Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khuôn Mặt Người Khác

Mặt, xét cho cùng, là vẻ biểu cảm của nó. Mà vẻ biểu cảm, đó là một loại phương trình biểu thị mối quan hệ với những người khác. Đấy là con đường mòn liên kết ta với người. Nếu con đường đó bị vùi lấp thì ngay cả những người gắng tìm cách đi trên con đường đó cũng sẽ đi ngang qua trước nhà ta như đi ngang qua một chốn hoang phế không người. Nếu không kịp thời dọn quang con đường mòn thì cuối cùng người ta sẽ quên rằng đã từng có con đường đó.  Tâm hồn con người được bọc trong một bộ da. Người ta bị mất tay mất chân, bị hỏng mắt là chuyện bình thường. Người bị thương bận tâm đến cái gì nhiều nhất? Không phải là tính mạng, không phải là sự phục hồi các chức năng của cơ thể, không. Điều làm họ băn khoăn trước hết là có giữ được cái hình dạng trước đây hay không. Nếu như trong Người đàn bà trong cồn cát (1962), cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình, Kobo Abe viết bằng giọng văn xuôi đơn giản; thì Khuôn mặt người khác (1964) giọng văn đã trở nên phức tạp hơn bởi nhiều câu hỏi được đặt ra. Nếu như nhân vật chính của Người đàn bà trong cồn cát chỉ đơn giản là cố gắng để trốn thoát; thì nhân vật chính của Khuôn mặt người khác là cố gắng để tìm thấy chính mình và để đánh mất mình, và cố gắng tìm mọi cách để sống trong một xã hội mà dường như đã từ chối anh ta! Với Khuôn mặt người khác, Kobo Abe đã cố gắng để đối phó với các vấn đề lớn của bản sắc và cá tính trên quy mô quốc gia, bằng cách tập trung vào miêu tả một người đàn ông không tên. Anh là chủ nhiệm một phòng nghiên cứu hóa chất cao phân tử tại một viện khoa học. Trong lúc thí nghiệm đã xảy ra vụ nổ oxy lỏng, khuôn mặt bị biến dạng với những sẹo lồi, rất may là không ảnh hưởng gì đến mắt vì anh đeo kiếng. Bề ngoài, anh cố giữ được vẻ bình thản với khuôn mặt bị hủy hoại, nhưng đó chỉ là sự giả tạo. Trong anh luôn bùng nổ những cơn bão của tâm trạng dằn vặt, suy tư dữ dội, luôn đau khổ và mặc cảm, hoài nghi ở thái độ mọi người đối với bộ mặt kỳ dị của mình. Anh nghi ngờ cả sự gần gũi chăm sóc của người vợ vẫn chung sống cùng anh sau khi anh bị tai nạn. Và, mối quan hệ của anh với người vợ cũng bị biến dạng! Âm thầm và kiên trì bền bỉ, anh đã nghiên cứu chế tạo thành công bộ mặt nạ hoàn toàn giống mặt người, có khả năng biểu cảm linh hoạt như gương mặt thật. Anh giữ bí mật sự việc và nuôi dưỡng ý định dùng bộ mặt nạ thử thách tình yêu của vợ mình. *** Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình  cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn  phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách . Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki  (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe  được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Những tác phẩm chính: Người đàn bà trong cồn cát (1963), Khuôn mặt người khác (1964), Người hộp (1973) Cái Kén Đỏ Chiếc thuyền Nô-Ê Bọn Chiếm Đóng Và một số và kịch. Khuôn mặt người khác là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu cho những đặc điểm các tác phẩm của Kōbō Abe. *** Thế là em đã vượt qua được cái mê cung rắc rối mà tìm đến. Tin ở cái kế hoạch mà anh ta gửi cho em, rốt cuộc em đã đến chỗ trú ẩn này. Chân bước rụt rè, em lên cái cầu thang cót két như bàn đạp cỗ đàn ooc-gơ. Căn phòng đây rồi. Nín thở, em gõ cửa, chẳng hiểu sao không có tiếng đáp. Thay cho tiếng đáp, một cô bé nhảy tâng tâng như con meo con chạy tới mở cửa cho em. Em gọi cô bé, toan hỏi xem người ta có nhắn gì cho em không, nhưng cô bé chẳng trả lời gì cả, chỉ mỉm cười và chạy đi. Em cần anh ta, thế là em ngó vào cửa. Nhưng em không thấy anh ta, không thấy một cái gì nhắc nhở đến anh ta, một căn phòng chết, trong đó tinh thần hoang phế đang lượn lờ. Cảnh tượng bức tường mờ đục khiến em giật mình. Em toan đi, tuy cảm thấy mình có lỗi, thì mắt em chợt bắt gặp ba quyển vở nằm trên bàn, bên cạnh là một bức thư. Đến đây em chợt hiểu ra rằng thế là em đã sa vào bẫy. Mặc dù lúc ấy những ý nghĩ hết sức cay đắng giày vò em, nhưng sự cám dỗ không thể nào cưỡng lại được. Hai tay run run, em xé phong bì và bắt đầu đọc thư... Chắc là em tức giận, chắc là em oán trách. Nhưng anh sẽ chịu đựng được cái nhìn của em, cái nhìn đàn hồi như chiếc lò xo kéo căng, và dù thế nào đi nữa anh vẫn cứ muốn em tiếp tục đọc. Anh không có hy vọng gì rằng em sẽ vượt qua được mấy phút đó một cách êm đẹp, và sẽ bước một bước về phía anh. Anh bị anh ta tiêu diệt hay anh ta bị anh tiêu diệt, cách nào chăng nữa thì màn của vở bi kịch những chiếc mặt nạ đã hạ xuống. Anh đã giết anh ta, đồng thời tự nhận mình là kẻ phạm tội và anh muốn thú nhận hết, thú nhận triệt để. Có thể vì em rộng lượng hay ngược lại, anh cũng vẫn cứ muốn em đọc tiếp. Người có quyền xử tử thì có trách nhiệm phải nghe cho hết lời khai của bị cáo. Còn nếu chỉ quay lưng lại với anh, kẻ đang quỳ gối trước em đây, thì liệu em có khỏi bị nghi oan là tòng phạm không? Thôi được, hãy ngồi xuống, cứ coi như em đang ngồi nhà. Nếu không khí trong phòng tù hãm thì mở cửa sổ ra. Ấm chén uống trà, nếu cần em lấy ở bếp. Hễ khi nào em bình tĩnh ngồi xuống thì nơi trú ẩn giấu kín ở cuối mê lộ này sẽ biến thành tòa án. Trong lúc em xem lời khai, để cho phần cuối tấn bi kịch của những chiếc mặt nạ càng có vẻ xác thực hơn, anh sẵn lòng chờ lâu thế nào cũng được, trong lúc chờ đợi, anh vá những chỗ thủng trên tấm màn sân khấu, vả lại, chỉ riêng việc hồi tưởng lại những chuyện đó cũng khiến anh không cảm thấy chán ngán. Vậy thì ta sẽ trở lại sự việc vừa mới xảy ra với anh, ba ngày trước cái thời điểm mà đối với em là “lúc này”: Đêm ấy, gió lẫn với trận mưa dường như có hòa tan mật ong làm cửa sổ rung lên thảm thiết. Suốt ngày anh đổ mồ hôi, thế mà khi mặt trời lặn, anh bỗng muốn sưởi ấm bên ngọn lửa. Các báo