Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Ở Trước Mặt

Bà Rosa, một bà già Do Thái từng bị bắt đến Auschwitz và từng tự vệ (thuật ngữ chú bé Momo mười tuổi – nhân vật tôi – sử dụng chỉ gái điếm) ở phố Blondel, Paris, đã mở một “quán trọ không gia đình dành cho những đứa trẻ sinh ngoài giá thú”, hay nói cách khác là một quán trọ bất hợp pháp nơi các bà các cô làm nghề tự vệ bỏ rơi con cái mình. Cậu bé người Ả rập Momo kể lại cuộc sống của mình ở nhà bà Rosa và tình yêu của cậu dành cho người mẹ duy nhất còn ở lại với mình ấy, một bà già cổ lỗ, to béo, xấu xí và đáng kính mà cậu yêu bằng cả trái tim. Và cậu sẽ ở bên bà cho đến những ngày cuối đời bà. Mọi thứ đã định sẵn để tạo nên một tình yêu không-thể-có: giữa chú bé Momo và Madame Rosa có hơn nửa thế kỷ tuổi tác và gần một tạ cân nặng, Momo thì nhìn về phía trước cuộc đời còn Madame Rosa chỉ ngoái về quá khứ; thêm vào đó, Momo là người Ả-rập còn Madame Rosa là người Do Thái. Thế nhưng bạn sẽ nhận ra đây là một câu chuyện tình đẹp như mọi điều không thể khác, một trong những gì kỳ diệu mà chỉ văn chương mới biết cách tạo ra. Nói đúng hơn, chỉ văn chương của một số rất ít nhà văn mới có thể tạo ra. Émile Ajar, tức Romain Gary, ở giai đoạn sáng tạo thứ hai của cuộc đời mình, đã viết nên một kiệt tác nữa không hề thua kém Lời hứa lúc bình minh (1960). Mười năm sau câu chuyện tình yêu giữa hai mẹ con nhà Romain, là câu chuyện về cậu bé Momo với một lời hứa khác khi đứng trước mặt cuộc đời.  Cuộc sống ở trước mặt nhận giải Goncourt năm 1975, đồng thời làm dấy lên một vụ bê bối chưa từng có trong lịch sử giải thưởng danh giá nhất nước Pháp. Bộ phim cùng tên (1977) của đạo diễn Moshé Mizrahi đã đoạt giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất năm 1978, và nữ diễn viên nổi tiếng Simone Signoret trong vai Madame Rosa đã nhận giải César cho diễn xuất năm 1978. *** Cuộc sống, nó không phải là thứ dành cho tất cả mọi người. Momo đã rút ra kết luận như thế. Nhưng cuộc sống vẫn dành cho cậu, vẫn dí trước mặt cậu cái bản mặt thê thảm của nó, mà dù muốn, dù không cậu cũng phải đối diện, phải nếm trải bằng tất cả các giác quan. Vì Momo vẫn phải sống. Những khi tôi cảm thấy đời mình ngập tràn bế tắc, tôi hay nghĩ về Momo, cậu bé Ả Rập lớn lên trong vòng tay một người đàn bà Do Thái đã giải nghệ làm gái đứng đường, về những gì mà cuộc sống dành cho cậu, để thấy rằng, mình thật là may mắn vì không có những gì mà Momo và Madame Rosa của cậu có, những thứ đủ sức biến cuộc đời họ thành vũng lầy nhớp nháp mắc míu và đớn đau, như nỗi ám ảnh không bao giờ rũ bỏ nổi. Trong vũng lầy của cuộc sống, một tình yêu bám rễ như một lý do níu kéo sự tha thiết với cuộc đời. Tình yêu kỳ lạ không thể gọi tên, không giống như tình ruột rà máu mủ, không thuần túy là mối tình giữa đàn ông và đàn bà, dù ở đây ta cũng có một người đàn ông – Momo, mười tuổi (thật ra là đã mười bốn) và một người đàn bà – Madame Rosa, gần bảy mươi. Thứ tình yêu rung động như cổ tích, có thể biến một bà già bủng beo nặng gần một tạ trở thành người phụ nữ đẹp dịu dàng trong trái tim Momo. Người đàn bà Do Thái mang nhiều vết thương và sự ám ảnh, nhiều phong ba vùi dập của cuộc đời. Madame Rosa đã cưu mang một đứa bé mồ côi như Momo, vì miếng cơm manh áo, nhưng rồi đã giữ cậu lại bên mình như một đốm lửa nhỏ sưởi ấm trái tim đơn độc giữa biển đời thê lương của mình. Người đàn bà đã ôm ấp cậu, vỗ về an ủi và chùi đít cho Momo trong những ngày tháng bơ vơ từ thuở còn thơ cho đến ngày cậu lớn. Tình yêu giữa họ lớn hơn cả tình mẫu tử thông thường, nó đến từ hai trái tim thèm khát tình yêu tới thắt lòng thắt ruột và đơn côi tới rạn nứt cả trái tim. Cuộc sống không cho Momo tình thương và lòng tin, chỉ cho cậu duy nhất một người đàn bà nặng gần một tạ để neo cậu lại với cuộc sống, người đàn bà mà nguy cơ rời bỏ cậu ra đi càng ngày càng gần kề. – – “Ông Hamil ơi, người ta có thể sống mà không có tình yêu được không?” – – “Có.” Momo bật khóc. Cậu biết rằng mình sẽ vẫn phải sống ngay cả khi tình yêu duy nhất của đời mình ra đi. Dù