Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Trắng - Romain Gary

Ra đời trong bối cảnh tại Mỹ đang diễn ra những cuộc bạo động phản đối nạn phân biệt chủng tộc, Chó Trắng còn đi xa hơn thế. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Tác phẩm dựa trên câu chuyện có thật về quãng thời gian chú chó Batka xuất hiện trong cuộc đời Romain Gary, để rồi sau đó ông đau đớn nhận ra: chú chó thông minh, hiền dịu, “rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục” của mình lại là một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Chó trắng mở đầu với hình ảnh một chú chó xám, giống béc giê Đức, tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh, khoảng bảy năm tuổi đi theo Sandy - chú chó dòng Đan Mạch - của Romain Gary về nhà. Và như thế, chú chó Batka vô tình bước vào cuộc đời của nhà văn, mau chóng chiếm được tình yêu của ông. Gắn bó với chú chó là vậy, Romain Gary đau đớn khi phát hiện ra rằng Batka là một con Chó Trắng - một trong những chú chó được huấn luyện đặc biệt để tấn công người da đen. Không muốn giải quyết đời chú bằng một mũi tiêm thuốc độc, Romain Gary quyết tâm “chữa” cho Chó Trắng. Nhưng rồi Batka sẽ ra sao khi rơi vào tay một người huấn luyện da đen? Với Chó Trắng, Romain Gary gửi đến người đọc câu chuyện về người da đen Mỹ, về chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Một cách không khoan nhượng, với sự sáng suốt và tinh tế, tác giả của Lời hứa lúc bình minh đã xử lý một chủ đề đạo đức với sự thấu cảm văn chương tuyệt vời. Với Romain Gary, viết không giúp tìm ra câu trả lời, nhưng viết giúp giải tỏa nỗi đau trước sự ngu ngốc của con người.  *** Romain Gary, Sinh ngày 8-5-1914 tại Vilnius, Litva, Romain Gary lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ. Ông chuyển đến sống tại Nice, Pháp, năm 14 tuổi. Sau khi theo học ngành Luật, ông đăng ký gia nhập Không quân Pháp. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông là sĩ quan chỉ huy và từng được thưởng Bắc đẩu bội tinh. Với tiểu thuyết đầu tay Giáo dục châu Âu, ông được Giải thưởng phê bình năm 1945, trùng với thời điểm ông bắt đầu sự nghiệp tại Bộ Ngoại giao Pháp. Được cử đến Sofia (Bulgaria), Bern (Thuỵ Sỹ), New York (Mỹ), La Paz (Colombia) để làm việc, song Romain Gary vẫn không ngừng viết. Tiểu thuyết Les racines du ciel (Cội rễ bầu trời) đoạt giải Goncourt năm 1956, là một bức tranh toàn cảnh về đời sống một nước thuộc địa của Pháp ở vùng châu Phi xích đạo.  Năm 1961, ông rời bỏ ngành Ngoại giao. Sau tập truyện ngắn Gloire à nos illustres pionniers (Vinh quang cho những người tiên phong vĩ đại) (1962) và tiểu thuyết châm biếm Lady L. (1963), ông chuyển sang viết những câu chuyện phiêu lưu như: La comédie américaine (Vở hài kịch nước Mỹ) và Adieu Gary Cooper (Vĩnh biệt Gary Cooper) (1969),La danse de Gengis Cohn (Điệu nhảy của Gengis Cohn) (1967), La tête coupable (Cái đầu tội lỗi) (1968), Charge d'âme (Nhiệm vụ tinh thần) (1977).  Gary bắt đầu để lộ nỗi sợ tuổi già và sự hết thời của mình trong cuốn Au-delà de cette limite votre ticket n’est plus valable (Phía bên kia giới hạn tấm vé của anh không còn giá trị nữa) (1975) và Clair de femme (Sự thật về phụ nữ) (1977). Sau cái chết bi kịch của nữ diễn viên Jean Seberg, người là vợ ông từ năm 1962 đến 1970, ông viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng mang tên Les cerfs volants (Những cánh diều) không lâu trước khi ông tự vẫn vào năm 1980 ở Paris. Ông để lại chúc thư nêu rõ ông từng ẩn mình dưới cái tên Émile Ajar để viết các tiểu thuyết như Gros Câlin (Âu yếm) (1974), La vie devant soi (Cuộc sống trước mặt) - giải Goncourt năm 1975, Pseudo (Bút danh) (1976),L'angoisse de roi Salomon (Nỗi sợ của vua Salomon) (1979), đánh dấu sự cách tân trong bút pháp của ông.  Là một nhân cách đa diện: nhà văn, nhà ngoại giao, nhà làm phim, phi công thời chiến, Romain Gary thú nhận mình thích diễn những vai nhập nhằng khó hiểu; thích làm người điểu khiển rối, nắm trong tay những sợi dây điều khiển nhưng vẫn giữ một khoảng cách đủ xa để đánh giá được hiệu ứng mà ông tạo ra. Ông đã đẩy trò tung hứng ảo thuật lên tới mức tự tạo ra một phiên bản khác của chính mình - Émile Ajar, và trở thành nhà văn duy nhất hai lần nhận giải Goncourt, dưới hai cái tên khác nhau. *** Đó là con chó xám với một mụn hạt cơm bên phía phải mõm trông như cái nốt ruồi và một túm lông hung quanh mũi, khiến nó trông giống lão nghiện thuốc lá thâm căn cố đế trên tấm biển của hiệu Con chó hút thuốc, một quán rượu có bán thuốc lá ở Nice, không xa trường trung học thời nhỏ của tôi. Nó dõi theo tôi, đầu hơi ngả về một bên, ánh nhìn căng thẳng và chăm chú, lối nhìn của bọn chó hoang bị thu nhốt lại một chỗ trông chừng ta đi qua với một hy vọng đầy lo sợ và không thể chịu nổi. Nó có bộ ức của gã đô vật, và nhiều lần về sau khi con Sandy già của tôi trêu chọc nó, tôi thấy nó đẩy lùi kẻ quấy rầy chỉ bằng sức mạnh của lồng ngực, như một chiếc xe ủi. Đấy là một con chó béc giê Đức. Nó bước vào cuộc sống của tôi ngày 17 tháng Hai năm 1968 ở Beverly Hills, nơi tôi vừa đến đoàn tụ với vợ là Jean Seberg, trong lần quay một bộ phim. Hôm đó, một trận mưa rào quá cỡ như phần lớn những hiện tượng thiên nhiên ở Mỹ mỗi khi chúng ra tay ập xuống Los Angeles, trong vài phút biến nơi đây thành đô thị ao hồ nơi những chiếc Cadillac bị giáng truất bò đi thật