởi cho ngài Giám mục đọc qua. Điều băn khoăn của tôi, có lẽ tôi cảm thấy mình càng ngày càng già đối với công việc của họ đạo có hơi kỳ lạ này và điều đó chứng tỏ là trường hợp này tôi phải chấp nhận bất cứ điều gì khi bề trên đã quyết định. Viết tư liệu không phải dễ dàng gì ở nơi đây vì Landsborough là một thị trấn nhỏ. Chốc nữa tôi sẽ đi xuống cửa hàng sách Duncan để mua ít giấy viết, nhưng cửa hàng chỉ có những tập giấy mỏng để viết thư và những tập vở mà cô giáo Foster dùng cho các học sinh lớn tuổi hơn khi các em đã qua thời kỳ dùng bảng viết. Tôi mua sáu tập và hy vọng còn cần nhiều hơn nữa khi đã viết xong những điều cần nói ra, nhưng trong cửa hàng chỉ còn vỏn vẹn chín tập vở nên không muốn làm họ kẹt. Tôi đã yêu cầu họ mua thêm, và họ đã đặt hàng ở Townsville, chuyến máy bay tuần tới mới có. Để trung thực với những ai đọc tác phẩm của tôi viết, tôi nghĩ là nên nói thật về mình, ngõ hầu sẽ được đánh giá chính xác và có được tín nhiệm về những điều tôi viết hay không. Tôi tên là Roger Hargreaves, đã được thụ phong mục sư thuộc giáo hội nước Anh bốn mươi mốt năm qua, tháng trước đây tôi đã qua tuổi sáu mươi ba. Tôi sinh năm 1890 ở Portsmouth thuộc miền Nam nước Anh và đã tôt nghiệp trường cấp ba Portsmouth. Tôi đã được thụ phong vào năm 1912 và trở thành mục sư của nhà thờ Thánh Mark, thành phố Guildford. Năm 1914, thế chiến bùng nổ, tôi vào quân đội với chức vụ Tuyên uý. Tôi đã làm chủ lễ ở Gallipoli và ở Pháp. Trong chiến tranh tôi rất may mắn, bởi vì tuy bị một quả pháo dập ở Delville Wood trong suốt cuộc chiến Somme, tôi chỉ nằm bệnh viện vài tuần lễ và chỉ bốn tháng sau là trở ra tiền tuyến ngay. Sau chiến tranh tôi vẫn chưa có chỗ cố định và không muốn trở về với công tác giáo xứ trong một thị trấn nước Anh. Lúc ấy tôi mới hai mươi tám tuổi, chưa có gia đình và cũng chẳng có gì phải vướng bận nhiều khiến giữ chân tôi ở lại Anh. Theo tôi trong lúc còn trẻ trung và sức lực cũng nên hiến cuộc đời mình cho việc phụng vụ đến nhiều nơi khó khăn hơn và sau khi thảo luận với cha Giám mục, tôi sang Uùc theo chương trình huynh đệ Bush ở Queensland. Tôi đã phục vụ cho chương trình này bốn mươi năm, đi lại rất nhiều nơi từ Cloncurry đến Toowoomba, từ Birdsville đến Burdekin. Trong suốt mười bốn năm, tôi chưa có chỗ ở cố định và thường không ngủ quá hai đêm ở cùng một nơi. Chương trình huynh đệ này trả cho tôi mỗi năm năm mươi Anh kim, số tiền này cũng đủ để may mặc và chi tiêu cá nhân. Tôi cũng được cung cấp một số tiền nhỏ để chi phí cho việc đi lại nhưng tôi chưa phải dùng tới. Dân chúng ở vùng xa xôi hẻo lánh hầu hết đều có lòng tốt muốn giúp tôi đi lại từ nơi này đến nơi khác trong các lễ nghi tôn giáo, cưới hỏi hay ma chay. Họ thường lấy xe hơi chở tôi đến một địa điểm tiếp theo. Vào mùa mưa, khi ngập bùn, xe hơi không đi được, họ lại cho tôi mượn một con ngựa, khoảng chừng ba tháng để tôi có tiếp tục công việc cho hết mùa mưa. Năm 1934 tôi bị đau ruột thừa ở một nơi tên là Goodwood gần Boulia; cách Longreach ba trăm dặm về phía tây có một bệnh viện. Vào thời ấy, chưa có bác sĩ lưu động bằng máy bay. Tôi được họ chở trên xe tải trong hai ngày. Thời tiết thì quá nóng nực, đường đi thì gập ghềnh, khó khăn lắm mới tới được bệnh viện. Đến được đấy, tôi bị viêm màng bụng và gần chết. Tôi nghĩ mình cũng sẽ chết thôi nếu không nhờ công ty xe hơi Billy Shaw ở Goodwood chở tôi chạy suốt đêm. Sau khi phẫu thuật, thằng tôi trông thật thảm thương và khó mà bình phục trở lại. Vì vậy tôi miễn cưỡng xin thôi việc chương trình huynh đệ và trở về nước Anh. Đức giám mục hết sức nhân từ và sắp xếp cho tôi một đời sống khá thoải mái ở nhà thờ Thánh Peter thuộc địa phận Godalming và tôi đã định cư ở đây, rồi kết hôn với cô Ethel. Những