Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thượng Lĩnh Án

Vi Tam Đắc là một tên ác bá ở làng Thượng Lĩnh, hắn đã làm tan nát biết bao gia đình trong làng từ dân thường đến quan chức. Người dân đều căm hận hắn nhưng không thể làm gì được hắn, kể cả cảnh sát, vì hắn biết luật, hiểu luật, và lợi dụng sự hiểu biết đó để lách luật và liên tiếp phạm pháp. Đột nhiên vào ngày giáp Tết, hắn treo cổ tự tử trên cái cây cao nhất làng với một bức di thư để lại. Và cảnh sát nhận được một tin mật báo rằng hắn bị mưu sát. Khi cảnh sát càng tiến sâu vào điều tra, sự việc lại càng thêm bế tắc, dân làng Thượng Lĩnh nhất mực bao che cho nhau…Và từ cái chết của Vi Tam Đắc lại liên tiếp xẩy ra các án mạng khác. *** Cái thây của Vi Tam Đắc bị treo lên cây đa trước cổng làng. Hơn trăm thôn dân của làng Thượng Lĩnh kéo nhau đến xem chẳng khác nào như đi xem kịch. Trong số bọn họ, không ít kẻ trống ngực đập thình thịch, cứ y như tay thần, tay quỷ đang khua chiêng gõ mõ. Đúng lúc ấy thì gió lạnh như con chó đánh hơi thấy mùi phân thối, hối hả lao tới cắn người, chẳng chừa một ai. Chỉ có điều trong cái bộ dạng lập cập, run rẩy ấy lại không phải là những người dân quê ăn mặc phong phanh, rách rưới; mà lại là một số ít những người mặc áo dày sụ, sạch sẽ mà chỉn chu. Đám người này thoáng nhìn liền biết ngay là những cán bộ, công chức thu nhập cao mới về quê ăn Tết. Còn phần đông số còn lại là đám dân quê quanh năm suốt tháng bám rễ ở làng. Số này nhìn Vi Tam Đắc chết trơ thây cứ y như khán giả đã đoán được kết cục của vở kịch, bởi vậy mà tỏ ra bình tĩnh hơn hẳn. Bỗng từ trong đám đông có hai người phụ nữ lao ra, một già, một trẻ. Hai người này lao về phía Vi Tam Đắc, tóm lấy cẳng chân của y cách mặt đất chừng hai mét. Người thiếu phụ nhón chân với tay, bắt lấy một chân Vi Tam Đắc, chực muốn đẩy thân thể y lên. Chỉ có điều chiều cao và sức lực của chị ta rõ là đã tới giới hạn, cái thây của Vi Tam Đắc vẫn không chút dịch chuyển. Chị ta chực chờ sự giúp đỡ để đẩy thân thể Vi Tam Đắc lên phía trên, giảm bớt lực siết của sợi dây buộc quanh cổ y. Song lúc này chị ta cũng chỉ trông cậy được vào bà lão đang ở bên cạnh mình mà thôi. Bà lão ắt hẳn là muốn giúp chị ta, song muốn giúp cũng chẳng dễ gì, bởi lẽ bà lão vừa thấp vừa còng lưng ấy phải nhảy lên thì may ra mới chạm được tới người Vi Tam Đắc. Lần thứ nhất cẫng chân nhảy, bà lão bắt được chiếc giày xỏ ở một bên chân, nhưng khi bà lão hạ mình và cánh tay xuống thì chiếc giày ấy cũng rơi xuống theo. Bà lão lại nhảy lên lần nữa thì túm được ống quần của Vi Tam Đắc, lần này thì chiếc quần của Vi Tam Đắc đã bị tụt xuống. Từ xa nhìn lại, cặp đùi trắng hếu mà thuôn dài kia giống như hai thớ thịt tươi treo trên gác bếp, còn cái vật mềm nhũn, lông mọc tua tủa nằm giữa cặp đùi khiến ai nhìn gần lại thấy như cái dái dê. Kẻ ngó xa nghía gần, người há mồm trợn mắt, kẻ cúi đầu ngượng nghịu, có kẻ lại vênh mặt cười