thảm hại, bì bõm trong nước; thành phố mang cái dáng vẻ chẳng hợp lề thói tí nào của những thứ nhằm dùng vào việc khác hẳn, mà các nhà siêu thực từ lâu đã khiến chúng ta quen thuộc rồi. Tôi lo lắng cho con chó Sandy của mình, ngày hôm trước nó đã làm một cuộc chạy rông của anh chàng độc thân ở phía Sunset Strip và bây giờ vẫn chưa về. Sandy cho đến năm bốn tuổi vẫn còn là trai tân, nhờ ảnh hưởng của môi trường vốn chú trọng đạo đức của gia đình chúng tôi, nhưng một ả chó ở Doheny Drive đã khiến nó cuống cuồng lên. Bốn năm giáo dục tư sản và những tôn chỉ mẫu mực bị vứt vèo qua cửa sổ. Con chó này vốn bản chất thật thà, dễ tin, không được trang bị tốt để đương đầu với môi trường điện ảnh Hollywood. Chúng tôi đã mang từ Paris đến toàn bộ cái vườn thú thường ngày của chúng tôi. Có con mèo Miến Điện, Bruno, và cô bạn gái Thái Lan của nó, tên là Maï; thực ra Maï là một con mèo đực, nhưng chẳng hiểu vì sao chúng tôi luôn coi nó là một cô nàng, hẳn là vì nó có hàng kho mơn trớn dịu dàng mà nó ban phát cho chúng tôi xả láng. Còn có một mụ mèo già chuyên ở máng xối, Bippo, yếm thế và hoang dã, sẵn sàng cào cho anh một phát khi anh định vuốt ve mụ ta; một con chim tu-căng, Billy-Billy, mà chúng tôi nuôi từ hồi ở Colombia, và tôi vừa mới đem cho vườn thú riêng của Jack Carruthers ở San Fernando Valley, một con trăn tuyệt đẹp dài đến bảy mét, có biệt danh là Pete Kẻ Siết cổ, mà tôi đã bắt gặp trên đường trong rừng ở Colombia, cùng thời với con chim tu-căng. Tôi đành chia tay Pete vì các bạn tôi từ chối chăm nó khi, phải cái thói lang bạt của kẻ mà cái thân xác trong đó anh ta bị nhốt gây ra những cơn khủng hoảng của bệnh sợ chỗ kín, tôi đột ngột bỏ chạy từ lục địa này sang lục địa khác, đi tìm một ai hay một cái gì đó khác, cũng chẳng biết là cái gì. Thôi thì tốt hơn là tôi nên nói ngay là tôi chẳng tìm ra được cái gì khác trong các cuộc chạy đuổi của mình cả, ngoài thứ xì gà khá kỳ lạ ở Madras, một trong những bất ngờ lớn và đẹp của đời tôi. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm con trăn của tôi. Tôi vào trong khu đất rào đặc biệt mà Jack Carruthers dành cho nó vì quý trọng các nhà văn. Tôi ngồi xếp bằng, trước mặt nó, và chúng tôi nhìn nhau rất lâu, ngạc nhiên, sửng sốt vô hạn, mỗi bên đều bất lực không cắt nghĩa được chút nào về những gì đã xảy đến cho mình và làm cho bên kia được chia sẻ đôi chút hiểu biết rút ra từ kinh nghiệm của mình. Mang kiếp trăn hay kiếp người là một nỗi bất hạnh khiến ta ngơ ngác đến mức nỗi hốt hoảng được chia sẻ này trở thành mối tình bằng hữu thật sự. Đôi lúc Pete lấy tư thế hình tam giác - bọn trăn không quấn lại thành cục tròn, chúng dựng thân lên thành hình thước thợ; lúc đó tôi có cảm giác bằng cách ấy nó làm một dấu hiệu gì đấy mà tôi cần diễn giải. Từ đó, tôi biết được tư thế hình thước thợ đối với con trăn là tư thế tự vệ, trước một mối hiểm nguy, và như thế tôi biết rằng Pete Kẻ Siết cổ và tôi quả có một điều chung: cẩn trọng cao độ trong các quan hệ với con người. Tầm trưa, trong khi nước ồ ạt tuôn trên các đại lộ, tôi nghe thấy một tiếng sủa giọng trung đẹp mà tôi đã quá biết và đi ra mở cửa. Sandy là con chó vàng cao lớn, chắc hẳn là hậu duệ rất gián tiếp một dòng chó Đan Mạch xa xôi nào đó, nhưng do mưa và bùn, bộ lông nó đã bắt màu sô cô la nghiền. Nó đứng ở cửa, đuôi cụp, mõm sát đất, dùng tài năng dối trá tuyệt hảo để ra bộ chịu tội, xấu hổ và có dáng đứa con hư trở về nhà. Không biết bao nhiêu lần tôi bảo nó là không được lê lết ngoài đường ban đêm; sau khi đã đưa ngón tay dọa nó và mắng đi mắng lại nó mấy lần là bad dog tôi đã sẵn sàng tận hưởng trọn vẹn cái vai trò lãnh chúa cùng ông chủ được sùng bái và kính sợ, kẻ nắm uy quyền tuyệt đối của mình, thì con chó của tôi kín đáo quay đầu lại để chỉ cho tôi biết rằng không chỉ có mỗi hai chúng tôi. Quả là nó đã dẫn về một cậu bạn tình cờ gặp ngoài đường. Đó là một con béc giê Đức lông xám, chừng sáu hay bảy năm tuổi, con vật đẹp đẽ tạo cảm giác mạnh mẽ và thông minh. Tôi để ý nó không có vòng cổ, điều hiếm thấy ở một con chó nòi. Tôi cho anh chàng đểu của mình vào nhà, nhưng con béc giê Đức không bỏ đi, và mưa to đến nỗi bộ lông ướt dính chặt vào da khiến nó trông giống con hải cẩu. Nó vẫy đuôi, dựng hai tai lên, mắt long lanh linh lợi, với vẻ chờ đợi căng thẳng của lũ chó đang đón một cử chỉ quen thuộc hay một mệnh lệnh. Rõ ràng là nó chờ một lời mời, đòi cái quyền được cho trú ẩn vẫn khắc ghi bao đời nay trong quan hệ giữa con người với bạn hữu đang hoạn nạn. Tôi mời nó vào. Khá dễ biết tính cách một con chó, trừ với giống doberman*, ở giống này tôi luôn gặp những phản ứng bất ngờ. Con chó xám khiến tôi chú ý ngay vì tâm trạng vui vẻ của nó. Vả lại, ai đã từng sống chung với loài chó đều biết rằng khi một con tỏ ra mến một con khác, thì gần như ta luôn có thể tin đánh giá của nó. Con Sandy của tôi tính rất ôn hòa, và cảm tình tự phát của nó dành cho anh chàng khổng lồ được cứu khỏi cơn mưa rào này là sự tiến cử tốt nhất đối với tôi. Tôi điện thoại cho Hội bảo vệ động vật báo là tôi đã đón nhận một con béc giê Đức lang thang, báo số điện thoại của tôi, phòng trường họp chủ nó xuất hiện, và tôi nhẹ lòng khi nhận thấy vị khách của mình rất tôn trọng bọn mèo, và là một con vật lương thiện có giáo dục. Những ngày tiếp sau đó, tôi có nhiều người đến thăm, và con béc giê mà tôi đặt