năm mới lập gia đình, chúng tôi sống rất hạnh phúc và tôi đã dằn lòng chứ không đã viết ra tất cả. Ethel chết năm 1943, lúc chúng tôi chưa có con. Vào thời chiến, ở nước Anh, một mục sư có nhiều việc phải làm và tôi không cảm thấy tiếng gọi phục vụ quan trọng hơn khi chiến tranh chưa chấm dứt. Nhưng tôi cũng nhận ra rằng miền Godalming cần một mục sư có gia đình hơn là một người goá vợ và còn rất nhiều miền ở Queensland cần một người đàn ông có kinh nghiệm như tôi, dầu người đó đã năm mươi sáu tuổi. Tôi đã từ bỏ giáo khu và trở lại Uùc như là một mục sư trên một chiếc tàu biển di dân, và tôi thật sự nhận ra rằng chương trình huynh đệ còn muốn nhận tôi trở lại công tác dầu tôi đã lớn tuổi. Chẳng bao lâu sau, tôi cũng nhận ra rằng công tác ở vùng xa xôi hẻo lánh dễ hơn nhiều trước đây mười năm. Chiến tranh đã làm đường sá thay đổi và cải tiến, có một điều là các đài thu và phát vô tuyến đã được sử dụng đại trà ở các nhà ga xa xôi hẻo lánh, do đó sự liên lạc đã dễ hơn nhiều. Điều quan trọng hơn cả là đã có nhiều người sử dụng máy bay, hầu như đâu cũng có phi trường, và những dịch vụ cho khách thường xuyên đã được mở. Tất cả những sự cải tiến này đã tạo thuận lợi cho một vị mục sư muốn phục vụ hết mình cho các tín đồ hơn là trước đây. Tôi cũng nhận ra rằng nhiều nơi ở trong quận của tôi ở có thể đến thăm dễ dàng, có thị trấn cứ sáu tháng tôi có mặt một lần, khác với trước đây phải mất hai năm mới tới được một lần như lúc tôi mới đến nước Úc lần đầu. Năm 1950 ở xứ Tân Guinea bị khan hiếm trầm trọng các nhà truyền giáo. Có một lúc người ta bỏ đi hay vì bệnh tật nên chỉ còn một mục sư của Giáo hội nước Anh ở đấy mà phải phục vụ một miền rộng một trăm tám mươi mốt ngàn dặm vuông ở Papua và lãnh thổ Ủy trị. Hình như tôi cũng đã nghĩ đến những nhu cầu quá lớn của họ so với nhu cầu ở Queensland và được sự thoa? thuận của chương trình huynh đệ, tôi đã tự nguyện đi đến đó một vài tháng để giúp đỡ họ giải quyết những khó khăn. Khi tôi đi máy bay đến cảng Moresby, tôi đã năm mươi chín tuổi, đối với công việc như thế này, tôi cảm thấy mình quá già, vì chẳng có ai khác dám đi. Trong một năm, tôi đã đi đến nhiều nơi trong xứ, từ con sông Fly đến Rabaul, từ các mỏ vàng ở Wau đến các đồn điền Samarai. Bây giờ tôi mới lo là mình quá bất cẩn không mang theo Paludrine vì vào tháng chín năm 1951 tôi bị bệnh sốt rét nặng ở Saramaua và phải nằm viện đến mấy tuần lễ ở cảng Moresby, do đó cũng chấm dứt luôn công tác của tôi ở Tân Guinea. Sở dĩ tôi nói đến chứng sốt rét bởi vì sau này tôi còn bị tái đi tái lại nhiều lần nữa, tuy có phần nhẹ hơn. Có một địa điểm mà trong các phần này tôi đã nói đến. Có người nói với tôi rằng khi chứng sốt rét đã bị một lần, vài năm sau có thể bị tái lại, trước khi dứt hẳn và lần tái phát này không mấy trầm trọng như cơn bệnh tôi đã bị lần đầu ở Salamaua. Tôi cũng biết là mình điều hành công việc tạm ổn tuy đang bệnh; nhất là vấn đề đi lại, có khi tôi cũng hoãn hành lễ trong một ngày và nằm cho mồ hôi toát ra. Tuy nhiên cơn đau đầu tiên quá nặng làm tôi yếu người hẳn đi, nên rời bỏ Tân Guinea mà chẳng mấy tiếc nuối, để trở về sống với các bạn hữu ở trên đồi Atherton Tableland phía sau Cairns thuộc miền Bắc Queensland, mong bình phục và khỏe mạnh trở lại. Đức Giám mục vào thời ấy, vẫn đi lại đều trong Quận và Ngài đã viết thư đề nghị là sẽ đến thăm tôi và bàn bạc những chuyện mà tôi thấy chưa xứng đáng được Ngài quan tâm như thế. Tôi đi xuống Innisfail để gặp Ngài ở đấy vì tôi cảm thấy đã bình phục nhiều. Qua câu chuyện thân mật, Ngài đã đề cập đến tuổi tác của tôi và mong muốn tôi tiếp tục làm việc nhưng ít năng nổ hơn. Ngài nói là Ngài nóng lòng mở lại nhà thờ Giáo xứ Landsborough và muốn cử một Mục sư lo việc họ đạo