Momo có đổ hàng tấn nước hoa lên người Madame Rosa, nhưng cuối cùng bà vẫn bỏ cậu mà đi bằng cái mùi của tử thi đã hoại. Và bởi thế, cuộc sống này có vị gì đâu. Nó vẫn thản nhiên đi qua bằng gương mặt đanh đanh vô cảm của nó, cùng những đớn đau đã chai sạn trong tâm hồn già cỗi của một đứa bé lên mười – à không, mười bốn chứ. Cuộc sống, dù nó có cứa biết bao nhiêu vết lên Momo, nó vẫn luôn ở trước mặt cậu, nó chẳng thể ở đâu đó khác, nó còn biết ở đâu nữa bây giờ? Romain Gary luôn khiến tôi cười, mặc dù biết là bi kịch lắm rồi đấy. Ông khiến tôi lạc quan với chút dí dỏm của mình, dù cười đấy mà ruột thắt biết bao nhiêu bận. Nhưng cái cách ông kiên trì cười vào nỗi thống khổ nó khẳng định rằng rồi ông sẽ thắng, kiểu gì rồi ông cũng sẽ thắng. Không biết đây có phải là một liệu pháp tinh thần không, nhưng biết đâu khi ta cười, thì thế gian sẽ cười đáp lại. Biết đâu cuộc sống đen thủi đen thui của Momo sẽ sang sủa lên, dẫu là tôi cũng chẳng biết đào bới niềm hy vọng ấy ở đâu cho đến dòng chữ cuối. Nhưng ôi dào, rồi thì đời sẽ qua. Thật ra thì những gì mà Momo và Madame Rosa của cậu có, nó chẳng thể nào tệ hơn được nữa. Bạn có khóc khi đọc cuốn này không? Tôi không khóc. Nhưng đau đớn. Không phải ai cũng khiến người ta đau đớn thế khi mặt mũi tỉnh queo. Bởi thế tôi tin là Gary là một trong những cây bút thiên tài. Tiếc là ông chẳng còn trên đời nữa.   Kafka Bookstore *** Kết thúc cuốn tiểu thuyết Cuộc sống ở trước mặt, mặc dù cậu bé Momo đã đổ bao nhiêu nước hoa lên xác Madame Rosa, thì người chết vẫn không thể tỏa hương được mà buộc lòng phải tỏa ra mùi xác chết. Nếu không thế thì người ta chắc vẫn chưa phát hiện ra Madame và Momo vẫn có thể còn được ở bên cạnh bà. Nằm bên cạnh Madame nồng nặc mùi tử khí trộn lẫn với mùi bao nhiêu chai nước hoa mà Momo đã dốc lên đấy, Momo hãy còn nhận xét rằng cuộc sống có mùi vị gì đâu. Cái nhận xét ấy ngậm ngùi như chính tên tác phẩm: Cuộc sống ở trước mặt. Cuộc sống có ở trước mặt không khi ở những trang cuối cùng của tiểu thuyết, hai nhân vật chính, người thì chết rã, người thì, cái cậu bé mười tuổi à không mười bốn tuổi đấy, biết sẽ lang thang ở cái xó xỉnh nào của Paris, rồi có đến lúc cậu phải “tự thân vận động” như mẹ cậu đã từng không? (“Tự thân vận động” là một trong những “thuật ngữ” của Momo, trong truyện này có nghĩa là… Nếu biết mẹ cậu là gái đĩ, có lẽ không cần giải thích gì hơn.) Với cái kết đó, cuộc sống chắc chắn không ở trước mặt, còn ở đâu thì tôi không biết. Có khi nó chẳng ở đâu cả. Lại dẫn lời Momo: “Cuộc sống, nó không phải là thứ dành cho tất cả mọi người”. Và nữa, làm gì có sự công bằng trên thế giới này, khi mà “có những người có tất cả mọi thứ, từ xấu xí, già nua, đến nghèo khó, bệnh tật [như Madame Rosa] trong khi có những người chẳng có gì.” Những ngày tôi đọc Cuộc sống ở trước mặt là những ngày bận rộn. Thời gian trước đây, một tuần tôi đọc trung bình ba bốn cuốn sách các loại, còn thời gian này tôi thường đọc nhiều quyển cùng một lúc và hầu như cuốn nào cũng chừng vài chục trang là bỏ dở. Thế mà, mỗi ngày vài chục trang, tôi không bỏ Cuộc sống ở trước mặt để nhảy sang những cuốn khác. Cuốn tiểu thuyết này không có một cốt chuyện hấp dẫn hay những tình tiết giật gân, nó chỉ có một thứ mà rất nhiều cuốn khác, đặc biệt là những cuốn best-seller không có: văn chương đích thực. Đọc Cuộc sống ở trước mặt, bên cạnh tận hưởng hạnh phúc của việc thưởng thức một thứ văn chương hảo hạng, ta còn có thể hạnh phúc khi nhận ra rằng mình không phải có những thứ mà Madame Rosa của Momo có. *** CUỘC SỐNG Ở TRƯỚC MẶT Có lẽ trên đời này không có mối tình nào đẹp hơn mối tình của Momo 14 tuổi và Madame Rosa nặng một tạ đang gần đất xa trời. Ta có thể gọi nó là một mối tình bất chấp hiểu lầm bởi thật ra, đó là một tình yêu đã vượt qua khỏi mọi định nghĩa về giới tính nay tuổi tác. Nó là tình yêu của một người dành cho một người, hai con người đã tìm thấy niềm an ủi nơi nhau, để bên nhau chống lại mọi sự tàn nhẫn của cuộc đời. Cuộc sống ở trước mặt như một lời khẳng định với Momo rằng, cậu không