tên là Batka - trong tiếng Nga có nghĩa là Bố cưng, hay là Lão to sụ - được các bạn tôi rất thích, sau khi đã qua phút e sợ đầu tiên. Ngoài cái ức đ vật và cái mõm to đen sì, quả là Batka còn có bộ răng nanh giống như sừng của loài bò tót nhỏ mà ở Mexico người ta gọi là Machos. Tuy nhiên nó rất hiền dịu; nó hít hít các vị khách để nhận dạng rồi sau đó, ngay từ cái vuốt ve đầu tiên, bắt tay, bằng cách đưa chân ra cho khách như muốn bảo họ: “Tôi biết là tôi có vẻ hung tợn, nhưng tôi rất tử tế.” Ít ra thì đó cũng là cách tôi diễn giải những cố gắng của nó để làm yên lòng các vị khách của tôi, nhưng dĩ nhiên một người viết tiểu thuyết dễ bị nhầm về bản chất con người và sự vật hơn người khác, vì anh ta tưởng tượng ra họ. Tôi luôn tưởng tượng về những người tôi gặp trong đời hay sống gần tôi. Đối với một kẻ tưởng tượng chuyên nghiệp, điều ấy dễ hơn và đỡ mệt. Anh chẳng cần phải tốn thì giờ tìm hiểu những người thân của mình, chăm chú đến họ, thật sự chú tâm đến họ. Anh bịa ra họ. về sau, khi gặp điều bất ngờ, anh giận họ kinh khủng: họ đã lừa dối anh. Tóm lại, họ không xứng đáng với tài năng của anh. Chẳng ai đòi lại con chó, và tôi thấy nó đã trở nên một thành viên quen thuộc của gia đình tôi. Ngôi nhà của tôi ở Arden vốn sẵn có bể bơi, và công ty bảo dưỡng mỗi tháng hai lần cử người đến kiểm tra bộ phận lọc nước. Một buổi chiều, tôi đang ngồi viết, bỗng ở phía bể bơi có tiếng gầm dài rồi tiếp sau là những tiếng sủa giật từng hồi, nhanh và giận dữ mà bọn chó sủa để báo hiệu có kẻ lạ lẻn vào và chúng sắp tấn công ngay lập tức trong vài giây tới. Thường thì đó chỉ là lối nói trong ngôn ngữ loài chó cái câu tương đương với câu nói trong ngôn ngữ của chúng ta: “Hãy giữ tôi lại không thì tôi gây tai họa đến nơi đây này”, nhưng ở những con chó giữ nhà được huấn luyện tốt thì đó chẳng phải là chuyện làm ra vẻ bề ngoài. Tôi chưa từng biết thứ gì gây căng thẳng thần kinh hơn là những cơn kịch phát bất ngờ và hung dữ ấy mà mục đích là chôn đứng chân anh tại chỗ, trong khi chờ dịp tốt hơn. Tôi chạy ra sân. Bên kia hàng rào sắt là anh chàng làm công người da đen đến kiểm tra bộ phận lọc nước bể bơi, còn Batka thì lao ra phía cổng chính, bọt sùi đầy mõm, trong cơn thù hận tột đỉnh kinh hoàng đến nỗi con Sandy trung hậu của tôi vừa bò vừa rên hư hử lẩn vào một bụi cây và biến thành tấm thảm chân giường. Anh da đen đứng sững, tê liệt vì sợ. Chẳng phải chuyện đùa. Con béc giê hiền từ của tôi, luôn nhã nhặn với khách khứa của chúng tôi, đã biến thành cơn thịnh nộ súc sinh, tìm lại được trong đáy họng nó những tiếng hú của loài ác thú đang đói trông thấy thịt mà không với tới được. Có một điều gì đó thật hết sức đáng nản lòng và gây bối rối trong cái cách thay đổi đột ngột của một con vật hiền lành anh tưởng đã hiểu rõ thành con thú tàn bạo và chừng như hoàn toàn khác. Đây là sự biến đổi thật sự về bản chất, gần như là về tầm vóc, một trong những khoảnh khắc nặng nề khi những sắp xếp nhỏ nhặt vốn đã làm anh yên lòng và những phạm trù quen thuộc vỡ vụn tan tành. Kinh nghiệm khiến người ta phải nản lòng dành cho những kẻ chuộng các niềm tin chắc chắn. Bỗng nhiên tôi đối mặt với hình ảnh một thú tính khởi nguyên, nấp kín trong lòng tự nhiên, mà người ta thích quên đi sự có mặt ngầm của nó giữa hai lần bộc lộ chết người. Cái mà ngày trước người ta gọi là chủ nghĩa nhân ái luôn bị mắc kẹt trong cái song đồ đó, giữa tình thương lũ chó và sự kinh tởm tính chất chó má. Tôi cố kéo con Batka lại và bắt nó vào nhà, nhưng quả là nó có ý thức nghĩa vụ, cái con khốn kiếp ấy. Nó không cắn tôi, nhưng hai bàn tay tôi đầy những nước bọt, và nó giật ra khỏi tôi, lao về phía cổng, nhe nanh ra. Anh da đen đứng bên kia cổng, dụng cụ cầm ở tay. Đó là một chàng trai trẻ. Tôi nhớ rất rõ nét mặt anh ta, bởi đây là lần đầu tiên tôi thấy một người da đen đứng trước sự căm thù thú tính. Anh ta có cái vẻ buồn thường thấy trên một số khuôn mặt người khi họ sợ. Trong chiến tranh, tôi thường thấy vẻ mặt ấy ở các bạn trong phi đội của tôi. Tôi nhớ hôm trước ngày phải thực hiện một nhiệm vụ bay là sát mặt đất đặc biệt nguy hiểm, đại tá Fourquet đã bảo tôi: “Trông cậu buồn thế, Gary.” Lúc đó tôi sợ. Tôi bảo anh thanh niên đi đi, bỏ chuyện súc bể bơi tuần này. Ngày hôm sau lại tái diễn cảnh tượng ấy với người làm công của công ty Liên hiệp Miền Tây mang đến cho tôi một bức điện tín. Buổi chiều, mấy người bạn đến thăm chúng tôi và, mặc dầu tôi lo lắng, Batka đã đón tiếp họ hết sức thân tình. Họ là người da trắng. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là người làm công của Liên hiệp Miền Tây cũng là người da đen.   Mời các bạn đón đọc Chó Trắng của tác giả Romain Gary.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai Trăm Năm Cũ - Anthony Grey