viết rằng trời sẽ lạnh trở lại, nhưng ngày đã trở nên dài hơn, chẳng làm sao lẩn tránh được thực tại đó và cứ một cơn mưa tạnh là đã cảm thấy ngay sự hiện diện của mùa hè. Chỉ cần nghĩ đến điều đó là tim anh bắt đầu phập phồng lo lắng. Ở tình trạng hiện nay, anh giống như một vật bằng sáp bất lực trước cái nóng nực. Chỉ cần nghĩ đến mặt trời chói lòa là da anh phồng rộp cả lên. ... Mời các bạn đón đọc Khuôn Mặt Người Khác của tác giả Kobo Abe.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vẫn Mãi Yêu Anh - Debbie Macomber
“Vẫn mãi yêu anh” của nữ nhà văn Debbie Macomber là cuốn truyện thứ 5 trong bộ tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ, đã được dịch ra hơn 23 thứ tiếng khác nhau, với hơn 100 triệu bản sách đã được bán và được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. Quá khứ có cách để song hành cùng hiện tại, “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng sự tương giao giữa rộng mở và bí ẩn. Lần đầu tiên trong cả series, người đọc thấy mình bị thách thức chứ không chỉ tận hưởng. Bởi khói ám của sự nghi ngờ bỗng nhen nhóm trong không gian tươi tắn thường thấy của Vịnh Cedar. Mọi việc bắt đầu khi những giỏ quà và bưu thiếp nặc danh thình lình xuất hiện một cách khó hiểu trước thềm nhà McAfee. Dò theo dấu vết của sự thách thức, Roy bị dẫn vào miền ký ức, với bao giằng co giữa hiện tại ấm áp và quá khứ chông chênh, với bao trăn trở giữa con người hưởng thụ và con người phấn đấu. “Vẫn mãi yêu anh”, như một dòng sông vừa nhận được thác nguồn bỗng phải đối mặt với một địa thế hiểm nghèo. Liệu Roy có vượt lên được dòng cuồng lưu nguy hiểm mà đầy cám dỗ ấy không? Tập truyện “Vẫn mãi yêu anh” là diễn biến của những va chạm, xung đột và thử thách, để các nhân vật tìm được tình yêu đích thực của mình. Đây còn là một câu chuyện đẹp, sâu sắc và cảm động trong mỗi cửa hàng của hiệu ở vịnh Cedar, khi luôn có bạn mới để gặp, còn những người bạn cũ thì luôn hân hoan chào đón... “Vẫn mãi yêu anh” chứa đựng vừa đủ tình yêu và tiếng cười, nỗi buồn và sự thanh thản của tâm hồn, sự lãng mạn và nồng nàn, thấm đẫm tình cảm gia đình. Người đọc như bị cuốn hút với diễn tiến của câu chuyện khi các nhân vật đi từ nỗi thất vọng cùng cực đến chỗ học cách để mỉm cười lần nữa. Còn những người phụ nữ trong truyện tìm thấy - nếu không phải tình yêu - thì chắc chắn là sự thanh thản trong tâm hồn để sống hạnh phúc mãi mãi về sau ... Cuộc sống với những câu chuyện tại vịnh Cedar thực sự là một thế giới tuyệt diệu, mà tác giả của nó, Debbie Macomber, nữ nhà văn hàng đầu ở thể loại tiểu thuyết dành cho phụ nữ, đã là một người dẫn đường tuyệt vời. Giọng văn tình cảm, lãng mạn và tinh tế của bà là lý do khiến bộ sách được hàng triệu phụ nữ trên thế giới yêu thích và đồng cảm. Cũng giống như các tập truyện khác của “Chuyện tình Vịnh Cedar”, “Vẫn mãi yêu anh” tiếp tục là một câu chuyện đẹp, nhẹ nhàng về về đề tài phụ nữ, trong đó mỗi người có những khát khao yêu thương và có bạn đồng hành, nương tựa lẫn nhau, giúp nhau tìm thấy mục đích sống trong mỗi cuộc đời. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... *** Corrie McAfee đang lo lắng và chị biết rằng Roy, chồng mình cũng vậy. Không biết đó là ai nhỉ? Từ tháng Bảy, thám tửRoy bắt đầu nhận được một loạt các tấm thiệp không đề tên người gửi mà nội dung không hẳn là những lời đe dọa, song rõ ràng nó khiến người nhận phải ăn không ngon ngủ không yên. Đầu tiên là thông điệp được gửi đến văn phòng nói về sự ăn năn hối tiếc. Tiếp theo là một vài thông điệp khác rải rác suốt tuần. Corrie đã đọc kỹ không sót một tấm thiệp nào đến mức chị có thể nhớ nội dung từng chiếc một. Tấm thiệp đầu tiên viết: “Ai cũng có điều gì đó phải ăn năn. Có điều gì anh đã làm và ước mình có thể làm lại không? Hãy nghĩ về điều đó”. Không bao giờ có chữ ký người gửi trên những tấm thiệp này và chúng được gửi rải rác từ các địa điểm khác nhau. Những thông điệp bí ẩn cứ vẩn vơ trong tâm trí chị. Thời gian trôi qua mà vẫn chẳng đi đến đâu, Corrie thấy mình dần chìm vào mông lung, y như hồi mới nhận tấm thiệp đầu tiên, dù bây giờ đã là tháng Mười. Tiếng những giọt cà phê tí tách rơi xuống cốc làm Corrie giật mình, tạm quên những lo âu - chị đưa mắt nhìn qua ô cửa rộng trông ra vịnh Cedar, Washington. Làm thư ký và trợ lý của Roy cũng có cái lợi riêng, nhưng trường hợp này lại có những bất lợi. Có những chuyện không biết lại tốt hơn, và điều đó đúng với Corrie lúc này. Hẳn chị đã không phải thao thức hằng đêm nếu không biết gì về những tấm thiệp bí ẩn kia. Cho dùRoy cố giấu thì chị vẫn có thể biết, vì tấm thiệp mới rồi được đưa tới tận cửa nhà của hai vợ chồng thay vì gửi tới văn phòng như mọi khi. Một buổi tối muộn, có người đã tới tận cửa nhà khi Roy và Corrie đang mời khách dùng cơm tối. Họ mở cửa và thấy có người nào đó đã để một giỏ hoa quả cùng lời nhắn. Một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng Corrie khi chị nghĩ rằng kẻ giấu mặt đã biết nơi ở của hai vợ chồng. “Cà phê đã pha xong chưa em?”. Roy hỏi vọng ra từ trong văn phòng. Tất nhiên chị chưa thể pha xong nhanh như vậy. “Anh chờ chút đi chứ!”. Corrie không muốn gắt với chồng và chị vốn không phải người nóng nảy, song những điều bí ẩn gần đây khiến chị không khỏi bồn chồn. Corrie thở dài, rót cà phê ra tách và mang vào cho Roy, những làn khói bay lên nghi ngút. “Thôi được, chuyện là thế này”, chị vừa nói, vừa đặt tách cà phê lên góc bàn. “Chúng ta cần phải nói chuyện”. Như thể chẳng có gì phải lo nghĩ, Roy dựa vào ghế, tay đan vào nhau, đặt ở sau đầu. Họ đã cưới nhau được 27 năm, cho đến giờ Corrie vẫn thấy Roy hấp dẫn như hồi chị gặp anh ở trường đại học. Hồi đó Roy ở trong đội bóng của trường Đại học Washington và mọi người thường ca ngợi anh là chàng sinh viên của khu ký túc. Anh cao to, vai rộng, cơ bắp săn chắc và dáng người