còn một lựa chọn nào khác là bước tới. Mặc cho sau lưng là tuổi thơ đầy tủi hổ của một đứa con gái điếm bị bỏ rơi, mặc cho cuối cùng, cả người phụ nữ cậu yêu thương nhất trên đời cũng không thể đi cùng cậu nữa. Ta vẫn phải đối diện với cuộc đời tả tơi của mình một cách bình tĩnh kệ cha cõi lòng nát như tương. Romain Gary đã vậy còn biết cách chặn tất cả nước mắt nước mũi người đọc bằng cách kể chuyện dí dỏm tưng tửng của mình, chặn nó để nó tích tụ lại thành một khối nước mắt khổng lồ sẽ rơi một lần vào cái ngày Momo đổ tất cả nước hoa lên thi thể Madame Rosa nhưng bà vẫn mãi mãi bỏ cậu đi. Chỉ còn Momo cùng cuộc sống ở trước mặt đanh thép bảo rằng cậu phải sống. Momo liệu có sống? Tôi không biết nữa. Nhưng Romain Gary đã không chọn sự sống vào những ngày không còn mẹ trên đời, như ta đọc trong Lời hứa lúc bình minh và cả tiểu sử của ông nữa. Mỗi người đều cần một lẽ sống để có thể sống. Cuộc sống ở trước mặt thật đấy, nhưng ta vẫn còn một lựa chọn nữa ngoài bước tiếp, là dừng lại mãi mãi. Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Ở Trước Mặt của tác giả Romain Gary.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Ty - Phan Hồn Nhiên
"Công Ty" Câu chuyện xoay quanh các mối quan hệ trong một công ty chuyên về thiết kế. Hầu hết các nhân vật đều còn rất trẻ, mới bước vào đời, bươn chải, với những mục tiêu và khát vọng riêng. Những cô gái chàng trai đã hớn hở sống và trải qua các biến cố lớn với cảm giác tự tin, tuyệt vọng, hy vọng…, những bài học về sự đánh đổi, trả giá và cảm nhận hạnh phúc. *** Peter không biết tôi rất tỉnh ngủ. Mọi hành động ông ta làm đều được tôi quan sát qua đôi mắt khép hờ. Bóng người mặc quần áo hằn lên trong đêm tối. Cách ông ta hút vội điếu thuốc cho tỉnh táo. Cặp kính trắng loé sáng khi phản chiếu thoáng qua bóng đèn hắt ra từ phòng tắm. Rồi ông ta rút ví, kiểm tra lại số tiền xem có lấy trộm hay không… Nhiều lần như thế mà tôi vẫn không sao quen được. Tôi nín thở, lặng đi vì bị sỉ nhục. Hệt như một kẻ bị ma ám, tôi luôn tự ngủ phải tẩy xoá những hình ảnh ấy ra khỏi óc càng sớm càng tốt. … Đôi ba lần, tung sợi dây thăm dò, tôi thử vòng tay ôm chặt, hoặc tựa sát vào ông ta một cách âu yếm. Peter chấp nhận hành động của tôi, nhưng rõ ràng, ông ta quan sát và tìm cách giải mã chúng theo con mắt nhìn đầy quái quỷ. Dần dần, tôi nhận ra tình thế mỉa mai đến mức kinh tởm mà mình rơi vào. Peter và tôi là hai đối thủ đầy cảnh giác, hỗ trợ nhau trong công ty nhưng sẵn sàng thọc dao vào ngực nhau bất cứ lúc nào. Hai kẻ dè chừng nhau vậy mà vẫn gắn kết những giây phút riêng tư nhất trên giường. Mỗi người theo đuổi mối lợi, không thể dễ dàng rũ bỏ. ... Mời các bạn đón đọc Công Ty của tác giả Phan Hồn Nhiên.
Không Khoan Nhượng - Brad Thor
Biệt tài của Brad Thor là im lặng và “lạnh lùng” miêu tả, không đưa ra bình luận. Nhưng mọi tình tiết ly kỳ tới mức kinh dị của ông đã nói lên tất cả. Có một bài ca được cất lên. Đó là nét đẹp của tình yêu và lẽ sống, nét đẹp của trí thông minh và lòng dũng cảm. Thật khó có thể nói hết được tình yêu của Harvath với Tracy. Từ đó, thật mà khó nói hết nỗi đau của anh khi chứng kiến cô người yêu của mình rơi vào cảnh “sống mà như chết”. Tuy đơn độc trong cuộc chiến, nhưng Harvath được hậu thuẫn bởi nhiều đồng nghiệp, người thân, sự hiểu biết và tình yêu đối với công việc. Anh bỏ qua sự lạnh nhạt của tổ chức, sự tiếp tay vô tình của nhiều người với kẻ địch (như thằng Lùn chẳng hạn)… để hướng tới mục tiêu duy nhất: Truy đuổi đến cùng để triệt hạ đối phương. Với 124 chương, kéo dài suốt 551 trang sách, bạn đọc sẽ trải qua một cuộc “đọc marathon” mệt nghỉ với nhiều tâm trạng. Nhưng cảm xúc từ tiểu thuyết này thật lớn. Có quá nhiều sự kiện ly kỳ “hơn cả trinh thám”. Cuốn sách sẽ cung cấp cho bạn thêm nhiều tri thức về sự xung đột ý thức hệ thời hiện đại với nhiều sắc thái biểu hiện. ở đó, ta sẽ thấy âm mưu và tình yêu bộc lộ rõ rệt. Và ta cũng thấy ở đó, nghị lực sống, nghị lực vượt qua thử thách cao hơn tất cả. *** Câu chuyện bắt đầu từ “trại 5” Delta, tại căn cứ của hải quân Mỹ ở vịnh Guantanamo (Cuba). Ai cũng biết đây là trại giam khét tiếng, chuyên giam giữ tù nhân là bọn khủng bố. Đó là những kẻ Hồi giáo cực đoan ở rải rác khắp nơi (như Afghanistan, Palestine, Ảrập Xêút, Iran, Iraq...). Cả thế giới đều phải e ngại trước những kẻ mà “bom cảm tử mạnh hơn cả bom nguyên tử”. Dĩ nhiên, chuyện Al Qaeda tác oai tác quái là điều quá rõ. Điều mà bạn đọc tự hỏi là, vấn đề chính trị như vậy sẽ được khai thác như thế nào dưới góc độ tiểu thuyết? Các nhân vật trong truyện “lưỡng phân” thành 2 nhóm. Đó là thế lực ngầm (những kẻ khủng bố, giấu mặt) và thế lực nổi (mật vụ Mỹ, FBI và lực lượng chống khủng bố, cũng giấu mặt). Đây là sự đối đầu gian nan, khốc liệt nhất. Bởi trong sự đối chọi này, có cái thiện và cái ác, có âm mưu và tình yêu, có sự sống và cái chết, và có niềm tin bắt nguồn từ hai phía... *** TRẠI DELTA CĂN CỨ HẢI QUÂN MỸ VỊNH GUANTANAMO, CUBA Khi trời nóng ấm, ở Cuba, cuộc sống của con người ta đâu đó lơ lửng giữa hai thái cực, giữa nỗi khổ cùng cực và sự chịu đựng cái nóng nực, bức bối, chen chúc chờ đợi được tắm cho bớt khó chịu, để rồi, khi đến lượt mình thì, “Có bồn tắm rồi đấy, có ai có dao lam không?”. Còn khi mưa lạnh, ở Cuba quả là không thể chịu nổi. Đêm nay là một đêm như vậy. Lúc những người lính gác đễn chỗ xà lim đặc biệt thuộc “Trại 5” Delta, khu giam giữ những kẻ tình nghi nguy hiểm nhất và có giá trị tình báo cao nhất, nơi đây tồi tệ hơn ngày thường rất nhiều. Và đó không phải vì thời tiết. Có cái gì đó không ổn. Nó hiển hiện trên nét mặt họ khi đẩy năm tù nhân ra khỏi xà lim và giơ súng yêu cầu chúng cởi quần áo. Thời gian Philippe Roussard ở Guantanamo không phải là dài nhất, nhưng hắn đã trải qua những cuộc lấy cung khó khăn nhất. Một người Châu Âu mang dòng máu Ả-rập, hắn là tay bắn tỉa cừ khôi với những kỳ tích đi vào huyền thoại. Những cuốn băng video về tài nghệ bắn súng của hắn được đẩy lên liên tiếp trên khắp các trang web của các tín đồ Hồi giáo thánh chiến. Đối với những tín đồ Hồi giáo, hắn là một siêu anh hùng trong các danh nhân đạo Hồi cấp tiến. Đối với nước Mỹ, hắn là cỗ máy giết người kinh hoàng, kẻ đã gây ra cái chết của trên một trăm lính Mỹ. Nhìn vào gã cai ngục, hắn nhận thấy ánh mắt ấy hơn cả nỗi thù hận đơn thuần. Đêm nay, ánh mắt ất còn có cả sự ghê tởm tột độ. Có điều gì đó mách bảo, cho dù lính của Lực lượng Liên quân Guantanamo có chiến thuật hỏi cung nửa đêm đối với Roussard và bốn đồng nghiệp của hắn như thế nào đi nữa, đêm nay, sẽ hoàn toàn khác những gì chúng đã từng trải qua. Những người lính gác có vẻ bắt đầu bối rối. Liệu có phải đã có cuộc tấn công thành công vào nước Mỹ? Còn điều gì khác có thể khiến những người lính kia rơi vào trạng thái như thế? Nếu vậy, Roussard cảm nhận rõ ràng rằng người Mỹ sẽ bắt các tù nhân phải trả giá. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là chúng đã có một kiểu đê tiện khác để xúc phạm sự nhạy cảm kiểu đạo Hồi của các tù nhân. Riêng mình, Roussard hy vọng cuộc tra tấn có người lính tóc vàng tham gia và rằng cô sẽ cởi quần áo cho tới khi chỉ còn bộ đồ lót đen bằng ren và cọ sát thân hình quyến rũ ấy vào người hắn. Dù biết mình đoán sai, nhưng những suy nghĩ thích thú về những gì hắn muốn với người đàn bà ấy đã giúp hắn dễ dàng trải qua những giờ đồng hồ cách ly dài đằng đẵng và cô đơn mà hắn phải chịu đựng. Hắn vẫn còn đang tiên đoán về số phận của mình khi nghe tiếng khóa cửa ở tận đầu kia xà lim. Roussard nhìn lên, hy vọng đó là người lính tóc vàng, nhưng không. Một người lính khác bước vào mang theo năm cái túi giấy. Cứ ngang qua mỗi tù nhân, anh ta lại vứt cho một cái. “Mặc vào!” Anh ta ra lệnh bằng thứ tiếng Ả-rập vụng về. Tất cả tù nhân, kể cả Philippe, đều bối rối lấy quần áo dân sự ra khỏi túi và mặc vào người. Chúng kín đáo nhìn nhau trong khi cố tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra. Roussard nhớ lại những câu chuyện đã từng nghe về các tù nhân trong trại tập trung người Do Thái, chúng nói rằng đưa họ đi tắm, nhưng thực chất là đưa đến các phòng gas. Hắn ngờ rằng những người Mỹ này