Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người quân tử) - Quyển hạ

Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa. Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ.

Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa.

Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ.

Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức. Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng. Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy. Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.

Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức.

Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng.

Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy.

Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.

Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất. Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành. (Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.

Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất.

Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành.

(Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

HOÀNG ĐẾ NỘI KINH - NGUYỄN ĐỒNG DI
"Hoàng Đế Nội Kinh" là loại sách y học, tùng thư, tự thuật khoa y học ở thời thượng cổ ra đời sớm nhứt thế giới, cách đây trên bốn ngàn sáu trăm năm. Sách này chia ra làm hai phần:Phần đầu thuộc về nguyên tắc của Sách Linh Khu, luận về Giải Phẫu Học và Châm Cứu Học.Phần sau thuộc về nguyên tắc của sách Tố Vấn, luận về Sinh Lý Học, Bịnh Lý Học và Chẩn Đoán Học. Đại khái, nội dung của toàn bộ HOÀNG ĐẾ NỘI KINH chỉ chú trọng trên học thuyết, chuyên luận về NGUYÊN TẮC TRỊ LIỆU, mà không đề cập đến PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU. Lấy sự động biến đổi lập của hai khí âm dương, hỗ tương sinh trưởng, hỗ tương hủy diệt của Ngũ Hành và hiện tượng SINH, TRƯỞNG, THU, TÀNG, tân trần đại tạ của bốn mùa làm biện chứng cho luận thuyết - Đề cập đến vấn đề vệ sinh và miễn dịch thì chú trọng trên TINH THẦN VỆ SINH và TÂM LÝ MIỄN DỊCH. Cứu cánh lại lấy phương pháp điều tiết liệu năng làm cơ bản lập luận.Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH tuy đáng quý thật nhưng vì văn chương cổ áo mà lại ra đời quá sớm, trải qua rất nhiều thời đại nên không tài nào tránh khỏi cái nạn "tam sao thất bổn" và người sau đem ý kiến riêng của mình phụ hội vào, khiến cho ngọc đá xô bồ, vàng thau lẫn lộn...Nếu không chọn lọc lại cẩn thận, xưa sao nay vậy, cứ ôm trọn cả bộ sách tối cổ điển kia ra làm Sách Đông Y Giáo Khoa, bắt kẻ học phải ăn tươi nuốt sống, thì nhất định không tài nào tiêu hóa nổi. Kẻ học không lĩnh hội nổi cũng là việc thường, thậm chí có nhiều chỗ người dạy cũng không biết đường nào mà giảng giải.Sách HOÀNG ĐẾ NỘI KINH hoàn thành trên một tư tưởng nhất quán, tổ chức trên một học thuyết hoàn bị, là nền tảng văn hóa học thuật của Đông Y, là kinh điển y gia, cũng như Ngũ Kinh, Tứ thư của Nho gia, Đạo đức knh của Đạo gia vậy. Thế nên người đời sau muốn biên soạn các loại Y thơ xây dựng thêm những tòa lâu đài mới cho Đông Y, tất phải xây dựng trên nền tảng này (Nội Kinh), muốn nghiên cứu Y học cũng phải nghiên cứu theo học thuyết này (Nội Kinh). (Trích dẫn trong LỜI NÓI ĐẦU của Nguyễn Đồng Di - Đông Y Sĩ - Đầu mùa xuân năm Canh Tuất 1970).
Bí ẩn của Bát Quái
Bí Ẩn Của Bát Quái - Kinh Dịch Nhân sinh Quyết Sách Chỉ Nam Đại điển tích văn hoá Trung Hoa. Văn hóa Trung Hoa không chỉ nổi tiếng vì lâu đời, phong phú, mà còn được người Trung Quốc và nước ngoài ngưỡng mộ vì tính chất thần bí sâu đậm của nó. Nói thần bí, là bởi nó có ý thần kỳ và bí ẩn. Những thứ liên quan đến tam hoàng ngũ đế, hậu phi thê thiếp, thái giám ngoại thích, thuật sĩ thầy đồng, ẩn sĩ tiên nhân, thiện nam tín nữ... đều là văn hóa thần bí.Bất cứ văn hoá nào, do đặc tính của nó, đều có chỗ đứng nhất định. Văn hoá thần bí Trung Hoa là một phần quan trọng của nền văn hoá Trung Hoa, so với văn hoá tao nhã lấy Nho học làm hạt nhân, văn hoá thần bí là văn hoá đời thường; so với văn hoá quan trường khoa cử, nó là văn hoá đại chúng; so với văn hoá chính thống do các nhà cầm quyền đề xướng qua các thời đại, nó là văn hoá tiềm tàng; so với văn hoá hiện đại của nền đại công nghiệp, nó là văn hoá truyền thống; so với nền văn hoá phương tây, nó là văn hoá bản địa. Bất cứ văn hoá nào, do đặc tính của nó, đều có chỗ đứng nhất định. Văn hoá thần bí Trung Hoa là một phần quan trọng của nền văn hoá Trung Hoa, so với văn hoá tao nhã lấy Nho học làm hạt nhân, văn hoá thần bí là văn hoá đời thường; so với văn hoá quan trường khoa cử, nó là văn hoá đại chúng; so với văn hoá chính thống do các nhà cầm quyền đề xướng qua các thời đại, nó là văn hoá tiềm tàng; so với văn hoá hiện đại của nền đại công nghiệp, nó là văn hoá truyền thống; so với nền văn hoá phương tây, nó là văn hoá bản địa.Trong vài năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta bước vào thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, một số hiện tượng mê tín dị đoan, có một thời tạm lắng xuống, nay lại có dấu hiệu xuất hiện trở lại.