mỉa. Bà lão và thiếu phụ kia đâu ngờ lại bị rơi vào tình cảnh trớ trêu ấy. Bọn họ cũng chỉ muốn cứu Vi Tam Đắc thôi mà, bởi nghĩ y còn sống. Song từ hành động và hậu quả gây ra, lại chẳng giống như đang cứu người, trái lại, còn như là bêu riếu, sỉ nhục Vi Tam Đắc thì đúng hơn. Bởi vì sự thực là quần của Vi Tam Đắc đã bị tuột mất. Nhưng chuyện này xảy ra thì cũng không lấy gì làm lạ. Lúc Vi Tam Đắc còn sống, y đã làm tổn thương hai người phụ nữ này không biết bao nhiêu lần, bất kể họ, một người là mẹ y, một người là vợ y. Tội lỗi mà y gây ra cho họ, tội lỗi mà y gây ra cho cả cái làng này, dù có chết cả chục lần cũng chẳng thể chuộc hết được. Vậy thì sao mà bảo giống như đang sỉ nhục được. Hai người phụ nữ một già một trẻ ấy vẫn nôn nóng muốn đẩy thân thể Vi Tam Đắc lên, song mọi cố gắng đều vô ích. Việc Vi Tam Đắc bị treo lên cây như thể đã được tính toán từ đầu, gót chân cách mặt đất chừng hai mét, ai muốn cứu y thì cũng đừng hòng với tay tới, chết là cái chắc. Hai người phụ nữ hình như đã nhận ra được điều này, quan trọng hơn là hai người còn phát hiện ra Vi Tam Đắc đã chết, đã tắt thở trước đó lâu rồi, đã hết đường cứu mạng. Vậy là đành từ bỏ. Mẹ của Vi Tam Đắc quỳ bệt dưới mặt đất, lay lóc gào khóc. Còn vợ của Vi Tam Đắc lại không quỳ, cũng chẳng khóc, chị ta thẫn thờ đứng đó, mình mẩy hơi lay động, run rẩy, cứ như người bị trúng phong. Đó là một buổi sớm gió lộng tê tái. Nhưng có điều, hình như chị ta không phải run rẩy vì gió lạnh, mà đúng hơn là vì sự lạnh nhạt của những kẻ xung quanh. Trong số đó có một người đàn ông lớn tuổi nhìn sự việc không lọt mắt, vậy là tiến lên phía trước, đoạn hô hào thêm vài thanh niên nữa. Bọn họ tháo nút dây buộc trên cành cây đa, siết chặt một đầu dây, rồi từ từ thả ra. Vi Tam Đắc dần hạ xuống, rồi được hai thanh niên đỡ lấy, đặt nằm trên mặt đất. Trước đó, người đàn ông lớn tuổi đã kéo chiếc quần bị tuột lên cho Vi Tam Đắc. Xong rồi, ông ta nhìn vào cặp mắt trố trơ trơ của Vi Tam Đắc mà than rằng: “Tam Đắc ơi là Tam Đắc, dái chim của mày đã hại đời bao nhiêu đàn bà con gái ở cái làng này thì giờ cũng đã đến lúc nghỉ ngơi được rồi. Hoàng đế chẳng qua cũng sung sướng giống mày thôi, đừng có chết rồi mà vẫn không nhắm mắt. Hừ, nhắm mắt lại đi.” Người đàn ông lớn tuổi vừa nói vừa đưa tay vuốt mắt cho Vi Tam Đắc. Chắc là do người đàn ông này ăn nói có lòng thành, đức cao vọng trọng, Vi Tam Đắc quả là đã nghe lời mà nhắm mắt. Người đàn ông này còn tìm thấy một bức di thư trong túi áo của Vi Tam Đắc. Nội dung bức di thư như sau: “Vi Tam Đắc tôi đã gây ra nhiều tội lỗi, nay lấy cái chết để đền tội, mong sao mọi người được vui vẻ ăn Tết! Vi Tam Đắc.” Bức di thư viết sai chính tả được nhiều người truyền tay nhau đọc, xong chẳng ai muốn giữ lại, nên lại nhét vào trong túi áo y. Ai nấy như đều tìm thấy chút lương tri trong con người y, bởi vậy mà ánh mắt thù hận cũng nguôi ngoai. Vợ của Vi Tam Đắc nãy giờ vẫn đứng đấy, chẳng khóc chẳng rằng. Chị ta không ngờ lại nhận được sự cảm thông, thương hại của mọi người, lúc này bỗng như kẻ mù lòa trông thấy ánh sáng. Chị ta chợt quay người lại quỳ xuống trước mặt đám đông, khấu đầu, vừa khóc vừa tạ ơn, thay chồng tạ tội. “Hoàng Nguyệt Thu tôi xin cảm tạ mọi người trong làng!” Người đàn bà tự xưng là Hoàng Nguyệt Thu nói. “Xin được cảm tạ mọi người đã giúp tôi thu xác. Hoàng Nguyệt Thu tôi bạc mệnh, số khổ, hèn hạ được gả tới làng Thượng Lĩnh làm vợ của Vi Tam Đắc. Vi Tam Đắc là tên xấu xa, đểu cáng vô độ. Không, hắn vốn không phải con người, hắn là tên súc sinh, mà cũng chẳng bằng súc sinh, chẳng bằng cầm thú. Hắn rước đủ mọi tai vạ cho cả làng, rồi còn chà đạp không biết bao nhiêu đàn bà con gái, giờ thì chết quách đi rồi. Tôi biết, hắn ta có chết cũng không đền hết tội. Hắn gây ra quá nhiều nghiệp chướng, có chín cái mạng cũng chẳng chuộc hết, ngàn lưỡi dao xẻo xác hắn cũng không báo hết thù, cũng không giải hết hận. Tôi số khổ, bạc mệnh, hèn hạ nên mới làm vợ của Vi Tam Đắc, Vi Tam Đắc chết rồi, đi rồi, tội lỗi vẫn còn đó. Tôi thay hắn ta chuộc tội với dân làng! Xin được chuộc lỗi! Xin được chuộc lỗi... Bây giờ người cũng đã chết rồi, tội cũng đã chuộc rồi, tôi xin dân làng giúp tôi chôn cất Vi Tam Đắc. Ngày mai chôn, không, hôm nay phải chôn ngay. Tết tới nơi rồi, tôi không muốn ảnh hưởng mọi người đón Tết. Chôn càng sớm càng tốt, như vậy ăn Tết mới ngon. Chỉ mong mọi người trong làng vui vẻ, phấn khởi đón Tết. Ai nấy đều cảm động trước lời lẽ biết điều, thấu tình đạt lý của người đàn bà mệnh khổ này. Đa phần đã không còn viện được lý do để tiếp tục thù hận Vi Tam Đắc, cũng không có lý do để cự tuyệt lời thỉnh cầu của Hoàng Nguyệt Thu. Vẫn là người đàn ông lớn tuổi có lòng thành, đức cao vọng trọng lúc trước đứng ra hô hào, động viên, bố trí trai tráng, dân làng nghe lệnh mà làm theo. Cả toán người ào ào hành động, mỗi người một việc, nào là nhập liệm, nhập quan, chọn đất, đào mồ, xem giờ, lo liệu đám tang cho Vi Tam Đắc... Ngôi làng bỗng sôi động hẳn lên. Dây pháo đốt ra từ nhà Vi Xương Anh có thể xem là âm thanh đầu tiên đánh tan bầu không gian u uất của ngôi làng, khiến cả thôn làng náo nhiệt hẳn. Ngôi nhà của gia đình Vi Xương Anh nằm tách biệt trên đỉnh dốc, là ngôi nhà rách nát nhất nhưng lại cao nhất làng Thượng Lĩnh. Nói là cao, chẳng qua là vì nó nằm ở trên đỉnh dốc, chứ ngôi nhà ấy thực chất lại thấp lè tè. Nói là rách nát, là bởi nếu so với những ngôi nhà tầng bằng xi măng cốt thép thì nó thực là thảm hại. Ngôi nhà này của Vi Xương Anh vẫn là nhà vách đất từ đời ông cha để lại. Tuy đời nào cũng được tu sửa, cơi nới cho rộng thêm, nhưng cũng không thay đổi được bản chất nhà đất của nó. Cũng giống như Vi Xương Anh, dù anh ta làm bảo vệ hay thợ sửa chữa trong thành phố, thì cũng không thay đổi được bản chất nông dân của mình. Vi Xương Anh đâu phải không cất nổi nhà tầng, anh ta