đang cho cả bọn mặc quần áo mới chỉ để hành quyết họ, tuy nhiên, hắn hơi lo lắng một chút vì không biết chắc sẽ phải đối mặt với cái gì. “Sao chúng không chạy nhỉ?” Một trong số những người lính gác thì thầm vào tai đồng bọn khi anh ta đánh vào cái vòng cản của khẩu M16 của mình. “Tao chỉ muốn một trong số những thằng khốn này nói dông dài với chúng ta.” “Nhảm nhí,” người lính kia trả lời. “Chúng ta đang làm cái quái gì vậy?” “Hai thằng, câm ngay!” Chỉ huy của họ quát lên, rồi ra một loạt lệnh qua điện đài. Hẳn có chuyện gì đó không ổn. Ngay khi vừa mặc xong quần áo, chúng bị còng tay chân và bắt đứng xếp hàng quay mặt vào bức tường phía xa. Thế đấy, Roussard nghĩ bụng khi hắn bắt gặp cái nhìn chằm chằm của gã lính gác đang hy vọng một trong những tù nhân sẽ chạy chọt. Ngón tay anh lính bắt đầu lần từ cái vòng cản xuống chỗ cò súng và có vẻ muốn nói gì đó khi có một loạt xe dừng lại phía bên ngoài. “Đón chúng ta đấy.” Vị chỉ huy Lực lượng Liên quân hết lên. “Lên thôi!” Đám tù nhân bị đẩy về phía cửa. Roussard hy vọng khi ra ngoài, hắn có thể nhìn thấy là họ đang đi đâu, như vậy sẽ rõ ràng hơn. Không được rồi, từng tù nhân một bị trùm đầu trước khi được đưa ra một đoàn xe đa năng màu xanh đang chờ bên ngoài. Mười phút sau, đoàn xe dừng lại. Trước khi cái mũ chụp đầu nặng nề ấy được gỡ bỏ, Roussard có thể nhận ra tiếng động cơ phản lực gào xé. Trên mặt nhựa đường đẫm nước mưa, trước khi được tháo còng, đám tù nhân nhìn lên, thấy một chiếc Boeing 727 khổng lồ. Một cái thang cuộn lên một bên chiếc phi cơ và khoang cửa mở rộng. Chẳng ai nói một lời, nhưng dựa vào thái độ của những người lính – dường như họ được lệnh đứng cách xa chiếc máy bay – Roussard đi đến một kết luận sáng suốt. Dù không được lệnh, Roussard cứ tiến một bước về phía trước. Không thấy người lính nào ngăn cản, hắn tiến lên bước nữa, rồi bước nữa, cho tới khi chân chạm vào bậc thang kim loại đầu tiên và hắn bắt đầu trèo lên. Hắn sắp có cơ hội được cứu. Chỉ đến cuối cùng hắn mới biết. Thấy tiếng các tù nhân khác chạy rầm rập ở lối đi phía sau mình, Roussard thận trọng bước vào cabin. Người hắn gặp đầu tiên trên máy bay là một sĩ quan, anh ta so sánh hắn với một tấm ảnh trên bìa kẹp hồ sơ, rồi rút ra một cái phong bì đen nặng nề, anh ta nói, “Chúng tôi được lệnh đưa anh cái này”. Trước đó, Roussard đã từng nhận được những phong bì giống thế này. Dù không mở ra, hắn cũng biết ai gửi nó tới. “Mời anh ngồi vào chỗ,” viên sĩ quan đầu tiên tiếp lời. “Cơ trưởng đang nóng lòng muốn cất cánh.” Roussard tìm thấy một chỗ trống gần cửa sổ và thả mình vào đó. Khi cánh cửa khoang chính đóng lại, một số thành viên phi hành đoàn biến mất về phía đuôi máy bay và quay lại mang theo những thiết bị y tế kì cục cùng một số đồ làm lạnh bằng nhựa to. Chẳng điều gì có ý nghĩa với Roussard cho tới khi hắn mở chiwwcs phong bì và đọc nội dung bên trong. Một nụ cười từ từ hiện lên trên khuôn mặt. Thế alf xong. Không những đã được tự do, mà người Mỹ còn không thể theo đuổi được hắn nữa. Hắn sắp được trả thù – và nhanh hơn rất nhiều so với hắn tưởng. Mở cánh cửa sổ ra, Roussard có thể nhìn thấy đám lính đang trèo trở lại những chiếc xe đa năng và lái ra khỏi đường bay, một số giơ tay ra ngoài cửa sổ và giơ ngón giữa ra chào một cách mỉa mai. Khi động cơ của chiếc máy bay bắt đầu rú lên và con thú to lớn bỗng chồm mình về phía trước, phía mũi máy bay vang lên những tiếng vui mừng “Allahu Akbar”, thánh Ala vĩ đại. Thánh Ala vĩ đại thật đấy, nhưng Roussard biết chẳng phải Người đã thu xếp vụ phóng thích này. Và khi nhìn vào chiếc phong bì màu đen, hắn biết rằng họ phải cảm ơn một người nào đó ít nhân từ hơn Người nhiều. Tập trung chú ý về phía cửa sổ nơi những người lính đang nhanh chóng khuất khỏi tầm nhìn, Roussard gõ gõ ngón trỏ và ngón cái, lấy mục tiêu và đẩy cò súng tưởng tượng. Giờ đây, khi đã được tự do, hắn biết rằng, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi người quản lý để hắn tự do trong lòng nước Mỹ để báo thù. ... Mời các bạn đón đọc Không Khoan Nhượng của tác giả Brad Thor.
