Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tất Cả Vì N

Trong một căn hộ tại tòa chung cư cao tầng “Skyrose Garden”, người ta đã phát hiện ra thi thể của Noguchi Takahiro và vợ bị chết trong hoàn cảnh kỳ lạ. Cùng ở trong căn hộ với họ lúc đó là bốn người trẻ hơn hai mươi tuổi, có nam có nữ. Qua những lời làm chứng của họ, một sự thật đáng kinh ngạc dần dần được hé lộ... N, nhân vật được mỗi người trong số họ dành tất cả tình thương mến, rốt cuộc là ai? Đây là tác phẩm trinh thám đầu tiên của Minato Kanae nói về tình yêu thuần khiết, mang đầy nỗi u buồn. *** Tất cả vì N tiếp nối thành công của tiểu thuyết đầu tay “Thú tội”. Tác phẩm không hề dễ đọc hoặc có những tình huống nghẹt thở và gay cấn như những tác phẩm khác, nhưng Tất cả vì N vẫn sẽ làm hài lòng những ai yêu mến Minato Kanae. Một vụ án với những lời khai chặt chẽ với nhau đến hoàn hảo, hung thủ cũng đã tìm ra, chân tướng đã lộ diện. Kết thúc? Không! Với cuốn sách này, yếu tố trinh thám chỉ là đòn bẩy để đẩy “tình yêu thuần khiết”  lên đỉnh điểm. Thế nhưng, vì yêu mà hận, mà tội lỗi thì cũng không còn quá xa lạ với dòng sách văn học hiện nay. Vậy điều gì khiến Tất cả vì N trở nên khác biệt? Nơi giao thoa của những “vết sẹo” quá khứ Mở ra bằng hình ảnh một cuộc thẩm tra, nhịp văn và cái bầu không khí lúc này khiến người ta ngột ngạt như thể đang ngồi trong chính căn phòng kín bị tra hỏi. Xoáy sâu vào đau thương, tác giả gắn kết 6 con người lại, mỗi người là một mảnh ghép của bức tranh đượm buồn mà điểm giao thoa giữa họ chính là những “vết sẹo” từ cả quá khứ lẫn hiện tại.  Một vụ án mạng, không quá bí ẩn, cũng không hẳn còn điều gì đó khúc mắc với những gì chúng ta có ban đầu, Minato Kanae đã dẫn dắt độc giả từ vạch đích, khi mà hung thủ đã lộ diện, bằng chứng gây án cùng những lời khai của những người liên quan đều trùng khớp một cách tuyệt đối.  Nhưng, quả thực không có gì là tuyệt đối, những thứ ta nhìn thấy ban đầu không phải hoàn toàn lúc nào cũng là sự thật, hoặc có thể đó chỉ là một nửa sự thật. Nửa còn lại được che dấu vì mỗi người đều hướng tới một điểm khác nhau, vì “người đó” mà hi sinh bản thân, nói dối, thậm chí trở thành kẻ sát nhân. Và cho đến cuối chuyện, sự thật ấy, mới thực sự lộ diện.  Chất “lạ” trong một cuốn sách tình yêu mang hơi thở trinh thám Thay vì sẽ có một “thám tử” lần theo dấu vết để chỉ ra hung thủ cùng cách thức gây án thì trong cuốn sách này, độc giả chính là người đóng vai trò ấy.  Và sự thật cũng không hiện hữu một cách rành mạch, như để khiến người đọc thêm lạc lối trong mê cung của sự tò mò mà cũng không kém phần rối trí, lời kể của các nhân vật không chỉ xuôi theo một trình tự nhất định mà luôn đan xen giữa thực tại và quá khứ. Có lẽ đây chính là thách thức dành cho độc giả tự mình sắp xếp, xâu chuỗi và tự mò mẫm lối thoát. Đây có thể được coi là một cuốn tiểu thuyết khá “lạ”, không chỉ so với những cuốn sách cùng thể loại mà còn so với giới tiểu thuyết nói chung. Cuốn sách dẫn dắt người đọc bằng ngôi kể thứ nhất, nhưng không phải chỉ có một người kể chuyện, mà ở đây là góc nhìn từ tất cả các nhân vật tham gia vào diễn biến câu chuyện chung, những người vẫn còn có thể lên tiếng.  