đi làm thuê làm mướn bên ngoài đã mấy năm nay, chắc hẳn cũng dành dụm được chút ít, muốn xây một ngôi nhà bằng gạch vữa xi măng cũng chẳng khó gì. Song Vi Xương Anh lại không xây nhà. Cớ chi mà anh ta lại làm vậy? Chuyện này thì thằng con sáu tuổi của anh ta là rõ nhất. Lúc thằng bé mới chỉ lên ba, cha nó đã căn dặn rằng: “Con trai à, khi nào mày lên bảy tuổi, cha sẽ đón mày lên thành phố học, cha sẽ đón cả u mày lên đó ở cùng, rồi cả nhà ta sẽ chuyển sang ở nhà tầng, không phải làm nông dân nữa. Thế nên ngôi nhà chúng ta đang ở không cần phải xây lại làm gì cho phiền...” Vi Xương Anh lần nào từ tỉnh về cũng đều chuốc vào đầu thằng bé cái cuộc sống lý tưởng ấy. Năm này thằng bé đã sáu tuổi, cũng gần lắm với cuộc sống lý tưởng mà cha nó hứa hẹn rồi. Chỉ có điều năm nay cha nó về nhà lại không thấy nhắc tới chuyện ấy nữa. Cha nó thì cứ tưởng nó đã quên béng đi rồi, nhưng mà nó thì vẫn còn nhớ lắm, bởi lẽ lên thành phố học cũng là giấc mơ của nó. Xế chiều hôm qua, thằng bé đã hỏi Vi Xương Anh: “Cha ơi, con lại lớn thêm một tuổi rồi, lên sáu rồi đấy, chỉ cần thêm một tuổi nữa là có thể lên thành phố học rồi phải không?” Vi Xương Anh mới về nhà được hai ngày liền hằn ngay một cái bạt tai lên mặt thằng bé. Vi Xương Anh cớ sao lại ra tay với thằng bé như vậy? Bởi vì Vi Xương Anh lúc ấy đang điên tiết, đang não ruột, nguyên nhân cũng có thể xem như là liên quan tới chuyện này. Ấy là lúc đương bữa cơm, Vi Xương Anh đang vùi đầu uống rượu thì bỗng dưng nói với chị vợ Tô Xuân Quỳ rằng: “Ra Tết tôi không đi làm thuê nữa.” Chị vợ đang ngậm trong mồm miếng thịt còn chưa kịp nhai, bèn hỏi: “Sao thế hả?” Vi Xương Anh chỉ đáp lại rằng: “Đếch muốn đi nữa.” Tô Xuân Quỳ lại hỏi: “Sao lại không muốn đi?” Vi Xương Anh đáp: “Đếch muốn đi thế thôi.” Tô Xuân Quỳ: “Không muốn là không đi? Anh tưởng anh là hoàng đế à? Anh không đi mà được chắc? Mấy miệng ăn nhà này đều dựa tất vào đồng tiền anh kiếm đấy.” Vi Xương Anh bảo: “Tao ở thành phố ngán lắm rồi, thấy ở quê vẫn hơn, vậy đã được chưa?” Tô Xuân Quỳ có đôi mắt đẹp lại chẳng coi chồng mình ra gì, nói thực trong mắt chị ta, chồng mình là cái hạng chẳng được tích sự gì. Là đàn ông trong nhà, còn hứa hẹn sẽ đưa con cái lên thành phố học, rồi còn đón cả nhà lên thành phố, đúng thật là nói khoác không cần nộp thuế. Vi Xương Anh liếc mắt nhìn vợ bảo: “Mày muốn tao ra ngoài, mày lại không muốn tao ở nhà như vậy. Tao không ở nhà, hay ho gì cho mày?” Tô Xuân Quỳ ngẩn người, đáp lại: “Ý anh là gì?” “Tao không yên tâm với mày, ý tao là vậy đó.” Vi Xương Anh lại nói tiếp: “À, tao phải đi khỏi cái nhà này thì mày mới yên tâm phải không?” “Vi Xương Anh, anh cứ nói thẳng ra, anh nói vậy là có ý gì?” Vi Xương Anh nốc liền hai chén rượu, mặt đỏ ngầu, trợn mắt chỉ tay vào mặt Tô Xuân Quỳ mà nạt: “Tô Xuân Quỳ, tao hỏi mày, mày và Vi Tam Đắc đã làm cái chuyện kia chưa?” Tô Xuân Quỳ hỏi: “Chuyện kia là chuyện gì?” “Thì là cái