Địa Đồ Di Cốt - James Rollins
Là bậc thầy của loại tiểu thuyết bán chạy, James Rollins đã cho ra mắt một cuốn sách hấp dẫn đến nghẹt thở trong từng trang viết – một tác phẩm văn học độc đáo mô tả âm mưu làm sống lại một kế hoạch từ thuở xa xưa, hòng tạo ra một trật tự thế giới mới khủng khiếp từ tro tàn của nền văn minh hiện đại. Tội ác này thật tàn độc mà những hệ quả khủng khiếp của nó con người chưa từng nghĩ đến và cũng không thể tránh được. Trong một buổi hành lễ tại nhà thờ Cologne, nước Đức, một nhóm vũ trang khoác áo thầy tu đã dựng nên một cơn ác mộng bằng máu cùng nỗi sợ hãi, chúng lạnh lùng xả súng bắn chết tất cả người đi lễ và ling mục. Những kẻ sát nhân đến không phải để cướp đi một tác phẩm nghệ thuật độc đáo bằng vàng mà là một báu vật vô giá cất giấu bên trong: Di cốt của ba vị Tiên tri, những người đã từng đến viếng đức chúa Hài đồng. Khi tẩu thoát khỏi nơi gây ra tội ác, bọn chúng đã mang đi thứ báu vật có thể định hình lại cả thế giới. Vatican ở trong cơn hoảng loạn. Không tổ chức cảnh sát nào một mình có thể xử lý được vụ cướp và thảm sát kỳ quặc này… Rồi, với sự tham gia của lực lượng Sigma – một nhánh công khai gồm các chuyên gia tinh nhuệ Mỹ – đã được điều động dưới sự chỉ huy của Grayson Pierce. Dù là người mới gia nhập Sigma, nhưng Pierce đã tập hợp được quanh mình một ê-kíp gồm các điệp viên khoa học và lực lượng đặc biệt để gỡ bỏ màn bí mật về chỗ di cốt bị đánh cắp, cùng nhau đi suốt một chặng đường quanh co đầy chông gai với tầng tầng lớp lớp dấu vết và sự thật đen tối để cuối cùng đưa họ tới bảy kỳ quan thế giới… Tập hợp các đệ của thuyết giả kim và các tên sát nhân, những kẻ vạch chiến lược bậc thầy của Long Đình đã lập ra kế hoạch để biến chỗ di cốt thiêng liêng đó hòng thay đổi tương lai của cả nhân loại vốn chỉ có những đầu óc bẩn thỉu và điên rồ nhất mới có thể nghĩ ra… bọn chúng không từ bỏ điều gì, sẵn sàng loại bỏ bất cứ ai ngăn đường chúng. Rồi bỗng nhiên, Pierce, Verona và cả nhóm Sigma từ những người đi săn trở thành kẻ bị săn đuổi, buộc phải sử dụng mọi năng lực vốn có để có thể sống sót trong khi bám đuổi dấu vết chỗ di cốt hòng đến được cuộc đối đầu cùng giữa bóng tối và ánh sáng ở một nơi bị lịch sử quên lãng, nơi mà khoa học và tôn giáo hợp lại để gieo rắc nỗi kinh hoàng chưa từng có trong kỷ nguyên loài người. Một tiểu thuyết bậc thầy gồm cả sự huyền bí đầy hấp dẫn của Mật mã Da Vinci với lối hành văn hấp dẫn của tiểu thuyết gia trinh thám kiểu Tom Clancy, “Địa đồ di cốt” của James Rollins được đánh giá là một cuốn tiểu thuyết kinh điển. *** Lời Tác Giả Thân tặng Alexandra và Alexander,cầu chúc cho cuộc sống của họ sáng lấp lánh-như những vì sao Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi đã được rất nhiều người giúp đỡ từ bạn bè, gia đình, nhà phê bình, thủ thư, linh mục, nhân viên du lịch đến các cô bảo mẫu. Lời đầu tiên, tôi xin được cảm ơn Carolyn McCray, người đã đọc mỗi trang sách tôi viết ra trước tất cả mọi người và Steve Prey vì những ý tưởng và những điều phâ tích của ông đã hình thành nên một tác phẩm qua những trang viết này. Và tất nhiên, tôi hân hạnh được ghi danh những người bạn vẫn gặp nhau hàng tuần ở khách sạn Rocco như Jury Prey. Chris Crowe, Michael Gollowglas, David Murray, Dennis Grayson, Dave Meek, Royal Adams, Jane O’Riva, Dan Needles, Zach Watkins và Caroline Williams. Về những giúp đỡ liên lạc đến ngôn từ, tôi xin được chân thành cảm ơn người bạn tốt từ Great White North, Diane Daigle. Xin đặc biệt cảm ơn David Sylvian vì năng lực, nhiệt tình cũng như sự ủng hộ vô tận của ông và Suzan Tunis, người đã giúp tôi kiểm chứng mọi điều với sự nhẫn nại. Để có được niềm hứng khởi viết cuốn sách này, tôi đặc biệt đánh giá cao các tác phẩm của ngài Laurence Gardner và những khảo sát sơ đồ của David Hudson. Cuối cùng là bốn người mà tôi kính trọng vì tình bạn cũng như sự tư vấn của họ. Đó là người chủ biên của tôi, Lyssa Keusch và đồng nghiệp của bà. May Chen, người đại diện của tôi. Russ Galen và Danny Baror. Cũng như mọi lần, tôi thấy cần nhấn mạnh rằng nếu có bất kỳ hoặc tất cả mọi sai lệch về sự kiện hay chi tiết đều do tôi gánh chịu. Độ chính xác của bất cứ sự hư cấu nào cũng chỉ phản ảnh những sự việc được nêu ra. Do vậy, sự thật có thể đôi khi còn kỳ lạ hơn cả hư cấu lại phải có cơ sở của sự thật. Về điểm này, tất cả tác phẩm mỹ thuật, di tích và báu vật được mô tả trong cuốn sách này là thật. Con đường lịch sử được mô tả ở các trang dưới đây là chính xác. Khoa học là tâm điểm của cuốn tiểu thuyết được dựa trên những nghiên cứu và phát hiện đương thời James Rollins Di vật lịch sử được trao cho Rainald von Dassel, Tổng giám mục địa phận Cologne (1159 -67), sau khi vua Barbarossa cướp bóc thành phố Milan. Báu vật vô giá đó được ban cho vị Tổng giám mục người Đức do ngài đã giúp đỡ và dìu dắt nhà vua đang trị vì. Chả có ai vui lòng khi thấy báu vật này rời khỏi đất nước Italy … mà không có sự giành giựt nào Trích từ cuốn Lịch sử Vương triều La mã, 1845 Mời các bạn đón đọc Địa Đồ Di Cốt của tác giả James Rollins.