Qua lời kể của mỗi cái tên N, câu chuyện dường như đi theo một hướng khác nhau, nhưng cũng nhờ đó mà diễn biến câu chuyện được nhìn một cách đa chiều, khiến con người ta có thể thấu hiểu tính cách và con người của nhân vật, cả cái cách nỗi đau quá khứ ảnh hưởng tới sự trưởng thành của một con người. Bức tranh xã hội phức tạp Hơn cả một cuốn tiểu thuyết trinh thám, ở Tất cả vì N hội tụ những góc khuất trong bức tranh xã hội phức tạp. Đó là nạn bạo lực gia đình, là những hành động kì quái và điên rồ- thứ mà mình phân vân đó có được gọi là trầm cảm hay không- đến từ đổ vỡ trong hôn nhân, từ khái niệm “yêu” và “được yêu” cho tới những thứ ẩn sâu trong bản chất con người, bên ngoài ánh hào quang hay ấn tượng ban đầu.  Thế nào là tình yêu thuần khiết? Có lẽ đây chính là câu hỏi lớn nhất được đặt ra xuyên suốt tác phẩm. Từ một phụ nữ đem tình yêu để bao biện cho hành vi bạo lực, cho tới đứa trẻ tự phủ nhận việc mình là một “đứa trẻ đáng thương” chỉ để giữ hình tượng đẹp về tình yêu. Tình yêu ở đây, nó là thứ mà con người ta luôn chấp mê bất ngộ mà chìm đắm để rồi khi quay về với thực tại thì không thể nào chấp nhận nổi, nhưng nó cũng là sự hi sinh thầm lặng, mỗi người chỉ nghĩ cho người quan trọng nhất với mình, đều tìm cách để người ấy không bị tổn thương. Giá trị đích thực của văn học Trong cuốn sách này cũng chứa đựng hai tác phẩm văn học nhỏ mà tác giả của chúng, Nishizaki, sau tất cả, có lẽ là người đáng thương nhất. Từ một đứa trẻ chạy trốn quá khứ, tìm đến văn học để cố chứng tỏ thứ “tình yêu” mà mình được nhận, vậy mà cho tới khi chấp nhận quá khứ và tưởng chừng tìm được chân ái, phút cuối cùng anh ta lại như bị phản bội, và rồi cũng chính vì tình yêu mà anh chấp nhận trở thành kẻ sát nhân. Hình ảnh Nishizaki hiện lên chẳng khác nào con chim thiêu thân trong tác phẩm của mình, cũng chính là hình ảnh xuất hiện ở bìa cuốn sách. Tất cả vì N mang tới cho độc giả một cái nhìn hoàn toàn mới về tình yêu, đây có thể là cuốn sách đáng lưu tâm, nhất là đối với những ai vừa hứng thú với thể loại tình cảm, vừa yêu thích thể loại trinh thám, nhưng cũng không hẳn là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc ngay từ cảm nhận ban đầu. Cuốn sách này sẽ dành để tư duy, nhìn nhận và suy luận nhiều hơn là chỉ những gì hiện hữu trên từng trang giấy! *** Tôi tên là Sugishita Nozomi, hai mươi hai tuổi. Là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Văn học Anh khoa Văn Đại học K. Địa chỉ các anh muốn hỏi là địa chỉ thường trú hay tạm trú? Hay cả hai? Địa chỉ thường trú của tôi là ở nhà số 5-37 thôn Aokage huyện XX, tỉnh Aichi. Vâng, nó là một ngôi làng, không phải trên đất liền đâu mà là làng trên đảo. Còn địa chỉ hiện tại của tôi là ở phòng số 102 nhà trọ Nobara-so, số 2-4, quận XX, Tokyo. Nó chỉ là một căn hộ cho thuê hai tầng tồi tàn bằng gỗ, không