tại địa phương. Ngài đã đề cập đến kinh nghiệm của tôi ở vùng nông thôn và hỏi nếu tôi bằng lòng sẽ cử tôi đến đấy vài năm để xây dựng lại tinh thần Giáo hội ở trong Quận ấy. Ngài cũng không mong tôi đi hết họ đạo rộng gần hai mươi tám ngàn dặm vuông, trong một vùng mà dân cư thưa thớt, vì Ngài hy vọng trong một năm thôi là có một mục sư trẻ về thay thế. Dĩ nhiên vấn đề tài chính là một vấn đề khó khăn cho nhà thờ, nhưng Ngài nói là sẽ gởi cho tôi một chiếc xe tải trong vài tháng tới, mặc dầu nó đã hơi cũ. Xe chẳng thấy tới, nhưng tôi đã điều hành tốt mà không có xe. Landsborough là một thị trấn nằm phía trên vịnh Carpentaria, người ta thường gọi là Gulf Country. Cách đây năm mươi năm, thị trấn rộng hơn bây giờ. Thời săn vàng bùng nổ, cả thị trấn có chừng hai mươi lăm khách sạn, hầu hết là quán nhậu, nhưng bây giờ chỉ còn lại hai. Có chừng tám mươi cư dân da trắng ở đấy gồm cả đàn ông, đàn bà và trẻ em và một số dân da đen độ hai ba trăm người trồi sụt bất thường, họ sống trong điều kiện đáng thương, trong các túp lều che bằng các tấm sắt rỉ, ở ngoại ô thành phố. Nơi ấy cách Cloncurry hai trăm dặm và cách Cairns và thị trấn Townsville về phía biển năm trăm dặm bằng đường hàng không. Ở đấy có một bệnh viện điều hành bởi hai chị em cô y tá và một nhà riêng cho bác sỹ mặc dầu từ trước tới giờ chẳng có bác sỹ nào bị lôi cuốn về thực tập ở đấy. Gặp trường hợp khẩn cấp, người ta gọi về Cloncurry và bác sỹ cứu hộ sẽ đến bằng máy bay. Trong chiến tranh người ta xây ở đấy một phi trường thật tốt và mỗi tuần một lần cũng có máy bay chở thư và đồ tiếp tế đến. Nhà thờ ở Landsborough thuộc loại kiến trúc rất đơn giản, phía ngoài đóng bằng cây, mới được xây dựng lại cách đây ba mươi năm sau một vụ cháy rừng. Tôi thấy nhà thờ được trang bị quá sơ sài nên định bụng nếu nhận được chút ít tiền là tôi sẽ sơn trong và ngoài luôn thể. Nhà thờ chỉ có ghế dựa chứ không có ghế dài hành lễ và đây cũng có cái lợi vì cứ hai hay ba tháng một lần, chúng tôi có đoàn chiếu bóng lưu động ở Landsborough và chúng tôi có thể đem những ghế dựa này ra khỏi nhà thờ đặt trong sảnh Shire hay trước sân nhà sách Duncan vào mùa nắng. Cá nhân tôi cũng thấy tiện lợi nữa, vì trong tòa Cha sở chẳng có ghế bàn gì cả, nếu có ai đó muốn đến gặp tôi, tôi có thể đến nhà thờ mượn ghế và trả lui cho buổi lễ sau. Cả nhà thờ và tòa Cha sở chẳng được ai ngó ngàn tới, bởi vì vị mục sư cuối cùng bị rắn cắn chết năm 1935 và từ đấy chẳng có mục sư sở tại nào ở Landsborough cho tới khi tôi tới nhận việc vào mùa thu 1952. Dĩ nhiên, nhà thờ thỉnh thoảng cũng được sử dụng để làm lễ do các Mục sư vãng lai. Còn chính bản thân tôi sử dụng nhà thờ trong rất nhiều dịp khi tôi có mặt ở trong Quận, để mong tìm hiểu những gì thuộc địa phương Landsborough. Tôi rất hoan hỉ được đi trên đó, bởi vì tùy theo những chuẩn mực của nước Anh, nhưng không còn nhiều đối với một giáo xứ. Có lẽ theo chuẩn mục của nước Anh, tôi không mấy giống một mục sư. Theo tôi đó là một nơi tôi có thể tiếp tục tiến hành công tác đã quen thuộc và cũng từ đấy tôi có thể góp nhặt một số sách mới, cũng như được sống thoải mái và tương đối tiện nghi. Dầu cho đã trình bày với đức Giám mục, tôi cũng phải nhận ra rằng, cá nhân tôi không còn là người đàn ông trước khi bị bệnh sốt rét. Tôi hy vọng cơn bệnh sẽ qua đi và thể lực sẽ được phục hồi. Tôi hy vọng như thế vì có quá nhiều việc để làm mà quỹ thời gian chẳng còn bao năm nữa. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Mưa của tác giả Nevil Shute.
Mùa Hè Tươi Đẹp - Cesare Pavese