Hóa Thân - Franz Kafka
Hóa Thân chính là một tập sách mỏng hiếm hoi mang đậm những suy tư, đau đáu của tác giả Franz Kafka về thân phận con người trong xã hội hiện đại đầy phi lý, vô thường thời ấy. Nó tạo nên trong độc giả nỗi ám ảnh sâu sắc qua nhiều tầng ý nghĩa quá đỗi bất ngờ mà vô cùng tinh tế. Và, cho phép tôi, gọi đây là một kiệt tác! Dù ra đời vào năm 1915, hơn một thế kỉ trước, nhưng tác phẩm Hoá Thân của nhà văn nổi tiếng Franz Kafka vẫn giữ một vị thế quan trọng, được nhiều độc giả hiện đại đón nhận và yêu mến. Bằng giọng văn bình thản đến lạnh lùng, câu từ ngắn gọn đến sắc lẹm, Franz Kafka đã khéo léo gợi nên những cảm xúc một cách tinh tế, không màu mè, không gắng gượng. Ngay cái cách bỏ qua việc miêu tả tâm lí nhân vật cũng là một chủ ý thiên tài của ông trong việc nói lên cái thực tại của một xã hội mà đồng tiền lên ngôi, con người ta chỉ cần đến nhau vì tiền bạc mà không hề bận tâm đến những cảm xúc, những tổn thương của người khác. *** Một sáng tỉnh giấc băn khoăn, Gregor Samsa nằm trên giường thấy mình biến thành một côn trùng khổng lồ. Lưng anh rắn như thể được bọc kín bằng giáp sát, anh nằm ngửa dợm nhấc đầu lên và nhìn thấy bụng mình khum tròn, nâu bóng, phân chia làm nhiều đốt cong cứng đờ; tấm chăn bông đắp trên bụng đã bị xô lệch, gần tuột hẳn. Chân anh nhiều ra, mảnh khảnh đến thảm hại so với phần còn lại của thân hình to đùng, vung vẩy bất lực trước mắt anh. “Mình làm sao thế này? - anh nghĩ thầm. - Đây đâu phải chiêm bao. Vẫn là gian phòng yên tĩnh của anh giữa bốn bức tường quen thuộc; một phòng ngủ bình thường trong thế giới loài người, chỉ có điều hơi nhỏ hẹp mà thôi. Bên trên chiếc bàn bày đầy những mẩu vải vóc quảng cáo đủ loại - Samsa làm nghề chào hàng - vẫn còn treo bức tranh mà gần đây anh đã cắt ra t một tờ họa báo và đem chưng trong một chiếc khung mạ vàng xinh xắn. Tranh vẽ một người đàn bà đội mũ lông thú, quàng khăn lông thú, ngồi thẳng người và phô ra cho khách chiêm ngưỡng một chiếc bao tay to tướng bằng lông thú phủ kín đến tận khuỷu.” Rồi Gregor đưa mắt nhìn qua vuông cửa sô; những giọt mưa lộp độp rơi trên máng xối; và bầu trời âm u vần vũ ngoài kia khơi dậy trong anh một nỗi sầu khắc khoải. “Chắc mình nên ngủ nán thêm tí nữa cho quên luôn cái chuyện vô lí này đi”, anh ngẫm nghĩ, nhưng không sao ngủ được, vì anh vốn quen nằm nghiêng bên phải khi ngủ và trong tình cảnh hiện giờ anh không thể nào trở mình được. Tha hồ cho anh ráng hết sức xoay nghiêng sang phải, lần nào anh cũng bật ngửa trở lại. Nhắm nghiền mắt để khỏi nhìn thấy những cặp chân đang vùng vẫy, anh thử đi thử lại cả trăm lần và chỉ bỏ cuộc khi anh bắt đầu cảm thấy ở mạng sườn cơn đau âm ỉ, mơ hồ chưa từng nếm trải. “Lay chúa, - anh nghĩ. - Mình chọn chi cái nghề quá đỗi nhọc nhằn này! Chạy rông hết ngày này sang ngày khác. Một công việc thật còn khó chịu hơn cả chuyện bán buôn ở cửa hàng và bực mình nhất đời là cứ phải liên tục di chuyển, cứ phải lo lắng chuyện đổi tàu, chuyển ga, ăn uống thất thường, gặp đâu ngủ đấy, lúc nào cũng phải làm quen với những kẻ tình cờ gặp gỡ để rồi không bao giờ thấy mặt lần thứ hai, không bao giờ trở thành bạn hữu thân tình. Quỷ bắt cái nghề này đi! Anh cảm thấy hơi ngứa ở bụng, vẫn nằm ngửa, anh từ từ nhích lại gần đầu giường để có thể nhấc cao đầu dễ dàng hơn, anh xác định được chỗ ngứa bao quanh bởi nhiều đốm trắng nho nhỏ mà anh không hiểu là gì. Anh vươn một