thể so sánh với khu chung cư cao cấp của anh Noguchi được. Tôi gặp vợ chồng anh Noguchi mùa hè hai năm về trước. Lúc đó tôi đang cùng với Ando - anh bạn thân hơn tôi một tuổi sống cùng nhà trọ - đi du lịch tới đảo Ishigaki ở Okinawa. Mục đích chuyến đi là để chúc mừng Ando vừa tìm được việc. Chúng tôi có duyên gặp vợ chồng anh Noguchi do cùng đi lặn biển với họ. Chúng tôi thuê một nhà nghỉ rẻ tiền do người dân mở, còn hai vợ chồng nhà họ ở tại một khách sạn nghỉ dưỡng nổi tiếng. Chúng tôi cùng thuê một tour dịch vụ lặn biển, cả bốn người đều lặn theo lộ trình cho người mới bắt đầu. Đây mới là lần lặn biển thứ năm của tôi và Ando, nhưng cũng chẳng sao vì tôi và cậu ấy dù không cùng quê quán nhưng từ khi còn nhỏ đều đã quen với biển, nên khi lặn xuống không có cảm giác “sợ sệt” gì cả. Thuyền chúng tôi cập bến ở một hòn đảo nhỏ không người. Chặng đầu tiên chạy từ bờ cát xuống nước, cái bình nặng trịch đeo sau lưng khiến chúng tôi muốn phàn nàn, nhưng rồi chúng tôi đã hoàn toàn mê mẩn ngắm nhìn những đàn cá nhiệt đới nhỏ nhiều màu hiện ra trước mắt mình. Ở chặng thứ hai, chúng tôi ra ngoài khơi bằng thuyền. Vùng biển này rất nổi tiếng vì có thể nhìn thấy cá nạng hải, chúng tôi quyết tâm đăng ký lộ trình đắt đỏ này cũng với hy vọng được ngắm chúng. Vậy mà chị Naoko - vợ anh Noguchi lại bị hoảng loạn khi đang lặn dưới tầm sâu mười mét. Chị ấy dù đã trèo lên thuyền nhưng vẫn không hết run, thế là chúng tôi đành quay về mà chưa kịp nhìn thấy gì. Thực sự chúng tôi đã thất vọng và định đòi họ trả lại nửa số tiền của chuyến đi, cũng may là tôi chưa kịp nói ra. Tối hôm ấy vợ chồng anh Noguchi mời chúng tôi đến khách sạn dùng bữa tối. Họ nói lý do là muốn xin lỗi, nhưng có vẻ anh Noguchi đã có ý mời chúng tôi từ trước đó rồi. Hồi ấy tôi và Ando mê chơi cờ shogi... sở thích chẳng hợp với một nữ sinh đại học như tôi nhỉ? Tôi được giáo viên dạy chơi cờ thời còn học cấp ba. Ở giờ nghỉ giải lao giữa chặng một và chặng hai, chúng tôi trải bàn cờ shogi di động dưới bóng cây dừa trên bãi biển, một tay cầm cơm nắm ăn trưa, tay còn lại di chuyển quân cờ. Anh Noguchi có vẻ cũng thích cờ shogi. Mặc dù chỉ nhìn từ xa nhưng anh cũng đã nhận ra trình độ của chúng tôi, bản thân anh hình như cũng muốn đọ với chúng tôi một ván. Nói “trình độ” vậy thôi chứ cả hai chúng tôi đều chỉ là dân nghiệp dư. Tôi chỉ đơn giản là bắt chước những gì đã học lỏm được từ các cao thủ cờ mình từng xem trên truyền hình mà thôi. Bữa tối hôm ấy rất tuyệt. Lần đầu tiên trong đời tôi được ăn con tôm hùm to như vậy đấy. Sau bữa tối chúng tôi lên quán bar sáng rực đèn ở tít trên tầng thượng. Chúng tôi cùng uống rượu và Ando đã nói chuyện suốt với anh Noguchi. Thật trùng hợp là công ty nhận Ando vào làm cũng chính là công ty anh Noguchi đang làm việc. Hai người họ đã đấu với nhau một ván cờ thay cho việc chào hỏi xã giao thường lệ. Tôi và chị Naoko vừa xem hai người họ đánh cờ, vừa nói chuyện. Phần lớn chủ đề câu chuyện xoay quanh lớp dạy nấu ăn mà chị Naoko đang theo học. Tôi có nhớ chị ấy từng nói, nếu sau này có dịp theo chồng đi công tác nước ngoài, việc tiếp khách bản địa ở nơi đó sẽ là bổn phận của người vợ. Chị tuy nấu ăn không ngon nhưng vì không muốn cản trở con đường thăng tiến của chồng, nên chừng nào còn ở Nhật Bản chị vẫn sẽ cố gắng học nấu ăn. Họ quả là một đôi vợ chồng lý tưởng. Anh Noguchi làm ở công ty thương mại M thuộc một công ty thương mại tổng hợp lớn, có vẻ ngoài ưa nhìn, cả cử chỉ và cách nói chuyện đều toát lên phong thái đĩnh đạc. Còn chị Naoko thì là con gái của vị quan chức, dáng cao da trắng đẹp như người mẫu, không chỉ thế tính cách cũng hiền dịu. Tôi và Ando đã luôn ngưỡng mộ họ kể từ lần đầu gặp mặt. Chúng tôi giống như thể đã được khai sáng - thì ra có những con người như thế này tồn tại thật. Sau đó chúng tôi được hai người họ mời đến thăm nhà sau khi về Tokyo, làm sao mà từ chối được chứ. Nhà của hai người họ ở tầng bốn mươi tám khu chung cư cao cấp “Skyrose Garden” năm mươi hai tầng nổi tiếng. Nhưng nghe nói đó cũng chỉ là nhà ở tạm thời khi hai vợ chồng còn ở Nhật Bản thôi, không biết sau này sẽ ra sao... Nghe nói anh Noguchi xuất thân từ một gia đình bề thế, nhưng chúng tôi chưa bao giờ được nghe anh kể chi tiết chuyện gia đình. Họ cũng từng vài lần mời chúng tôi đi ăn ở những nhà hàng cao cấp, loại được đánh dấu sao trên sách hướng dẫn du lịch ấy. Nhưng nếu chơi cờ tướng thì thường là họ mời chúng tôi đến nhà riêng. Mỗi tháng chúng tôi được mời qua chơi khoảng một, hai lần. Hầu như lần nào tôi cũng đi cùng Ando, nhưng tháng Tư năm ngoái Ando bắt đầu đi làm nên từ đó tôi hầu như ghé qua một mình. Xin đừng hiểu lầm, khi chúng tôi chơi cờ luôn có chị Naoko ở đó. Gần như toàn là Ando chơi cờ cùng anh Noguchi. Ando từng kể do làm cùng phòng với anh Noguchi nên giờ giải lao hay được anh rủ cùng chơi cờ. Tôi cũng nhiều lần cùng chị Naoko ra ngoài chơi. Khi thì đi xem phim, khi đi nghe nhạc, khi đi mua sắm, khi cùng đi ăn... Tôi được chị chiều chuộng như cô em gái nhỏ vậy. Em gái cơ đấy, tôi đúng là trơ trẽn thật nhỉ. Xét cả về ngoại hình lẫn học thức, chúng tôi đều một trời một vực mà. Chị Naoko có nói chưa từng sống một mình bao giờ nên muốn xem phòng của tôi ra sao, vì vậy chị đã ghé thăm căn hộ tồi tàn của tôi đúng một lần. Sau khi nhìn qua một lượt căn phòng rộng sáu chiếu và hầu như không có đồ đạc ấy, chị lặng thinh một lúc rồi như thể nhớ ra điều gì đó, thốt lên: “Căn phòng đẹp quá. Như thể ‘Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên’ vậy!” Tôi đâu có sở thích sưu tầm mấy món đồ vật nhỏ xinh, nội thất cũng chẳng gợi nhớ gì về cảnh đồng quê cả. Không lẽ chị thấy trong phòng tôi một chút không khí gì của những người đi khai phá, giống như bộ phim truyền hình đó sao? Vài ngày sau, chị gửi cho tôi một cái bàn trang điểm rất đẹp, giống kiểu nội thất người ta sắm sửa khi mới về làm dâu, bảo là để cảm ơn vì đã đi chơi cùng với chị. Nhưng đến khoảng tháng Mười một không thấy chị rủ tôi cùng đi đâu nữa. Tôi nhớ là mình chưa từng nói gì sai làm mất