Cesare Pavese (1908 - 1950) Nhà văn và Dịch giả rất quan trọng của nền văn học Ý trong thế kỷ XX Là tác giả Ý đoạt được nhiều giải thưởng văn học rất giá trị: 1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay. Nhưng mặc dù đạt đỉnh cao trong văn học sự thất vọng về cuộc đời và tình yêu luôn mang cho ông cảm giác trống rỗng và cô đơn. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn ngày 27 tháng 5 năm 1950 ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn tại thành phố Torino. Trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm, ông chỉ để lại vài hàng ngắn ngủi: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. *** ĐÁNH MẤT THƠ NGÂY, KHÁM PHÁ CẢM GIÁC VÀ CÁM DỖ Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong luồng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) *** Cesare Pavese - cuộc đời và tác phẩm Chọn tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết do giá trị văn học(1) của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX. Viết từ năm 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét. Thấp thoáng đâu đây một cuộc sống gần với hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập: Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả, khởi đầu cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được tác giả thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại. * Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và trong cùng thể loại cũng luôn có rất nhiều sự khác biệt. Sự khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ văn phong đa dạng, lối xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú... để người đọc khỏi nhàm chán rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt... đã làm tác giả lừng danh, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX. Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà còn cho nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.  Ông đã viết như thế này: “Quê tôi chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó nằm kề con đường liên tỉnh mà khi còn bé tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa rồi quay lưng và nói với người hiện diện: “Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã đến đây từ đó”. Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khỏa nỗi nhớ quê xưa. Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và trìu mến. Khi sống và tiếp cận với thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và đầy sương mù như Torino, Pavese càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt đầu đi tìm kiếm sự chân thực. Như tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm thái quá. Do vậy ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín mà cuộc đời mình đã gánh chịu. Trong các bức thư của mình, ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, muốn tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ “Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust. Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống, ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người: Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết: “Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”. Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết các xung đột nội tâm. Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông bỗng trở nên tử tế, nhân bản, trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã mang đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông. Năm 1930, lúc chỉ vừa 22 tuổi, ông tốt nghiệp đại học với luận án về sự lý giải thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác với tạp chí “Văn hóa”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ và nổi danh rất sớm. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc tìm được những gắn bó bạn bè: điều này giúp anh hiền hơn trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học. Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết. Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một cánh cửa cho một thời kỳ mới của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem cuộc đời là vô ích và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử. Năm 1933, khi nhà xuất bản Einaudi được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp ngành toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15 tháng 5 năm 1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý. Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3 năm 1936, nhưng sự trả tự do này oái ăm thay lại trùng hợp với sự thất vọng cay đắng của đời ông: Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm tù đày đớn đau (sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với sự thất vọng về tình yêu đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu. Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt, ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học: Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức - dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến truyền thuyết và nhân chủng học, thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành tác phẩm “Đối thoại với Leucò”. Về sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đốm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã sáng tác và in thành một tập thơ nhan đề: “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em...” Sau lần thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học (1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. * Tác Phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong dòng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự sỉ nhục tồi tệ trong thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành phố làm cho lóa mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu. Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong các thành phố có màu sắc hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” không chỉ là một câu chuyện kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa rằng tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” là chuyện kể về sự bảo vệ tiết trinh. Tựa đề ban đầu của tác phẩm chính là “Chiếc màn”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo... vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai, mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Ê chề và tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn: “Thôi mày hãy dẫn tao đi”. Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp” tuy có cốt truyện gắn liền với cuộc sống rất đời thường nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ (Ginia) và sự hư hỏng, thoái hóa (Guido và Amelia). Đánh mất sự hồn nhiên của một cô gái chính là bước chuyển biến từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho cái chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được ủy thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Amelia, tàn ác mà quyến rũ, cuối cùng đã lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết. Văn phong Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu vừa - nhanh. Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật. Trong tác phẩm của Pavese văn phong hòa lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong tâm cảnh. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ cách dùng câu đẳng lập(2). Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi nó tương xứng với trình độ văn hóa của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) __________ 1.  Tác phẩm đoạt giải thưởng Strega năm 1950. Giải thưởng STREGA là giải thưởng văn học quan trọng nhất của Italia. Được trao giải hằng năm cho tiểu thuyết hay tuyển tập truyện ngắn của các tác giả Ý. Giá trị hiện vật không nhiều nhưng giá trị tinh thần và giúp việc phổ biến tác phẩm rất lớn. Các tác giả Ý nhận được giải thưởng này có thể kể như: Cesare Pavese, Alberto Moravia, Mario Soldati, Giuseppe Tomasi di Lampedusa, Elsa Morante, Giorgio Bassani, Natalia Ginzburg, Primo Levi, Umberto Eco, Claudio Magris. Tuy nhiên cũng có những tác giả nổi tiếng sau đây lại không nhận được giải: Italo Calvino, Carlo Emilio Gadda, Leonardo Sciascia. 2. Paratassi, parataxis. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Tươi Đẹp của tác giả Cesare Pavese.