chân thử chạm vào đó nhưng rụt phắt lại ngay vi sự tiếp xúc ấy khiến toàn thân anh rùng mình ớn lạnh. Anh lại tụt về vị trí ban đầu. “Dậy sớm như thế này làm cho người ta đâm ra đần độn, - anh nghĩ thầm. - Con người cần phải ngủ đẫy giấc chứ. Mấy tay chào hàng ở hãng khác thì sống như cung tần mĩ nữ. Chẳng hạn mình chạy suốt sáng, quay lại khách sạn để ghi sổ các đơn đặtấy chúng mới ngồi vào bàn điểm tâm. Mình mà thử giở cái cung cách như chúng xem? Lão chủ sẽ tống cổ mình ra khỏi hãng ngay lập tức! Nhưng biết đâu điều đó lại tốt cho mình thì sao? Nếu không vì bố mẹ mà chịu nhịn nhục thì mình đã bỏ việc luôn từ lâu rồi: đã đi thẳng đến lão chủ, nói toạc vào mặt cho lão biết mình nghĩ gì về lão. Thế thì lão ắt ngã lộn đầu từ trên bàn xuống đất! A, còn cái lối lão ngồi thượng trên bàn giấy mà phán lệnh xuống cho nhân viên cũng thật là dị hợm quá chừng, nhất là khi các nhân viên phải xán lại thật gần lão để trả lời bởi vì ông chủ này lãng tai! Hừ, dù sao cũng còn hi vọng; một khi mình đã dành dụm đủ trả hết món tiền bố mẹ mình thiếu nợ lão ta - chắc cùng phải mất năm, sáu năm nữa -  nhất định mình sẽ làm thế. Lúc đó mình sẽ hoàn toàn cắt mọi dây dợ ràng buộc. Còn bây giờ, ôi chao, mình phải dậy ngay, kẻo trễ chuyến tàu năm giờ.” Anh nhìn chiếc đồng hồ báo thức đang tích tắc trên đầu tủ. “Trời đất ơi! - anh hốt hoảng. - Đã sáu giờ rưỡi rồi, và những chiếc kim đồng hồ vẫn lầm lì chuyển động; thậm chí đã gần bảy giờ kém mười lăm rồi chứ có phải sáu rưỡi nữa đâu. Chẳng lẽ đồng hồ không réo chuông ư? Nằm trên giường anh vẫn nhìn rõ chiếc kim báo thức đã được vặn đúng vào số bốn trên mặt đồng hồ: dĩ nhiên là chuông có reo chứ. Đúng, nhưng nếu vậy thì làm sao anh có thế ngủ yên với hồi chuông inh tai nhức óc ấy? Chà, anh nào có được ngủ yên đâu, chỉ là một giấc mơ mệt quá đấy thôi. Còn bây giờ anh phải làm sao đây? Chuyến tàu kế tiếp sẽ khởi hành lúc bảy giờ, muốn đón kịp chuyến tàu ắt hẳn anh phải vội như điên, thế mà các mẫu hàng chưa được gói ghém còn bản thân anh thì chẳng thấy mình sảng khoái, hoạt bát gì mấy. Và cho dù có đón kịp chuyến tàu, anh cũng không thể nào tránh khỏi lôi thôi với lão chủ, bởi vì tên loong toong ở cửa hàng ắt đã tính đợi anh đến bằng chuyến tàu năm giờ và từ lâu hẳn là đã báo cho lão chủ biết sự vắng mặt của anh rồi. Cái tên loong toong ngu xuẩn và chán ngắt này là tay sai của lão chủ. À, hay là anh sẽ viện cớ ốm đau nhỉ? Không được, đó là một cáớ phiền toái nhất hạng, lại đáng nghi ngờ nữa vì suốt năm năm làm việc anh chẳng hề đau yếu lấy một ngày. Lão chủ chắc chắn sẽ đích thân đến tận nhà anh cùng với bác sĩ của quỹ tương tế bệnh viện, sẽ trách cứ bố mẹ anh vì thằng con lười biếng, và sẽ cắt đứt mọi lí do bào chữa bằng cách viện đến sự giám định của bác sĩ bảo hiểm đau bệnh, cha này tất nhiên coi toàn thể nhân loại là những tên lười nhác hoàn toàn khỏe mạnh giở quẻ đổ bệnh mà thôi. Và giá hắn có nói thế trong trường hợp này thì phỏng có sai gì lắm?” Thực tế, Gregor cảm thấy rất khỏe khoắn, chỉ hơi buồn ngủ, một điều quả thực là hơi lạ sau một giấc ngủ dài đến thế, và thậm chí anh lại còn đói bụng khác thường nữa chứ. Trong lúc tất cả những ý nghĩ đó vùn vụt lướt qua tâm trí mà anh còn phân vân chưa quyết định rời khỏi giường - đồng hồ vừa điểm bảy giờ kém mười lăm - thì có người thận trọng gõ vào cánh cửa phía đầu giường anh nằm. ... Mời các bạn đón đọc Hóa Thân của tác giả Franz Kafka.