chuyện đó chứ còn chuyện gì.” Đoạn anh ta còn làm động tác, ngón tay trỏ bên phải chọc vào hốc nắm tay trái, rút ra chọc vào hai lần liền. Tô Xuân Quỳ hỏi: “Chuyện đó, chuyện kia là cái gì, tôi không hiểu.” Vi Xương Anh đưa tay vỗ đùi: “Tô Xuân Quỳ, cái lỗ của mày bị nó chọc nát rồi, còn giả bộ gì nữa, mày tưởng tao là thằng ngu hay sao? Rốt cuộc là mày với Vi Tam Đắc có làm cái chuyện đó hay không, mày nói đi.” Tô Xuân Quỳ đáp: “Không có.” Vi Xương Anh vặn hỏi: “Không có?” “Không có thì là không có chứ sao.” “Vậy thì sao lại có người mách tao là có?” Tô Xuân Quỳ quẳng đũa lên mặt bàn, gằn giọng nói: “Đứa nào mách?” “Đứa nào mách mày không cần biết, mày chỉ cần trả lời tao là có hay không thôi.” “Tôi bảo không có thì anh không tin. Tôi bảo có thì anh mới tin phải không?” “Ừ thì đúng vậy đấy.” Mời các bạn đón đọc Thượng Lĩnh Án của tác giả Phàm Nhất Bình.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hẹn Với Thần Chết (Hẹn Với Tử Thần) - Agatha Christie
Hẹn Với Thần Chết (Hẹn Với Tử Thần),  Nguyên Bản Tiếng Anh : Appointment With Death -Tiếng Pháp: Rendez-Vous Avec La Mort, là tập 19 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. “Hẹn với thần chết” là một tác phẩm trinh thám xuất sắc khác của Agatha Christie thể hiện tài năng xây dựng và phân tích tâm lý nhân vật. Đồng thời, nó cũng thể hiện được tài năng của bà đối với thể loại truyện trinh thám này cũng như tạo nên một ấn tượng khác về cách khai thác chủ đề của bà. Nội dung chính câu chuyện xoay quanh một gia đình người Mỹ với hai thái cực đối lập: một người với niềm đam mê quyền lực, thích áp bức, quản lý cuộc sống của mọi người trong vương quốc bé nhỏ của mình; thái cực còn lại là những con người từ nhỏ đến lớn đều chịu sự kiềm cặp, theo dõi đến mức không còn khả năng tự lập hay sự dung cảm thoát ly ra khỏi thế giới tăm tối đó. Họ đã có một chuyến du lịch cùng nhau nhưng chuyến du lịch đó đã hoàn toàn thay đổi hoàn toàn cuộc đời và số phận của rất nhiều người. Tội ác đã diễn ra, một “người hung tội phạm” đã nhân danh “cuộc đời” họ, ra tay kết liễu cuộc đời kẻ bạo chúa kia. Những con người còn sống trong gia đình ấy không những không thương xót mà lại rất dửng dưng, an bình, có chút thở phào nhẹ nhõm, khi được giải thoát khỏi những gông xiềng. Vì đồng cảm, họ đã đưa là những lời nói dối khiến cho vụ án càng đi vào bế tắc. Thế nhưng, sự có mặt tình cờ trong chuyến đi của gia đình ấy của Hercules Poirot đã khiến cho câu chuyện vui của họ không trọn vẹn cho lắm. Với khả năng phán đoán, phân tích, suy luận vô cùng sắc bén, ông đã dần dần lật mở mọi lời khai để phơi bày hung thủ thực sự ra ánh sáng. Và thủ phạm chắc chắn sẽ khiến nhiều người rất bất ngờ… Điều tuyệt vời mà Agatha Christie đã mang đến cho độc giả ở đây cũng vô cùng quen thuộc trong nhiều tác phẩm có Hercules Poirot của bà: Đó chính là nghệ thuật phân tích tâm lý cực kỳ ấn tượng. Không chỉ xây dựng, khắc