V iệc quyết định tán thành và ủng hộ công cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của Tổng Thống Kennedy đã ứng nghiệm thành một khúc quanh định mệnh cho sự can thiệp vào Việt Nam của Hoa Kỳ. Tổng Thống Kennedy bị mưu sát cách đó ba tuần lễ sau khi lật đổ nhà Ngô, nhưng guồng máy hành chánh mà Trung Tướng Dương Văn Minh đã tung hết mọi hy vọng vào đó đã chỉ sống được vỏn vẹn có ba tháng lại bị một nhóm Quân Đội khác lật đổ. Sau đó thì các cuộc đảo chánh khác tiếp tục tái diễn liên hồi kỳ trận, nhưng các cuộc đảo chánh và chỉnh lý này vẫn không đưa dân chúng miền Nam ra khỏi cảnh nghèo đói hơn thời ông Diệm chút nào. Nhóm Phật Giáo đã thành công trong việc hòa hợp và cũng cố lại để lật đổ chế độ Ngô Đình bây giờ mở rộng phạm vi hoạt động khá lớn trong việc chống đối chính quyền, chống đối cả Hoa Kỳ tại các thành phố lớn, và các cuộc xáo trộn như thế này càng ngày càng quá quen thuộc với dân chúng. Phật giáo và Công giáo đánh nhau chết người ngoài đường phố. Sinh viên liên tục gây xáo trộn. Tất cả mọi Chính quyền mới tại Sài Gòn lúc này đều khôn khéo tránh tái diễn cảnh đàn áp tàn bạo của Cảnh Sát như thời Ngô Đình Nhu, nên các cuộc hỗn loạn đều được dàn xếp với cung cách thí nghiệm mà thôi. Ngược chiều với đà hỗn loạn gia tăng này, kế hoạch Ấp Chiến Lược tại thôn quê hoàn toàn bị sụp đổ và từ đó Việt Cộng gia tăng củng cố lại lực lượng của mình. Hồ Chí Minh và các cấp lãnh đạo tại Hà Nội không ngừng tìm kiếm cơ hội để lợi dụng tình hình xáo trộn này. Lần đầu tiên họ chỉ cho xâm nhập một số lớn các đơn vị chiến thuật Bắc Việt vào Nam qua ngã Cao Miên và Ai Lao. Trong tình cảnh này, hy vọng rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam đã trở nên không làm sao thực hiện được, trái lại Tổng Thống Johnson lại cho gia tăng quân số cố vấn tại Việt Nam lên tới ba mươi ngàn người. Tới năm 1965 thì người ta thấy rõ rằng Cộng Sản tại đây đang trên đà thắng trận, và chính cũng ngay lúc này Tổng Thống Johnson bắt đầu thay đổi tình trạng liên hệ của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Tháng giêng năm 1965 Tổng Thống Johnson lần đầu tiên ra lệnh cho các phi cơ Hoa Kỳ thường xuyên dội bom vào các mục tiêu của Cộng sản tại cả hai miền Nam lẫn miền Bắc, và tháng Bảy năm đó, Tổng Thống Johnson cho gửi thêm năm chục ngàn quân chiến đấu Hoa Kỳ vào Việt Nam để chiến đấu cho sự độc lập của Miền Nam. Với các chuyến bay từ Đệ Thất Hạm Đội ngoài khơi Thái Bình Dương, Lục Quân, Không Quân và Hải Quân Hoa kỳ đã thật sự được ký thác vào cuộc chiến tranh tại đây. Mặc dù sự ký thác này được lồng trong từ ngữ giới hạn và qua mặt dân chúng Hoa Kỳ bằng cách gây nên một cuộc chiến tranh mà không có lời tuyên chiến chính thức nào. Việc nhảy vào can thiệp bằng võ trang của Hoa Kỳ được ngụy tạo bằng một biến cố xảy ra tại vịnh Bắc Việt vào tháng tám năm 1964. Theo lời tuyên bố của chính Tổng Thống Hoa Kỳ thì các tuần tiễu đỉnh của Bắc Việt đã tấn công hai diệt lôi đỉnh của Hoa Kỳ để khiêu khích. Đề đối phó với sự xâm lăng của Cộng sản, Tổng Thống Hoa Kỳ đã ra lệnh cho phi cơ oanh tạc vào các căn cứ Hải Quân và các kho nhiên liệu của Bắc Việt. Lời tuyên bố này được Tống Thống Hoa Kỳ thông báo cho báo chí vào giữa đêm ngày 4 tháng 8 năm 1964, và ba ngày sau đó với một bầu không khí đầy xúc động, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua sắc luật Động Viên của Tòa Bạch Ốc, theo đó Quốc Hội ủy cho Tổng Thống có toàn quyền áp dụng mọi biện pháp cần thiết để phòng ngừa sự tấn công sau này của Cộng Sản. Các nhà lập pháp Hoa Kỳ đã đồng thanh coi Việt Nam là một nơi rất quan trọng cho nền Hòa Bình của Hoa Kỳ và Thế Giới qua giải pháp vịnh Bắc Việt. Từ đó, chỉ trong vòng vài tháng sau, Tổng Thống Johnson bắt đầu cho dội bom và đưa một lực lượng quân đội với quân số lên đến nửa triệu người qua Việt Nam mà không cần phải thông qua một sự biểu quyết nào của Quốc Hội hay dân chúng hết cả. Sau này, sự phanh phui ra ánh sáng về sự thật của các chiếc lôi đỉnh của Hoa Kỳ không phải bị Bắc Việt tấn công chi cả mà chỉ là một sự dàn cảnh mà thôi, nhưng sắc luật Vịnh Bắc Việt vẫn có hiệu lực cho mãi đến sáu năm sau, khi việc chống đối chiến tranh Việt Nam của quần chúng Hoa Kỳ ngẫu nhiên bắt buộc Hoa Kỳ phải hủy bỏ sắc luật đó. Tại Việt Nam các binh sĩ Hoa Kỳ khám phá ra là họ không thể nào tìm cách tiêu diệt được quân thù hơn cách mà người Pháp và Quân Đội Việt Nam đã từng làm trước họ. Mặc dù được Bắc Việt yểm trợ với nhiều tiểu đoàn chính quy, nhưng Việt Cộng tại miền Nam vẫn tiếp tục áp dụng chiến thuật du kích, cho nên một phần ba số thương vong của Hoa Kỳ đều do các mìn bẫy của Việt Cộng. Tổng Thống Johnson đưa quân vào miền Nam càng nhiều thì số tiền viện trợ cho miền Nam cũng càng gia tăng thêm, nằm trong các chương trình phát triển nông thôn, chương trình bình định hay một chương trình cho một cuộc chiến tranh khác. Tất cả các nỗ lực này đều không đủ sức quyến rũ nông dân Việt Nam để họ khỏi ngả theo Việt Cộng chút nào. Thay vì thay đổi nếp sống của nông dân tại đây, các chính sách của Johnson lại làm ung thối thêm đờỉ sống của họ. Đầu năm 1968, tổng hợp các ảnh hưởng về các cuộc hành quân lùng và diệt địch, các chương trình khai hoang bằng hóa chất tại các vùng rừng rậm ở Việt Nam cũng như các cuộc không tập tại các nơi này cho thấy có hàng triệu người dân phải đi tị nạn. Họ đổ dồn về các thành phố đã quá đông người để sinh sống. Tại các nơi này, họ lại phải đương đầu với mọi khó khăn để sinh tồn trước sự có mặt của quá nhiều người Hoa Kỳ, mà các chương trình viện trợ rộng rãi của họ đã làm cho nạn lạm phát kinh tế tăng gia trầm trọng hơn bao giờ hết. Trong lúc đó thì sự lãnh đạo tại Miền Nam đã trở nên ổn định hơn. Trước tiên dưới quyền lãnh đạo của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, rồi sau đó là Nguyễn Văn Thiệu. Cả hai chính phủ này vẫn không được quần chúng ủng hộ và nạn thối nát cũng không thua thời ông Diệm lại xảy