cứng cáp. Corrie cảm thấy hơi ghen tị vì dường như anh luôn giữ được vóc dáng như vậy mà chẳng cần chút nỗ lực kiêng khem gì. Mái tóc đen, mỏng của anh đã điểm bạc, nhưng điều đó càng làm tăng thêm vẻ đạo mạo cho người đàn ông điển trai này. Trong số tất cả những cô gái anh hẹn hò hồi ở đại học, anh đã phải lòng Corrie. Tuy vậy, chưa hề có một cuộc tán tỉnh dễ dãi nào. Họ chia tay hơn một năm và khi quay lại, cả hai đã nhận ra rằng họ yêu nhau và tình cảm của họ bền chặt biết nhường nào. Không lâu sau khi tốt nghiệp, hai người đã kết hôn và sau nhiều năm, tình yêu của họ đã nếm trải đủ cả thử thách lẫn niềm vui hạnh phúc. “Nói về điều gì cơ?”. Roythờ ơ hỏi. Sự thờ ơ đó không làm Corrie nản chí. Chồng chị đã biết rõ chị đang nghĩ gì. “Tin nhắn QUÁ KHỨ CÓ CÁCH ĐỂ SONG HÀNH CÙNG HIỆN TẠI có gợi cho anh điều gì không?”. Corrie ậm ừ, vừa nói vừa ngối xuống chiếc ghế dành cho khách hàng. Chị muốn chồng biết rằng mình không bỏ cuộc dễ dàng. Chị sợ rằng anh sẽ giả vờ tỏ ra không quan tâm lắm đến những tấm thiệp. Có vẻ như anh muốn ra sức làm chị nhụt chí, ngừng tìm hiểu về những rắc rối đang diễn ra.Roy nhíu mày: “Những thông điệp đó chẳng có gì liên quan đến em nên đừng để ý đến chúng làm gì”. ... Mời các bạn đón đọc Vẫn Mãi Yêu Anh của tác giả Debbie Macomber.
Số Phận Một Con Người - Mikhail Aleksandrovich Sholokhov
Số phận một con người là một truyện vừa của nhà văn Mikhail Sholokhov, ra đời năm 1956. Andrey Sokolov là chiến sĩ Hồng quân trong thời gian nổ ra cuộc Chiến tranh Vệ quốc. Chiến tranh tàn khốc đã đem tới cho cuộc đời anh những đau thương khôn xiết: Bản thân bị thương, bị tù đày, vợ và hai con gái chết vì bom đạn, con trai duy nhất hi sinh đúng vào ngày chiến thắng. Chiến tranh qua đi, Andrey xuất ngũ, không còn nơi nương tựa, anh phải đến ở nhờ nhà bạn và làm lái xe chở hàng. Trong những ngày chìm trong nỗi day dứt khôn nguôi về số phận mình, Andrey bắt gặp Vania - một chú bé mồ côi, bụi đời. Anh nhận chú bé làm con nuôi, bên nhau hai bố con đã sống thật hạnh phúc. Nhưng số phận cơ cực vẫn chưa buông tha họ. Trong một chuyến chở hàng, Andrey Sokolov gặp rủi ro, bị tước bằng lái xe. Thế là mất việc, hai bố con dắt nhau đi lang thang "khắp nẻo đường nước Nga" kiếm kế sinh nhai, dù phải vật lộn với muôn vàn khó khăn song những con người bị chiến tranh xô đẩy vẫn tràn trề niềm tin yêu cuộc sống, vào sức mạnh ý chí của con người. Và cho đến khi kết thúc câu chuyện, người cựu binh già Andrey Sokolov vẫn giấu không cho cậu con trai biết về những nỗi đau khổ riêng tư của mình. *** Mikhail Aleksandrovich Sholokhov (24/5/1905 - 21/2/1984) là một nhà văn Liên Xô nổi tiếng và là người được trao Giải Nobel Văn học năm 1965. Mikhail Sholokhov được biết tới nhiều nhất qua bộ tiểu thuyết sử thi Sông Đông Êm Đềm, tác phẩm được Jorge Amado cho rằng có thể sánh với Chiến Tranh Và Hòa Bình của Lev Tolstoy. Ngoài ra Sholokhov còn