họa nhân vật rõ nét về ngoại hình lẫn tính cách mà mỗi nhân vật đều có một vai trò trong câu truyện, và các nhân vật đều có một mối liên kết vô hình mà càng về sau mới hiện rõ. Đặc biệt nhất, đó chính là phần phá án tài tình của thám tử Hercules Poirot. Từ những cuộc đối thoại với các nghi phạm xung quanh vụ án, ông đã xâu chuỗi tất cả mọi dữ kiện, những hành động vô cùng phức tạp và đầy nghi ngờ kia lại với nhau để tạo nên một cách phá vỡ thế bế tắc tuyệt vời. Bằng các lập luận và cách phá án “đảo ngược”, các nghi phạm tự mình thú tội nói dối của mình rồi từ đó, ông đã quay trở lại điểm xuất phát – nơi các lời nói dối bắt đầu – cũng là nơi mà hung thủ đã ra tay hạ sát người đàn bà không-mấy-đáng thương-kia. Cách khai triển vấn đề, giới thiệu nhân vật của tác phẩm này không hề mới chút nào. Agatha vẫn trung thành với lối viết vô cùng ngắn gọn, súc tích và đầy logic khiến người đọc không cảm thấy mệt hoặc bị đẩy đi ra quá khỏi vấn đề. Mọi tình tiết đưa vào đều có cái lý của nó khiến đọc sách xong, khi đọc lại thì thấy “À, thì ra là thế”. Cách xây dựng nhân vật cũng rất logic với cốt truyện và liền mạch cảm xúc từ đầu đến cuối. Chỗ này, Agatha Christie đã miêu tả nội tâm nhân vật rất xuất sắc, người đọc có thể cảm nhận rõ điều đó. Các nhân vật đều có chung số phận, đều có chung nỗi căm phẫn và một trong số đó đã hành động. Những người còn lại, như đồng cảm và có chung ý muốn như vậy, đã cùng nhau bao che tội ác đó, nhưng không thể thoát khỏi đôi mắt tinh tường của Hercules Poirot. Hercules Poirot trong câu chuyện chỉ là người khách đi chung chuyến du lịch nhưng ông vẫn khiến người đọc thích thú với giọng điệu khá hài hước, lời nói đôi khi chêm thêm vài từ tiếng Pháp (ban đầu mình khá khó chịu nhưng sau này khi đọc nhiều tác phẩm của Agatha Christie thì cũng quen rồi, thêm vào đó lại thấy nó khá thú vị). Cách ông phá án cũng rất thông minh: đưa từng người một vào một cái bẫy vô hình để rồi tự họ khai ra hết, phá bỏ các nút thắt, và thủ phạm cũng dần hiện rõ hơn. Thủ phạm cũng khá là bất ngờ – đúng kiểu Agatha – tuy nhiên xuyên suốt câu chuyện dữ kiện về nhân vật khá ít nên dù khúc cuối có nói ra cũng đọc có vẻ như là để giải quyết tình huống thôi chứ tính thuyết phục chưa được như kỳ vọng lắm. Phần cuối của câu chuyện thì chẳng có gì bất ngờ – giống như một chương phụ thêm – để ban tặng cuộc sống tươi đẹp cho những con người đã sống khốn khổ trong một nhà tù vô hình gần nửa cuộc đời. Đằng sau sự thông minh, tinh tế của một nhà văn; đó là cả một trái tim nhân ái và cũng khá là lãng mạn. Bìa sách cũng khá đẹp tuy nhiên không gây ấn tượng lắm đối với mình. Tuy nhiên, nếu xét về phá án có xen lẫn phân tích tâm lý nhân vật, cuốn sách này quả thật là một tác phẩm đáng đọc và mang đậm dấu ấn phong cách Agatha Christie. *** Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Hẹn Với Thần Chết (Hẹn Với Tử Thần) của tác giả Agatha Christie.