ra. Nói chung thì cả hai chính phủ này đều không được sự ủng hộ của mọi tầng lớp dân chúng. Chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Giữa thập niên 1960 thì Hoa Kỳ gia tăng các cuộc oanh tạc trên lãnh thổ Bắc Việt với mục đích làm cho các nhà lãnh đạo tại Hà Nội biết là Hoa Kỳ vẫn quyết tâm đánh gục họ, nhưng trên thực tế thì các cuộc dội bom này đã làm cho dân chúng Bắc Việt càng đoàn kết lại thêm hơn và cùng quyết tâm chống lại cuộc ngoại xâm - một thứ giặc đã từng đè nặng lên suốt hành trình lịch sử của họ - Cũng trong thời gian này, phi cơ của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ bị bắn rơi tại miền Bắc càng lúc càng thêm nhiều, và một số phi công bị bắt làm tù binh. Tin đức đồn ra là các phi công này bị quân thù hành hạ và tra tấn tàn bạo phù hợp với hình thức tẩy não của Cộng Sản, và kết quả là số tù binh này bỗng nhiên trở thành một mối quan tâm làm động lòng tất cả mọi tầng lớp dân chúng tại Hoa Kỳ. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Hai Trăm Năm Cũ của tác giả Anthony Grey.
Một Nơi Để Nhớ - Anthony Grey
D ưới ách thống trị của người Pháp, năm 1925 Việt Nam bị chia làm ba phần. Nam phần gồm cả Sài Gòn và vùng đồng bằng sông Cửu Long được gọi là Nam kỳ. Trung phần kể cả kinh đô của nhà vua ở Huế cùng các vùng phía Bắc khu vực này dưới quyền bảo hộ của người Pháp là Annam hay Trung Kỳ. Bắc phần cũng thuộc quyền bảo hộ của Pháp với thủ phủ Hà Nội là Bắc Kỳ. Hoàng Đế đang thời của Việt Nam là vua Khải Định. Trên lý thuyết hoàng đế Annam cai trị hai vùng Bắc và Trung Kỳ dưới sự bảo hộ của người Pháp, trong khi đó Nam Kỳ bị chi phối bởi các luật lệ trực tiếp từ Paris, nhưng trên thực tế thì cả ba kỳ đều là thuộc địa của người Pháp. Ngoài các bộ lạc người thiểu số sống rải rác tại các miền rừng núi xa xôi, hẻo lánh, đại đa số dân chúng Việt Nam đều có cùng chung một chủng tộc. Ngày nay họ là người Việt Nam, nhưng thời bấy giờ, thế giới bên ngoài chỉ biết đến họ là người Annam hay Annamites mà thôi. Theo tài liệu lịch sử cho biết thì người Việt Nam trước kia là người Trung Hoa bỏ nước ra đi, di cư tới các quần đảo thuộc vùng ven biển Thái Bình Dương và họ tự gọi mình là Nam Việt. Sau này, khi người Tàu đem quân sang xâm lăng và chiếm cứ vùng đất này suốt mười thế kỷ dài, người Trung Hoa cũng gọi dân bản xứ là người Annam. Trong suốt thời gian bị người Trung Hoa đô hộ, dân chúng ở đây đã hấp thụ sâu đậm nền văn minh và văn hóa của người Tàu trong đó các thể chế vua chúa cũng như các triết thuyết Khổng, Mạnh được dân chúng địa phương áp dụng mãi về sau này. Khi nhà Tần bên Trung Hoa suy sụp thì tại đây người Annam cũng dành lại được sự Tự Do cho đất nước của họ. Họ sửa đồi quốc hiệu của mình nhiều lần bằng nhiều niên hiệu khác nhau. Đại Nam, Đại Việt... Họ đã đẩy lui được quân Mông Cổ và nhiều lần đập tan mọi âm mưu xâm lược của các triều đại nhà Nguyên, nhà Minh và nhà Thanh của Trung Hoa. Đến thế kỷ thứ XIX, họ không có đủ sức mạnh để chống lại với quân đội Âu Châu. Thời bấy giờ, người Pháp sau ròng rã hai thế kỷ dài liên tục đưa các giáo sĩ và các thương nhân đến đây giao dịch, cuối cùng họ quyết định cho áp đặt một chính sách cai trị lên phần đất này chung với hai quốc gia láng giềng là Ai Lao vào Cao Miên bằng võ lực và đặt ba quốc gia này thành một liên bang Đông Pháp. Pháp đã dùng mười sáu ngàn binh sĩ của họ để đàn áp mười lăm triệu dân bản xứ một cách vô cùng dã man, và chính quyền Annam phải đành chấp nhận thua thiệt. Pháp cho bổ nhiệm các viên chức cai trị của họ tới cấp thấp nhất trong guồng máy xã hội khiến cho người dân nơi đây không còn một chút quyền hành nào cho chính họ, và đây là một điều sỉ nhục mà người dân Annam phải gánh chịu ngay trên phần đất của mình. Gạo, than đá và cao su được đem bán ra nước ngoài để đem lợi tức về cho các tay có cổ phần ở Âu Châu trong khỉ đó người dân bản xứ bị đày ải đi làm việc tại các hầm mỏ cũng như tại các đồn điền với đồng lương không đủ sống. Đối với tầng lớp nông dân cũng vậy, họ bị tước đoạt hểt đất đai, ruộng vườn mà không có được một lý do nào cả để đem chia cho các kiều dân Pháp cùng một số ít người bản xứ chịu đứng ra hợp tác với người Pháp. Trong khi một mặt thẳng tay chiếm đoạt đất đai và tài sản của dân chúng, mặt khác người Pháp lúc nào cũng rêu rao, tuyên bố với công luận là họ đến Đông Dương này với nhiệm vụ “Khai Hóa Văn Minh” nhằm giúp đỡ các quốc gia nhược tiễu bước vào ánh sáng văn minh của thế kỷ XX. Các học giả thức thời, các quan chức cao cấp người Annam biết rõ âm mưu giả nhân, giả nghĩa này của ngưởỉ Pháp ngay từ lúc đầu. Họ từ chối không chịu hợp tác với những chủ nhân ông, người ngoại lai này, họ cổ động dân chúng bày tỏ sự bất đồng của mình trước thái độ xâm lăng của người Pháp. Một số người yêu nước đứng ra tổ chức các nhóm chống đối, nhưng không mang lại một kết quả nào. Cũng như tại các thuộc địa khác của mình trên khắp thế giới, người Pháp cho rằng dân chúng người Annam là những người thuộc giai cấp thấp hèn so với người Âu Châu, và vào năm 1925 này, người Pháp đã biểu lộ rõ ràng thái độ và hành động của mình theo quan niệm trên đối với dân chúng tại quốc gia này hàng ngày trên mọi bình diện từ kinh tế đến chính trị, từ xã hội cho đến ngay cả vấn đề luyến ái nữa. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Một Nơi Để Nhớ của tác giả Anthony Grey.