lòng chị. Lần cuối cùng gặp nhau chị còn nói về những dự định như là “Chị muốn đi ăn một bữa tối có nhạc sống” hay “Thấy bảo tháng sau có quán cà phê này sắp mở cửa, đẹp lắm đấy”. Tôi thấy hơi lo nên đã gửi tin nhắn đến di động của chị: “Đã lâu không gặp. Chị có khỏe không?” Nhưng tin nhắn không gửi đi được. Điện thoại cũng không gọi được nên ngày nghỉ tôi đành gọi điện vào số di động của anh Noguchi. Mặc dù vợ chồng anh Noguchi sống ở nơi đắt đỏ như vậy nhưng nhà lại không có điện thoại bàn, tôi cũng không có địa chỉ mail của anh. Sau khi nghe tôi nói không gọi được vào di động của chị Naoko, anh Noguchi lập tức chuyển máy cho chúng tôi nói chuyện. Chị nói “Chị xin lỗi, gần đây chị không được khỏe”, đúng như tôi đã đoán. Tôi ngạc nhiên khi nghe chị giải thích “Chị không đi ra ngoài, dùng điện thoại cũng chẳng để làm gì nên chị cắt luôn hợp đồng điện thoại”. Chị thì nói là không có chuyện gì, nhưng tôi chỉ lo chị có bệnh nặng gì đấy nhưng giấu tôi. Vì vậy, tôi rủ Ando - gần đây do bận bịu công việc nên ít qua lại với họ - cùng đến chung cư thăm chị. Chúng tôi đến vào trưa thứ Bảy của tuần thứ hai tháng Mười hai. Giọng nói của chị trên điện thoại nghe không được khỏe và khi gặp trực tiếp, tôi thấy da mặt vốn trắng trẻo của chị Naoko đã tái xanh, như thể khuôn mặt chị sắp trở nên trong suốt và biến mất vậy. Chỉ nhìn thôi tôi cũng thấy xót. Nhưng hai vợ chồng anh chị ấy vẫn ân cần tiếp đón chúng tôi. Nhà anh Noguchi có một phòng nhỏ dành cho sở thích cá nhân, kiểu giống như phòng đọc sách, hình như anh cũng thích nghe nhạc jazz nên phòng có cách âm. Chúng tôi thường chơi cờ trong phòng đó nhưng hôm ấy anh mang bàn cờ ra phòng khách và chơi cờ cùng Ando ở ngoài ấy, để lại tôi trong phòng pha trà và nói chuyện cùng chị Naoko. Lúc đầu tôi đã yên tâm vì có vẻ chị Naoko khỏe mạnh hơn ấn tượng khi thoạt nhìn, nhưng càng lúc tinh thần chị càng trở nên bất an, thỉnh thoảng chị lại im bặt không nói gì, nước mắt rơi lã chã, tay run rẩy. Anh Noguchi bình thường lúc chơi cờ tập trung đến mức điện thoại rung cũng không thèm nghe, nhưng có vẻ hôm ấy anh vừa chơi vừa để mắt đến chị Naoko. Đến khi chị Naoko đột ngột bật khóc to thành tiếng, anh lập tức đứng dậy vừa ôm chị vừa nói “Không sao, không sao mà” rồi dẫn chị vào phòng phía trong. Mang tiếng là đến thăm nhưng cảm giác như chúng tôi đang làm phiền vợ chồng họ vậy. Tôi và Ando xin lỗi anh Noguchi rồi xin phép ra về. Anh Noguchi tiễn chúng tôi ra cửa. Khi đến cửa cả hai cùng lúc nhận ra “Ơ, sao lại có cái này ở đây?” Không biết phải diễn đạt cảm giác khó hiểu lúc đó thế nào, chúng tôi chỉ nhìn chằm chằm vào vật ấy. Là cái khóa xích. Ngoài nó ra trên cánh cửa còn có hai chỗ bắt khóa nữa, dùng loại khóa tối tân mà tôi cũng không hiểu phần nào là khóa, có vẻ rất phù hợp với một chung cư an ninh cẩn mật, nhưng phía dưới chúng lại thêm một cái khóa xích - loại khóa rẻ tiền hay bán ở các siêu thị mà căn hộ nhà tôi cũng dùng. Thế nên chúng tôi mới thấy khó hiểu, nhưng không chỉ có thế.   Mời các bạn đón đọc Tất Cả Vì N của tác giả Minato Kanae & Nga Pháp (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Hùn Vốn - Erle Stanley Gardner