có nhiều sáng tác về những người Cozak vùng Sông Đông và về cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Sholokhov bắt đầu sáng tác ở tuổi 17. Ông cho ra đời tác phẩm đầu tiên, truyện ngắn Cái bớt năm 19 tuổi. Mikhail Sholokhov là một trong số ít nhà văn Xô viết được tặng thưởng Giải Nobel Văn học, ông được đánh giá cao cả trong và ngoài Liên Xô. Nhiều bức tượng của nhà văn đã được dựng lên ở các thành phố Nga trong đó bức tượng mới nhất được dựng ngày 25 tháng 4 năm 2007 ở Moskva. Tên của ông được dặt cho một tiểu hành tinh trong vành đai chính, 2448 Sholokhov. Tác phẩm: Những câu chuyện sông Đông (1925, tập truyện ngắn) Thảo nguyên xanh (1926, tập truyện ngắn) Sông Đông êm đềm (1928-1940, tiểu thuyết 4 tập) Đất vỡ hoang (1932-1960, tiểu thuyết 2 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1942, phần đầu tiểu thuyết) Khoa học căm thù (1942, tập truyện ngắn) Số phận một con người (1956-1957, truyện vừa) Sobranie Sochinenii (1956-1958, tuyển tập các tác phẩm gồm 8 tập) Họ đã chiến đấu vì Tổ quốc (1959, phần tiếp theo) *** Số Phận Một Con Người gồm có: Cái bớt Người chăn bò Iliukha Trái lim Aliôsa Con đường Thằng con nhà hư đốn Chủ tịch hội đồng quân sự Chuyện về Ủy ban Lương thực sông Đông Con đường chông gai Gái hai chồng Một lần ức hiếp Đôi giầy cao su Câu chuyện về Kôntsác Cánh đồng xanh thẳm Những người cố nông Dòng máu lạ Chung một tiếng nói Yếu mềm Khoa học căm thù Số phận con người Mời các bạn đón đọc Số Phận Một Con Người của tác giả Mikhail Aleksandrovich Sholokhov.
Một Cây Cầu Quá Xa - Cornelius Ryan
Tác phẩm lấy bối cảnh là cuối cuộc thế chiến thứ hai. Quân Đức đã mất phần lớn lãnh thổ nước Pháp, và lực lượng quân Đồng Minh đã quyết định là sẽ tấn công cú chót. Quân Đồng Minh dự định thả hàng nghìn lính nhảy dù xuống Hà Lan và trấn giữ một vài vị trí trọng yếu ở đó, cho đến khi lực lượng yểm trợ đến. Điểm quan trọng nhất là cây cầy Arnhem. Một khi bị trấn giữ, cây cầu sẽ khóa mọi sự yểm trợ từ phía Tây Đức. *** Cố tác giả Cornelius Ryan là một trong những phóng viên chiến trường xuất sắc vào thời của ông. C. Ryan đã bay 14 phi vụ ném bom với Tập đoàn Không quân 8 và 9 Mỹ, theo dõi cuộc đổ bộ D-Day và bước tiến của Tập đoàn quân 3 dưới quyền tướng Patton vào Pháp và Đức. Ngoài “The Longest Day”, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách, bài báo và nhiều vở kịch, kịch bản phim, chương trình TV và phát thanh. Ryan sinh ra và học tập ở Dublin, Ireland. Tác phẩm: - Ngày dài nhất - The Longest Day, 1959. - Trận đánh cuối cùng - The Last Battle, 1966. - Một cây cầu quá xa - A Bridge Too Far, 1974. *** Lời giới thiệu về chiến dịch Market Garden (17 - 24/9/1944) Ngay sau 10 giờ sáng ngày chủ nhật 17/9/1944, từ các sân bay nằm ở khắp miền nam nước Anh, đội quân máy bay vận tải chở lính lớn nhất đã từng được tập trung cho một chiến dịch duy nhất bắt đầu cất cánh. Cùng với chúng, vào tuần