Dao Kề Gáy - Agatha Christie
Dao Kề Gáy là tập 9 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. “Dao kề gáy” xoay quanh cuộc điều tra của thám tử Hercule Poirot về cái chết của huân tước Edgware. Một vụ án mạng gây xôn xao dư luận và làm chấn động thế giới thượng lưu. Nghi can đầu tiên là Huân tước phu nhân Edgware – một nữ nghệ sĩ tài hoa, xinh đẹp. Nhưng bà ta lại có được rất nhiều bằng chứng ngoại phạm. Vụ án tưởng chừng đi vào bế tắc vì kế hoạch của kẻ thủ ác quá tinh vi, xảo quyệt, không để lại bất cứ một bằng chứng hay dấu vết gì. Nhưng không có gì là hoàn hảo tuyệt đối, lưới trời lồng lộng, thưa mà khó thoát. Bằng khả năng quan sát, suy đoán và tư duy logic của mình, Poirot đã vạch trần mọi thủ đoạn của tên sát nhân. Sự thật bất ngờ được phơi bày. Liệu huân tước phu nhân xinh đẹp có phải là kẻ phản bội giết chồng? Âm mưu phía sau hành động đó là gì? Câu chuyện lôi cuốn từ đầu đến cuối với những cuộc đấu trí căng thẳng nhưng hấp dẫn thú vị. Một lần nữa, tài năng và vị trí “nữ hoàng truyện trinh thám” của Agatha Christie lại được khẳng định. Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Chết Giữa Thinh Không - Agatha Christie
Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây), Nguyên tác: Death in the Clouds/ Death in the Air. Là tập 12 trong series về Thanh Tra Hercule Poirot. Trên chuyến phi cơ hạng sang Prometheus nhắm hướng bay đến phi trường Croydon, thám tử Hercule Poirot theo thói quen nghề nghiệp đưa mắt theo dõi từng hành khách trên máy bay. Trước tiên là nàng Jane Grey đang ngồi thu mình rụt rè... còn Norman Gale đăm chiêu nghĩ ngợi... đến anh chàng nhà khảo cổ trẻ tuổi Jean Dupont vừa nhổm người đứng dậy giơ tay đập chết con o­ng vò vẽ bay vù vù trên đầu mọi người. Mãi đến lúc phát hiện Madame Giselle ngồi chết ở dãy ghế phía sau khoang tàu, thám tử Hercule Poirot mới nhận ra còn một con o­ng khác nữa, chính là một mũi tên tẩm độc dùng ống xì đồng thổi bay đi.  Tên của Hercule Poirot được lấy theo hai nhân vật thám tử khác là Hercule Popeau của nhà văn Marie Belloc Lowndes' và Monsieur Poiret của Frank Howel Evans trong đó Poiret là một thanh tra cảnh sát người Bỉ đã nghỉ hưu và sống ở Luân Đôn. Hercule Poirot xuất hiện lần đầu trong tiểu thuyết trinh thám đầu tay của Agatha Christie Vụ án bí ẩn ở Styles (The Mysterious Affair at Styles) xuất bản năm 1920. Hercule Poirot bắt đầu thực sự nổi tiếng sau khi tiểu thuyết Vụ ám sát Roger Ackroyd (The Murder of Roger Ackroyd) được Agatha Christie cho xuất bản năm 1926, sau đó nữ nhà văn còn cho ra đời nhiều tiểu thuyết xuất sắc khác về Poirot như Án mạng trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông (Murder on the Orient Express), The ABC Murders (1935), Cards on the Table (1936) hay Five Little Pigs (1942). Lần xuất hiện cuối cùng của Poirot là trong tiểu thuyết Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case) xuất bản năm 1975 chỉ một năm trước khi Agatha Christie qua đời. Sau khi Thám tử rời sân