Ăn Mày Dĩ Vãng - Chu Lai
'Ăn mày dĩ vãng' của Chu Lai là một tiểu thuyết chiến tranh nhưng kỳ thực nó phô bày hết mọi mặt của cuộc sống. Từ cuộc chiến tranh đẫm máu giữa hai phe: ta và kẻ thù đến tâm sinh lý con người, đến tình yêu lãng mạn trong thời kỳ dã man và khốc liệt, rồi cả những mặt trái trong thời chiến lẫn thời bình đều được lôi ra tuồn tuột trưng bày cho độc giả nhấm nháp và chiêm nghiệm suy tư. Hải Giang (Cuốn sách của tôi) Tôi - một con nhỏ 21 tuổi, sinh ra, lớn lên và đang sống trong bình, hiếm khi để mắt, hứng thú với đề tài chiến tranh và những cái thuộc về quá khứ. Nhưng không biết một sự đẩy đưa vô duyên cớ nào mà tôi đã tập trung hết sức lực của đầu óc và tim gan một cách cao độ để đọc hết quyển Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai. Về chiến tranh. Phải, ngòi bút chu Lai đã vẽ ra, không, phải nói là đã tạc vào không gian trước mắt người đọc toàn bộ cảnh tượng hãi hùng, đầy mất mát thương đau đến độ cái buồn dai dẳng mà không biểu lộ ra bằng nước mắt, chỉ bằng tiếng kêu inh ỏi trong tim gan, trong óc. Tôi thật sững sờ, ngóng theo từng trang viết và cái tâm hồn yếu đuối, ủy mị thiếu rèn luyện của va chạm cuộc đời, của những vất vả khổ đau, của bất hạnh hay chông gai trở ngại đã bị thay đổi hoàn toàn. Tôi nhận ra quá khứ bị bỏ quên một cách phũ phàng. Đành rằng con người ta sống trên đời cần phải sống cho hiện tại thật tốt và hướng đến tương lai. Nhưng không vì vậy mà phủi sạch mọi thứ của quá khứ, của dĩ vãng kinh người khiến bao nhiêu số phận trở nên lao đao lận đận. Họ lận đận là vì ai, vì họ, không, vì tất cả, vì lẽ sống cho nhân loại, vì yên bình cho mọi người, cho tất cả chúng ta. Tiểu thuyết không vênh vang ca ngợi bằng những lời lẽ khô khốc khuôn sáo, mà chính từ những gì đã xảy ra theo một diễn biến tự nhiên sinh động, thực, rất thực đã tự cho ta thấy được giá trị của những đức hy sinh chân chính. Không hoàn toàn hoàn hảo như thiên thần, họ, những con người vì quê hương bán mạng bám lấy từng mảnh rừng, quyết giữ gìn từng tấc đất, không nề hà sống trong những chốn hiểm nguy, cốt mơ ước khát khao thực thi cho được sứ mệnh cứu nước vĩ đại, cũng đôi lúc "phàm tục". Đó là khi đói quá họ phải ăn trộm hộp sữa trong bồng của đồng đội ăn, hay như cái ông Tám Tính đi vồ con gái người ta để thỏa mãn nhục dục đang lên đến mức cuồng tính, hay để cướp cò B41 làm chết người bạn đồng chí, đồng hương của mình... Họ hết sức bình thường, bình dị giản đơn, những con người chứa đựng cả hai mặt ưu và khuyết điểm. Chỉ những người trong cuộc, từng sống chung và trải qua mới kể lại một cách rành rọt chi tiết, tỉ mỉ và y như thật như thế. Nếu không thì Chu Lai quả là một ngòi bút thiện xạ, có một đôi mắt và óc nhìn khuất lấp, ít nhất là với tôi, ông ấy đã để lại một ấn tượng không phai nhòa về một thời ở một vùng khói lửa chiến chinh với muôn mặt người tốt xấu. Đọc tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng, người ta thấy dù trong thời chiến hay thời bình đều có những nhân vật thừa nước đục thả câu, đục nước béo cò, mà sự thật của những bộ mặt ấy thật đáng nguy hại cho xã hội loài người. Thằng Địch là đồ khốn, nó đáng phải bị bắn nổ sọ vì những trò gian manh ác ôn của nó, của thằng bán nước. Và tôi yêu mến cô Sương từ đoạn đầu tiểu thuyết cho tới lúc cô bị đạn bắn chi chít lên người, "óc phòi ra" khi từ dưới hầm chạy lên, không vì cái ống quần ác nghiệt trong giây phút nghiệt ngã vô thường này, đã chạy đến được với tình yêu đang đợi ở bên suối, sau lưng là sự truy đuổi ráo riết. Tôi sẽ yêu mến cô đến cuối cùng nếu như cô chết ngay lúc đó. Về sau sự yếu đuối và dung dưỡng của cô, và cả cái tình yêu "dần dần mà ra" với tên địch khốn kiếp thiệt đáng trách, đáng ghét, đáng bực mình làm sao. Cô Ba Sương đáng yêu nồng hậu và quyết đoán lại xử sự như thế trước một tên ác ôn quả là đáng lên án, không chịu được, tôi đọc mải miết và cảm thấy bức xúc vô cùng, lần theo từng trang sách tôi vừa hồi hộp vừa run run, tiếc nuối một Ba Sương với bờ vai chim sẻ, thật đáng yêu và đáng trân trọng... Giờ đây, cái tên Tư Lan lạ lẫm, cô ta không xứng với tình yêu của hai Hùng. Anh hai Hùng! Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu vẫn đẹp và lãng mạn, dường như đó là một đặc tính, là bản chất muôn thuở của tình yê. Lối viết của Chu Lai khiến độc giả hồi hộp, tập trung, thần kinh như bị căng ra đến độ muốn đứt nhưng không đứt được, cứ lằn nhằn, khó chịu, bứt rứt, rồi đứng im, rồi hụt hẫng, chao đảo, buồn thương, tiếc nhớ. Xen lẫn một chương hiện tại với một chương quá khứ, Ăn mày dĩ vãng đúng thực là ăn mày dĩ vãng, gã ăn mày không cần tiền vàng chức tước mà chỉ cần một cái quá khứ bị đánh cắp, một cái sự thật rõ ràng, không ngại khó mà lội ngược dòng tìm người thương và những bối rối cả đời cần được tháo gỡ, cần được giải đáp. Thương lắm, cảm động lắm, tình yêu ấy đẹp lung linh và tỏa ra một thứ ánh sáng muôn vẻ... Tôi thầm lặng nhìn lại, chao, tôi đang phí hoài quá một tuổi trẻ, một tình yêu nông cạn và lầm lỗi của chính mình. Cái cách đan xen giữa quá khứ và thực tại như thế làm cuốn hút người đọc, đồng thời nó tạo bố cục hợp lý chặt chẽ giữa các tình tiết một cách tự nhiên, không gượng ép, như cái chương hai Hùng và Ba Sương yêu nhau trong căn hầm, nhờ lần đó mà hai Hùng phát hiện ra nốt rùi nhỏ phía ngực trái như "mắt đôi chim câu" của Sương, sang chương sau - chương hiện tại - đó lại là chi tiết để hai Hùng nhận ra Ba Sương một cách rõ ràng nhất... dù đau khổ và tê tái hay trong tình huống nguy nan kịch liệt, hoặc là dở khóc dở cười, giọng văn của Chu Lai vẫn hóm hỉnh, lạnh nhưng vẫn ấm. Bút pháp mạnh mẽ đến kỳ lạ, cách dùng từ lạ lẫm có sức hút người đọc độc đáo. Tôi còn nhớ mãi cái búi lãi trong bọc nước ở cái bụng mở tang hoác của Bảo khi bị B41 cướp cò từ tay Tuấn, cái họng đầy những đất cát, cỏ cây, đờm dãi và máu của một anh lính mắc ho khi đứng sát chân thằng địch, chỉ vì - cái cách tác giả giải thích cho những điều ông ấy viết ra luôn tự nhiên, tự nhiên đến đau lòng – "lôi được cậu ta ra ngoài hàng rào thì mặt mày đã tím bầm, sưng tấy, mồm miệng nhoe nhoét những dãi dớt trộn máu, trộn đất... Ở cái giây phút cuối cùng, cậu ta đã âm thầm tự nhét đất, nhét cỏ vào đầy cổ họng mình đến tắc thở để cho tiếng ho thứ hai khỏi phụt ra kéo theo cái chết của bạn bè!" Những con người hy sinh nhiều nhất là những con người sau hòa bình lập lại sẽ ẩn sâu vào cuộc sống bình dị đời thường hay ẩn náu nơi chốn nào đó thư thái tâm hồn mà nhớ chuyện ngày xưa, họ sống như một công dân bình thường... Họ không huênh hoang chiến công này, chiến tích nọ, họ luôn im lặng để mặc cho năm tháng chiến tranh, năm tháng mà họ phải chiến đấu gian khổ cực nhọc bào mòn đi tuổi trẻ và hạnh phúc của họ, để lại trên thân thể họ những vết thương đau âm ỉ. Mặc kệ luôn cả những thói đời đang từng ngày làm tổn thương họ thêm lần thứ hai, lần này là về mặt tinh thần, những sự thật méo mó, giả dối tràn ngập giữa dòng đời đang chảy dữ dội, sức người khó lội ngược, vượt qua, nếu cứ lội ngược thì không bèo nhèo thì cũng dễ chết lắm. Mà họ thì không lội ngược không được, thấy nghịch lòng trái lương tâm lắm! Ăn mày dĩ vãng có một cái kết thúc vừa có hậu vừa không có hậu. Nó hợp lý, hợp lẽ, hợp tình. Chỉ tội cái mảnh tình thủy chung của hai Hùng không ráp lại được với Ba Sương ngày gặp mặt sau 20 năm. Nhưng tâm hồn anh hai Hùng giờ đã nhẹ ra và bên anh còn những ông bạn chí cốt, thế là lẽ sống đã không tuyệt đường, vẫn đâu đó niềm hy vọng, một cuộc sống vui vẻ và hạnh phúc, mãi mãi! Cần Thơ ngày 13 tháng 04 năm 2010 *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển Mời các bạn đón đọc Ăn Mày Dĩ Vãng của tác giả Chu Lai.