Đâu đó, những cuốn sách in trái phép như: Tử vi, Tướng số, Lịch vạn sự, Xem tướng tay tướng mặt,… được lén lút bày bán.Kinh nghiệm cho thấy, để chốt lại có hiệu quả những tàn tích của văn hóa lạc hậu, cần phải xây dựng một nền văn hóa văn minh, khoa học và tiến bộ.Với mục đích trên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin cho ra mắt bạn đọc bộ sách Đại Điển Tích Văn Hóa Trung Hoa . Trong bộ sách này, các tác giả – những học giả lớn của Trung Quốc đương đại – đã trình bày một cách có hệ thống những nghiên cứu công phu về những hiện tượng văn hóa mang tính chất thần bí sâu đậm. Bằng việc vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với thái độ khách quan khoa học, các tác giả đã chỉ ra những yếu tố hợp lý cấn kế thừa trong số các kinh nghiệm và tri thức của người xưa để lại trong các thuật Phong thủy, Trạch cát, Quyền mưu, Chiêm tinh, Chiêm mộng,… đồng thời cũng chỉ ra các điểm vô lý mê tín dị đoan, các lý luận mâu thuẫn và phản khoa học trong các thuật đó.Đại Điển Tích Văn Hóa Trung Hoa
Bí ẩn của Phong thủy - Vương Ngọc Đức
Trong vài năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta bước vào thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, một số hiện tượng mê tín dị đoan, có một thời tạm lắng xuống, nay lại có dấu hiệu xuất hiện trở lại. Trong vài năm gần đây, nhất là từ khi chúng ta bước vào thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường, một số hiện tượng mê tín dị đoan, có một thời tạm lắng xuống, nay lại có dấu hiệu xuất hiện trở lại. Đây đó, những cuốn sách in trái phép như: Tử vi, Tướng sở, Lịch vạn sự, Xem tướng tay tướng mặt... được lén lút hay hán. Đây đó, những cuốn sách in trái phép như: Tử vi, Tướng sở, Lịch vạn sự, Xem tướng tay tướng mặt... được lén lút hay hán.Kinh nghiệm cho thấy, để chống lại có hiệu quả những tàn tích của văn hoá lạc hậu, cần phải xây dựng một nền văn hoá văn minh, khoa học và tiến bộ. Với mục đích trên Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin cho ra mắt bạn đọc phản Văn hóa Thần bí Trung Hoa trọng bộ “ĐẠI ĐIỂN TÍCH VĂN HÓA TRUNG HOA". Với nội dung trên, các tác giả - những học giả lớn của Trung Quốc đương đại - đã trình bày một cách có hệ thống những nghiên cứu công phu về những hiện tượng văn hoá mang tính chất than bị sâu đậm. Bằng việc vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với thái độ khách quan khoa học, các tác giả đã chỉ ra những nhân tổ hợp lý cán kế thừa trong số các kinh nghiệm và tri thức của người xưa để lại trong các thuật Phong thủy, Trạch cát, Quyền ma, Chiêm tinh, Chiêm mộng đồng thời cũng chỉ ra các điểm vô lý mê tín dị đoan, các lý luận mâu thuẫn và phản khoa học trong các hiện tượng đó. Kinh nghiệm cho thấy, để chống lại có hiệu quả những tàn tích của văn hoá lạc hậu, cần phải xây dựng một nền văn hoá văn minh, khoa học và tiến bộ.Với mục đích trên Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin cho ra mắt bạn đọc phản Văn hóa Thần bí Trung Hoa trọng bộ “ĐẠI ĐIỂN TÍCH VĂN HÓA TRUNG HOA". Với nội dung trên, các tác giả - những học giả lớn của Trung Quốc đương đại - đã trình bày một cách có hệ thống những nghiên cứu công phu về những hiện tượng văn hoá mang tính chất than bị sâu đậm.Bằng việc vận dụng các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, với thái độ khách quan khoa học, các tác giả đã chỉ ra những nhân tổ hợp lý cán kế thừa trong số các kinh nghiệm và tri thức của người xưa để lại trong các thuật Phong thủy, Trạch cát, Quyền ma, Chiêm tinh, Chiêm mộng đồng thời cũng chỉ ra các điểm vô lý mê tín dị đoan, các lý luận mâu thuẫn và phản khoa học trong các hiện tượng đó.
THÁI ẤT DỊ GIẢN LỤC (THẦN CƠ DỊ SỐ) - LÊ QUÝ ĐÔN
Sách Thái Ất, tương truyền do Thái Công đời Chu và Lưu Hầu đời Hán làm ra.Sách Thái Ất, tương truyền do Thái Công đời Chu và Lưu Hầu đời Hán Xem Thái Ất có 4 phép xem. Xem Thái Ất có 4 phép xem. Một là Tuế Kế: để xem sự lành hay dữ của quốc gia. Đó là việc của vua và hoàng hậu làm, để sáng chính hóa, sửa đức giáo, xét cơ động, tĩnh. Một là Tuế Kế: để xem sự Hai là Nguyệt Kế: dể xem lành hay dữ. Đó là bậc công khanh xem, để xét hiện được hay mất mà điều hòa sự hòa hay trị.Ba là Nhật Kế: để đo lường họa phúc trong nhân gian sử dụng cho mọi người, để xét lớn hay nhỏ, hưng hay suy; để cư xử ăn ở đúng với Tam Cương, đủ với ngũ luânBa là Nhật Kế: để đo lường họa phúc trong nhân gian sử Bốn là Thời Kế: để vận trù mưu kế, sách lược; xác định về chủ, khách, tháng, thua; Đó là bác tướng soái phải rò; Phàm thiên văn đổi khác, các nước xung quanh động hay.tĩnh; thế trận hai bên phải có tương đương hay không, xã hội bình thường hay có giặc cướp, đều dùng Thời Kế mà xem.Lê Quý Đôn