thứ 263 của Thế chiến thứ hai, Tổng tư lệnh lực lượng Đồng Minh, tướng Dwight David Eisenhower, bật đèn xanh cho chiến dịch Market Garden, một trong những chiến dịch táo bạo và giàu sáng tạo nhất của cuộc chiến. Cũng thật ngạc nhiên, Market Garden, một chiến dịch phối hợp giữa đổ bộ đường không với tấn công mặt đất, lại được vạch ra bởi một trong những tư lệnh thận trọng nhất của Đồng Minh, thống chế Bernard Law Montgomery. Market, lực lượng đổ bộ đường không trong kế hoạch, là một đạo quân khổng lồ, bao gồm gần năm ngàn máy bay tiêm kích, ném bom, vận tải và hơn 2500 tàu lượn. Chiều ngày chủ nhật đó, vào đúng 1 giờ 30, trong một cuộc tấn công ban ngày chưa từng có tiền lệ, toàn bộ lực lượng quân dù của Đồng Minh, cùng với xe cộ trang bị, bắt đầu được thả xuống sau chiến tuyến của quân Đức. Mục tiêu của cuộc đổ bộ táo bạo và lịch sử này: nước Hà Lan đang bị quân đội nazi chiếm đóng. Trên mặt đất, triển khai dọc biên giới Bỉ - Hà Lan, là lực lượng Garden, gồm những đoàn tăng hùng hậu của đạo quân Anh số 2. Vào 2giờ 35 chiều, sau đợt pháo bắn mở đường và được máy bay phóng pháo yểm trợ, đoàn xe tăng bắt đầu tiến qua lãnh thổ Hà Lan theo tuyến đường chiến lược mà lực lượng dù đang đánh chiếm và giữ thông. Kế hoạch đầy tham vọng của Montgomery được xây dựng để đưa quân và chiến xa xuyên qua Hà Lan, vượt sông Rhine tiến thẳng vào chính nước Đức. Chiến dịch Market Garden, Montgomery lý luận, sẽ là đòn sét đánh để hạ gục Đế chế thứ ba và chấm dứt chiến tranh trong năm 1944. Mời các bạn đón đọc Một Cây Cầu Quá Xa của tác giả Cornelius Ryan.
Lão Goriot - Honoré De Balzac
  Tiểu thuyết Lão Goriot ra đời sau cách mạng tư sản Pháp năm 1789, khi mà sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã khiến đồng tiền ngự trị và biến đổi sâu sắc mọi mặt của xã hội. Trong hoàn cảnh đó, tiểu thuyết hiện thực phê phán góp một ý nghĩa quan trọng đối với xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đây là một tác phẩm thuộc phần Những cảnh đời riêng(Scènes de la vie privée) của bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời(La Comédie humaine). Câu chuyện bắt đầu ở một nhà trọ bình dân, với bà chủ Vauquer và 7 người khách trọ. Trong đó, gây tò mò nhất là lão Goriot vì ban đầu người ta tưởng lão có nhiều tiền và nhìn lão cũng sang trọng. Nhưng sau đó lão sa sút dần, cùng lúc đó xuất hiện  bên cạnh lão những quý cô xinh đẹp, danh giá. Và người ta tưởng rằng đó là tình nhân của lão. Nhưng anh chàng sinh viên Luật Rastignac ở gần phòng lão mới là người phát hiện ra đó là hai cô con gái của lão Goriot tên là Anastasie và Delphine. Để bước chân vào xã hội thượng lưu, Rastignas đã nhờ cô em họ dẫn đường để tiếp cận với Delphine. Rastignas đem chuyện kể cho lão Goriot, lão rất cảm động và muốn giúp đỡ cho 2 người hạnh phúc. Mặt khác, ở nhà trọ bình dân, còn xuất hiện thêm tên tù vượt ngục đó là Vautrin. Lão ta rất xảo