Nắng Đồng Bằng - Chu Lai
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Rừng miền Đông không thấy tiết xuân. Sáng ra có gió lạnh se se. Trưa đến, nắng lại bừng lên oi ả. Chiều có cái mát mẻ của thu sang. Và khi đêm xuống thì rét thực sự. Mắc võng giữa rừng đã phải đốt củi sưởi. Nhưng vẫn chưa phải là xuân. Rừng vẫn xanh tươi một màu của cây lá Tịnh không có một ngày mưa dầm rả rích. Xuân về nơi đây chỉ là dấu hiệu chấm dứt những trận mưa dầm và bắt đầu vào mùa khô dằng dặc. Thượng nguồn sông Sài Gòn vẫn chở nặng trong lòng nguồn nước của sáu tháng mưa tích tụ lại. Sông đỏ đắn hồng hào, nhưng hai bên bờ không tìm thấy một vạt phù sa. Gió vẫn mang theo cái vị nồng nồng tanh tanh của dòng sông lắm tôm nhiều cá. Mùa khô này, chiến sự đã giạt về phía dông bằng. Rừng đã yên tĩnh trở lại. Đang vào mùa rừng dầu trút lá. Tàu lá dầu liệng xuống như cánh diều phủ vàng mặt đất. Mỗi khi có con hoẵng chạy qua, thảm lá khô vang động như có ai đang bẻ chiếc bánh đa. Những cây dầu con mới lớn, phiến lá đã to gần bằng lá già rụng xuống. Lá như cái quạt nan che lấp cả thân cây Đang giữa trưa nắng, gặp rừng dầu non, mắt bỗng dịu lại như đang lạc vào một vùng rau xanh trù phú. Hết rừng dầu lại tới rừng cao su. Màu xanh lá dầu chỉ có thể so sánh với màu cao su vừa thay lá. Những cánh rừng cao su thăm thẳm, huyền bí như những cái hang động màu ngọc bích. Sắc lá càng xanh biếc trong màu đất ba dan đỏ tươi. Măng lồ ô đã lớn vượt lên thành những thân non màu hồng mượt mà. Rừng sạch sẽ và thoáng đãng đến nỗi muốn ngả lưng nằm xuống thảm lá ngủ một giấc. Thỉnh thoảng lại gặp một, hố bom dầy ắp nước, trong vắt. Xung quanh bờ mơn mởn những vạt mắc cỡ, rau tàu bay, lá giang chua... Chiều xuống hay những buổi sớm tinh mơ đã nghe tiếng dọc, vượn hú gọi nhau. Rừng yên ổn, chúng kéo nhau trở về từng bầy, chuyền thoăn thoắt trên những ngọn cây cao. Trên con đường đất rộng bò ngoằn ngèo trong rừng, có một đoàn người đang lặng lẽ cất bước. Con đường còn hằn lại những vết bánh xe ô tô trũng sâu, nước đã cạn khô. Nhìn hai bên đường còn vương lại những đoạn phên tre mục nát mới chợt nhớ rằng con đường thồ bùn nước lép nhép năm nào đã chạy qua đây. Đoàn người đi chậm rãi, thong thả qua những cánh rừng già. Cứ trông cách ăn mặc, đồ đoàn trang bị, người ta đoán ngay đó là một đơn vị mới ở vùng sâu lên. Chân họ đi dép mềm, dép lỗ, thảng hoặc mới gặp một đôi dép râu. những ống quần buông chùng vẫn còn những đường ly thẳng băng. Thắt lưng người nào cũng đeo toòng teng một cây đèn pin ngoéo đen bóng. Họ hầu như không có súng, trừ một vài cây tiểu liên cực nhanh và M.79. Đầu họ để trần hoặc đội mũ vải rộng vành. Thoạt trông, đoàn người giống như những chàng trai thành thị hiếu kỳ lên rừng đi săn, nếu như trên nét mặt trầm mặc của họ không có những con mắt ánh lên vẻ khắc khổ, dạn dày. Người đi đầu khoảng gần ba mươi tuổi, dáng người chắc lẳn, khuôn mặt cân đối, đẹp trai, có mái tóc mềm vươn xuống trán. Anh như đang mê mải suy nghĩ điều gì, mắt dõi ra xa nhưng vẫn không giấu được vẻ bồn chồn, sốt ruột. Ở đó, phía đoàn người đang đi tới, đang vẳng đến tiếng rì rầm của một dòng sông. Một chiến si trẻ, to lớn, nước da dỏ hồng, xăm xăm chạy lên đầu: - Sắp tới rồi phải không anh? Người có mái tóc xoã gật đầu. - Cho nghỉ một chút anh nhé! Người ấy cũng chỉ gật đầu không nói, rồi lặng lẽ cầm lấy tay người chiến sĩ trẻ bước gấp lên. Con đường đang ngược lên một dình dốc. Rừng thấp dần xuống. Đột ngột, trước mắt đoàn người hiện ra một khoảng trống trải, bao la. Cái bao la của một khúc sông thượng nguồn. Sau ngày ký kết hiệp định Pa-ri, cuộc chiến đấu ở vùng sâu càng diễn ra gay gắt, ác liệt. Kẻ thù lật lọng điên cuồng phá hoại thành quả Cách mạng. Những người bám đất, bám dân hàng chục năm đang khao khát đón đợi một ngày hoà bình, lại tiếp tục cầm lấy cây súng. Khói lửa lại ngày đêm bao phủ lên khắp các bưng biền, sông rạch. Theo chỉ thị của Bộ, để giữ truyền thống của một đơn vị binh chủng, tiểu đoàn đặc công tập trung trở lại. Các chiến sĩ trinh sát rải rác từ khắp các địa bàn hóc hiểm kéo về. Họ nhìn nhau trào nước mắt. Ngày nào xuống hai trăm người mà bây giờ chỉ còn lại gần ba chục anh em... Linh đã được chỉ thị thay Sáu Hoá làm tiểu đoàn trưởng. Và hôm nay, anh dẫn tiểu đoàn đặc công của mình, sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ bám giữ địa bàn, hành quân trở về hậu cứ. Họ sẽ được nghỉ ngơi, bổ sung quân số một thời gian để chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Linh ngồi trên đỉnh ngọn bằng lăng cao nhất đang nở xòe những cánh hoa màu tím nhạt. Sau lưng anh là dòng sông. Bên cạnh anh là trung đội trưởng Ma Hồ Lang. Hai anh em đang đau đáu nhìn về một vùng nắng xa xa. Dưới ấy là dông bằng. là vùng ven thành phố. Trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một màu xanh thoai thoải và một vệt nắng dài lấp loáng như sông. Không hiểu sao. Linh tin chắc rằng đó là dòng sông Sài Gòn. - Anh Linh ơi! Quê chị Năm đó phải không? Mảng sáng phía bên kia sông Sài Gòn đó? - Lang bỗng rối rít hỏi. Linh nhìn theo hướng tay Lang chỉ, không trả lời. Mắt anh mờ đi như có nước. Anh nhớ lại những ngày tháng đã qua với những căn cứ nhỏ bên sông, những dải rừng chồi lá thấp, những trận đánh ban đêm, những khóm lục bình trôi theo tiếng chim bìm bịp kêu...Nhiều đồng đội của anh dã không cùng trở lại hôm nay. Anh nhớ tiếng cười rộng rãi, phóng khoáng của anh Sáu Hoá. Nhớ cả ánh mắt hằn học, lạnh lùng của thằng Kiêu. Kẻ thù vẫn tồn tại dưới đó. Và những người còn ở lại bám trụ địa bàn như Phận, Hải, anh Út "Cò ngẳng", Rổn… đang đón đợi anh trở về. Thế rồi, trên cái vệt dài lấp loáng nắng kia, anh như nhìn thấy Thúy đang mềm mại đưa đẩy mái chèo, tà áo bà ba bay là là mặt nước, một bên mái tóc xõa ra, kín đáo che đi vết sẹo màu hồng nhạt... - Thúy ơi! Anh sẽ trở lại. Nhất định anh sẽ trở lại dòng sông quê hương em! Lúc ấy, sau lưng anh, bên kia sông xuất hiện những toán bộ đội đầu tiên. Trong chốc lát, cả cánh rừng rộn rịch tiếng những bước chân, những chiếc mũ cối trùng điệp nhấp nhô. Họ là những binh đoàn chủ lực đang chuẩn bị vượt sông tiến về đồng bằng... Sông Sài Gòn - Hè 1978 CHU LAI Mời các bạn đón đọc Nắng Đồng Bằng của tác giả Chu Lai.