Hình Hài Yêu Dấu - Alice Sebold
"Hình Hài Yêu Dấu" là cuốn tiểu thuyết nối tiếp đề tài phản ánh và mổ xẻ các vấn đề bạo lực trong xã hội hiện đại của Alice Sebold. Câu chuyện kể về một bé gái mười bốn tuổi, sau khi bị cưỡng hiếp và giết hại thảm khốc bởi một kẻ giết người hàng loạt, linh hồn cô trên thiên đường vẫn tiếp tục dõi theo mọi biến chuyển trong cuộc sống của những người thân yêu, cách họ vượt qua nỗi đau mất mát, từng bước trưởng thành của họ trên con đường đến hạnh phúc... Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng nhận được sự đồng cảm của nhiều tầng lớp độc giả và trở thành một hiện tượng trong thế giới xuất bản. Khi Susie cất tiếng kể chuyện, cô đã ở trên thiên đường. Từ chốn lạ lùng mới mẻ cao vời đó, cô kể cho ta nghe, bằng giọng nói tươi trẻ và sinh động của một cô bé mười bốn tuổi, một câu chuyện ám ảnh và tràn đầy hy vọng... Phải, từ trên cao, Susie nhìn thấy cuộc sống vẫn tiếp tục mà không có cô - bạn bè ở trường truyền tai nhau về sự biến mất của cô, gia đình vẫn hy vọng tìm thấy cô, kẻ giết cô đang cố gắng xoá mọi dấu vết, quan hệ của bố mẹ cô trở nên khó khăn, em gái lớn của cô cố gắng trở nên mạnh mẽ, và em trai nhỏ của cô tìm cách níu giữ lại ý nghĩa của thế giới đã mất... Hình Hài Yêu Dấu là cuốn tiểu thuyết toả sáng, khiến người đọc kinh ngạc, và nỗi đau đớn dựng xây nên câu chuyện đem lại niềm hy vọng lớn lao hơn tất thảy. Trong bàn tay của một người chỉ vừa mới cầm bút nhưng rất mực tài hoa, câu chuyện về bi kịch khủng khiếp nhất mà một gia đình có thể phải đối mặt đã được chuyển hoá thành một cuốn tiểu thuyết hồi hộp, thậm chí ngộ nghĩnh, về tình yêu, ký ức, niềm vui, thiên đường và vết thương lành lại. *** "Trong quả cầu tuyết đặt trên bàn làm việc của bố tôi có một con chim cánh cụt, cổ quàng khăn sọc trắng đỏ. Ngày tôi còn bé bố hay bế tôi ngồi trong lòng ôm rồi với tay lấy quả cầu. Ông lật ngược quả cầu để các bông tuyết tụ ở đỉnh cầu, xong thoắt cái lật lại như cũ. Hai bố con cùng ngắm nhì bông tuyết lãng đãng rơi quanh chú chim. Tôi nghĩ con chim ở trong đó thật lẻ loi, nên lấy làm lo cho nó. Nghe tôi thổ lộ, bố mới bảo: Susie ơi, con đừng lo. Đời nó sung sướng lắm. Nó bị giam hãm, nhưng trong một thế giới hoàn mỹ đấy, con ạ...". *** Alice Sobold sinh ngày mồng 6, tháng Chín, năm 1963, tại thành phố Madison, tiểu bang Wisconsin, là tác gia Mỹ nổi tiếng nhờ hai tác phẩm Lucky (May Mắn) và The Lovely Bones (Hình hài yêu dấu). Thời còn đang theo học tại đại học California, thành phố Irvine, bà viết May mắn, cuốn tự truyện kể sự việc bà từng bị cưỡng hiếp và may mắn thoát chết ở tuổi vị thành niên. Sau khi May mắn được xuất bản vào năm 1999, Sebold tiếp tục sự nghiệp viết văn. Bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết Hình hài yêu dấu vào năm 2002, và đón nhận thành công vang dội. Với tác phẩm này, năm 2004 Alice Sebold đã giành giải sách đọc hay nhất trong năm. Richard and Juky Best Read Away, do British Book Awards trao tặng, năm 2003 nhận giải thưởng Sách trong năm của thể loại Văn học người lớn, do hiệp hội các nhà sách Mỹ trao tặng, và năm 2002 là giải Bram Stoker cho Tiểu thuyết đầu tay.    Mời các bạn đón đọc Hình Hài Yêu Dấu của tác giả Alice Sebold.