khấu được xuất bản, tờ New York Times trong số báo ra ngày 6 tháng 8 năm 1975 đã có một bài điếu văn với tựa đề "Hercule Poirot is Dead; Famed Belgian Detective" ("Hercule Poirot đã chết; Thám tử người Bỉ danh tiếng"), Poirot là nhân vật giả tưởng duy nhất cho đến nay có được vinh dự này. Mặc dù Hercule Poirot là nhân vật xuất hiện nhiều nhất trong số các tiểu thuyết của Agatha Christie nhưng ngày từ năm 1930 nhà văn đã bộc lộ sự chán ngán với nhân vật này, tuy nhiên bà vẫn tiếp tục sáng tác các tiểu thuyết mới xoay quanh viên thám tử người Bỉ vì theo Christie thì nhiệm vụ của nhà văn là sáng tác ra những gì công chúng yêu thích, và Poirot lại là nhân vật được độc giả hết sức yêu mến. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Chết Giữa Thinh Không (Cái chết trên mây) của tác giả Agatha Christie.
Cái Bẫy Chuột - Agatha Christie
Tính đến năm 2007, Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của Agatha Christie hiện đang giữ kỷ lục vở kịch được công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay với trên 20.000 buổi diễn. Nội dung của nó kể về một vụ án mạng có thật, từng gây chấn động Vương quốc Anh vào năm 1945. Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương quốc Anh là một trong những đế quốc tham chiến sớm nhất. Cho đến ngày hiệp ước đình chiến được các bên ký kết, tổng thiệt hại về người của đảo quốc sương mù cho cuộc chiến này là 320.000 người. So với những quốc gia tham chiến khác như Liên Xô, Đức, Ba Lan… thì con số này rất "nhỏ". Thế nhưng, chỉ tính riêng tại Vương quốc Anh, thì con số này lớn vô cùng. Ngày 9/1/1945, cậu bé Dennis O’Neill - 13 tuổi bị phát hiện đã chết trong tình trạng thể chất vô cùng kinh khủng. Cậu bé gần như chỉ còn một bộ da bọc xương, cơ thể bầm dập những vết đòn roi, vết đòn cũ chưa mờ thì đã bị che lấp bởi những trận đòn kế tiếp. Dennis và em trai Terence - 11 tuổi, được một đôi vợ chồng trung niên nuôi nhận ở một nông trại hẻo lánh tại Shropshire. 13 giờ chiều, mẹ nuôi của Dennis - bà Esther Gough gọi điện báo với bác sỹ rằng Dennis đã ổn định, sức khỏe đang hồi phục. Thế nhưng đến 15h cùng ngày, khi vị bác sỹ đến nông trại, Dennis đã chết. Và theo khám nghiệm tử thi cũng như kết luận từ các bác sỹ, Dennis đã chết nhiều giờ trước đó. Nước Anh một phen chấn động về cái chết của Dennis. Thời điểm ấy, báo chí xứ sở sương mù chỉ đưa tin về những chiến thắng của quân đội Anh trước phe phát-xít, về hàng nghìn kẻ thù bị tiêu diệt trong ở mỗi chiến trường, về những thiệt hại của người Anh trong cuộc chiến. Vậy nhưng, hình ảnh về cái chết thương tâm của Dennis O’Neill vẫn khiến tất cả phải ngậm ngùi. Kết quả khám nghiệm tử thi gây sốc với tất cả. Dennis bị trụy tim do bị đánh quá mạnh vào lồng ngực. Cậu bé bị giết, chứ không phải vì chết đói nữa. Dennis chết, chỉ 2 ngày trước sinh nhật tuổi 13. Và phải có kẻ phải chịu trách nhiệm cho tội ác này. *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Cái Bẫy Chuột của tác giả Agatha Christie.