quyệt, lão đã chỉ đường cho Rastignac giàu sang bằng nhưng âm mưu độc ác. Lão Goriot rất chiều chuộng hai cô con gái, từ một người làm mì, lão đã tranh thủ cơ hội giàu có lên, và gả 2 cô con gái đến chỗ giàu sang danh giá, đưa hết tiền cho chúng sau đó bản thân mình thì đến nhà trọ bình dân. Hai cô con gái liên tục bòn rút, kể lể, than vãn với lão, trong một lần lão xúc động và sinh ốm nặng. Trong lúc đó chỉ có Rastignac và Bianchon chăm sóc cho lão. Ngay đến cuối đời, hai cô con gái của lão cũng không hề đến thăm, lão đã chết trong sự tủi hờn. Lễ tang của lão được tổ chức một cách sơ sài nhờ vào số tiền ít ỏi của Rastignac. Hôm đưa tang, người ta thấy có hai chiếc xe mang gia huy của hai dòng họ Restaud và Nucingen nhưng trên xe trống rỗng. Tác phẩm khép lại bằng cảnh Rastignac nhìn xuống phố phường Paris và thốt lên một câu đầy thách thức: "Bây giờ chỉ còn ta với mi" với dự định đến ăn tối ở nhà Nucingen Lão Goriot là một trong những tiểu thuyết thành công nhất của Honore’ de Balzac. Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, Balzac đã trở thành một trong những đại diện xuất sắc nhất của tiêu thuyết hiện thực phê phán. Ông đã sử dụng thành công những thủ pháp ngệ thuật của tiểu thuyết hiện thực phê phán thể hiện tư tưởng của mình phơi bày hiện thực xã hội từ đó thức tỉnh con người, hướng họ tới những giá trị tốt đẹp hơn. *** Honoré de Balzac (1799-1850) là nhà văn hiện thực Pháp lớn nhất nửa đầu thế kỷ 19, bậc thầy của tiểu thuyết văn học hiện thực.  Ông là con trai của Bernard-François Balssa và Anne-Charlotte-Laure Sallambier, họ Balzac được lấy của một gia đình quý tộc cổ Balzac d'Entraigues. Cuộc đời ông là sự thất bại toàn diện trong sáng tác và kinh doanh - đó là tổng kết chung về thời thanh niên của Balzac từ khi vào đời cho đến năm (1828). Ông chỉ thật sự được văn đàn Pháp công nhận sau khi đã mất. Người ủng hộ ông nhiều nhất khi còn sống là Victor Hugo. Ông có một sức sáng tạo phi thường, khả năng làm việc cao, thường chỉ ngủ một ngày khoảng 2 đến 3 tiếng, thời gian còn lại làm việc trên một gác xép. Balzac sớm có ý thức về sự tái hiện cuộc đời một cách hoàn chỉnh ở đủ mọi góc cạnh của nó và được đặt trong hệ thống mà ông ví như một "công trình kiến trúc của vũ trụ" với tính chất vừa hệ thống vừa hoành tráng từ các tác phẩm của ông. Vũ trụ ấy là cuộc đời nhìn qua nhãn quang của ông tạo nên một "thế giới kiểu Balzac" in rõ dấu ấn của "cảm hứng vĩ mô". Vì vậy, vũ trụ trong tiểu thuyết Balzac là một "vũ trụ được sáng tạo hơn là được mô phỏng". Honoré de Balzac từng nói một câu nổi tiếng " Ai cũng có thể làm thầy ta !" ; chính sự sâu sắc này của ông đã ảnh hưởng rất lớn về cách sống cũng như trong nghệ thuật của ông. Một số tác phẩm tiêu biểu : Miếng da lừa, Lão Goriot, Bước thăng trầm của kĩ nữ, và đặc biệt là bộ tiểu thuyết đồ sộ Tấn trò đời. Mời các bạn đón đọc Lão Goriot của tác giả Honoré De Balzac.