Cuốn sách thứ 17 về Luật Sư Perry Mason. Một cô chủ cửa hàng hoa bất ngờ biết rằng đối thủ của mình chơi xấu và có khả năng dành quyền kiểm soát công ty của mình, do đó cô một mặt điều tra và một mặt nhờ tới sự giúp đỡ của Mason. Tuy nhiên, tình hình không dừng lại ở đó khi mà đã có án mạng xảy ra... *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Trong phòng kính - làm việc của cửa hàng hoa Faulkner Mildreth Faulkner đang ngồi bên bàn, cẩn thận chọn một bông paxten(1) xanh. Cô luôn luôn dùng hoa paxten để điểm xuyết các kiểu xếp hoa của mình. Đặt bông hoa xuống bên trái tờ phác thảo phòng ăn của gia đình Ellsworth, cô bắt đầu nghiên cứu các mẫu xếp hài hòa với loại nến màu lá cây nhạt mà cô Ellsworth định dùng thắp sáng. Có tiếng gõ vào kính. Mildreth ngẩng lên và nhìn thấy Harry Peavis. Đẩy các bản vẽ sang một bên, cô ra hiệu mời khách vào. Ông khách nhận lời mời như một điều tất nhiên và không biểu lộ chút tình cảm nào. Đó là một người to lớn, xương xương, bắp thịt rắn chắc, vai và đôi bàn tay còn giữ được dấu vết của nghề chủ trại mà ông ta đã làm thời trai trẻ. Hiện tại, sau khi đã giàu có nhờ độc quyền gần như hoàn toàn ngành bán lẻ hoa; ông ta rất chịu khó phô mình trong tư thế một nhà kinh doanh vận đỏ. Những ngón tay bị biến dạng vì lao động nom thật lạc điệu với móng tay được gọt sửa và bộ com lê cắt quá đẹp của ông ta. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hùn Vốn của tác giả Erle Stanley Gardner.
Vị Giám Mục Nói Lắp - Erle Stanley Gardner
Erle Stanley Gardner sinh năm 1889 tại Malden, Massachusetts. Vì cha ông là một chuyên viên đào vàng nên ông phải đi theo đến các vùng khắc nghiệt suốt từ Klondike đến California. Là một gã con trai khỏe mạnh và hay gây gổ, ông đã tự tham dự một số cuộc đấu quyền anh nhà nghề được nhiều giải thưởng cho đến khi ông bị kẹt trong một vụ đấu bất hợp pháp và bị đưa ra trước pháp lý. Kinh nghiệm liên quan đến luật pháp này đã thúc đẩy ông trở thành một luật sư, và trong một thời gian ngắn làm việc ngày đêm, ông đã được chấp nhận là thành viên của Tòa án California khi ông vừa đúng 21 tuổi. Nhưng những ước vọng phiêu lưu của Gardner đã không thích hợp với đời sống bận rộn của một luật sư Tòa án, “Quá nhiều vụ án đến với tôi và tôi thấy mình chôn chân một chỗ” ông nói - “Vì vậy bên cạnh đó, tôi viết văn”. Năm đầu tiên ông kiếm được 974 đô-la, năm thứ năm là 6.627 đô-la. Trước khi ý thức được rằng ông đã tiến tới vị trí phải lựa chọn giữa viết văn và Luật pháp, ông đã bỏ ngành Luật pháp. Trong năm 1932 Gardner kiếm được 20.525 đô-la. Rồi sau chuyến đi Trung Quốc về, ông bắt đầu chăm chú viết nhiêu hơn, và kết quả là hai quyển sách đã được xuất bản vào năm đầu: Vụ án cô gái hay hờn dỗi (The Case of the Sulky Girl) và Vụ án móng vuốt bọc nhung (The Case of the Velvet Claws). Ngày nay các tác phẩm của Gardner rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Tất cả các ấn bản tổng cộng lại trên một triệu cuốn hàng năm. Sách của ông được in ra mười thứ tiếng và hầu như đều được dịch ra chữ Braille dùng cho người mù. Ông mất năm 1970. Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Cặp mắt Perry Mason chăm chú nhìn vào con người vừa dừng lại trước cửa văn phòng. “Xin mời Giám mục vào,” Mason nói. Người ngoài cửa vào có dáng mập và lùn, trong bộ áo nhà dòng màu đen, rộng thùng thình. Ông ta hơi cúi đầu bước lại chiếc ghế Mason ra hiệu mời ngồi. Phía trên vòng cổ trắng của chiếc áo nhà dòng là khuôn mặt sạm nắng với cặp mắt lóng lánh. Ông ta có đôi chân ngắn, bước đi những bước vững chắc trên đôi giầy đen đã khá mòn. Nhìn bước đi của vị khách, Mason cảm thấy đó là bước đi của một con người đầy nghị lực. Vị Giám mục ngồi xuống và hướng về phía Perry Mason. “Mời Giám mục dùng thuốc lá,” Mason nói và đẩy hộp thuốc về phía khách. Vị Giám mục đưa tay chận lại và nói, “Ca… Ca… Ca… Cảm ơn, tôi đã hút rồi. Tôi chỉ rít được có hai hơi rồi phải… ngừ… ngừng.” Đôi môi người khách run run ở nửa chữ cuối cùng. Khi vừa nói hết câu, ông cố tự chủ và nói tiếp, “Xin phép ông tôi hút píp.” “Xin cứ tự nhiên,” Mason nói và để ý thấy vị khách móc trong túi bên trái ra một chiếc píp to và ngắn trông cũng giống như hình dáng của ông ta. “Cô thư ký của tôi có nói, ông là Giám mục William Mallory thuộc địa phận Sydney của Úc Đại Lợi, ông muốn gặp tôi về một vụ án gây chết người, có phải vậy không?” vị luật sư lên tiếng phá vỡ bầu không khí ngượng ngập đang bao trùm vị khách. Giám mục Mallory gật đầu, ông ta lấy túi thuốc nhét đầy vào píp và ngậm chặt cán píp giữa hai hàm răng, rồi bật quẹt. Nhìn cung cách hai tay chụm lại che lửa, Mason không hiểu đó có phải là hành động gượng gạo, hay chỉ là do thói quen của vị khách. Mason chăm chú nhìn khuôn mặt thông minh cương nghị của khách và nói, “Xin mời Giám mục cứ tiếp tục.” Giám mục Mallory rít vài hơi cho thuốc cháy đều. Cung cách của ông rất chững chạc, nhưng vẫn toát ra một điều gì đó có vẻ không bình thường. “Tôi e rằng,” vị Giám mục nói, “sự hiểu biết về luật pháp của tôi quá hạn hẹp. Tôi muốn được biết rõ về những giới hạn của một vụ án g… g… gây chết người.” Lần thứ hai, vị Giám mục lại nói lắp. Ông cắn chặt răng trên cán chiếc píp và rít nhanh những hơi thật ngắn như để che giấu sự bối rối của mình. ... Mời các bạn đón đọc Vị Giám Mục Nói Lắp của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cháu Gái Người Mộng Du - Erle Stanley Gardner
Khi hai người kia đổi buồng ngủ trong một bữa tiệc thì ai cũng nghĩ rằng kẻ mộng du cầm dao đã giết nhầm người.... *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Luật sư Perry Mason đi đi lại lại trong văn phòng, hai ngón tay cái móc vào nách áo ghi-lê, vầng trán nhăn lại. Ông hỏi người phụ tá của mình: - Jackson, anh bảo hai giờ phải không? - Thưa vâng, tôi có dặn cô ta phải đúng giờ. Mason xem đồng hồ và cằn nhằn: - Trễ mười lăm phút rồi. Cô thư ký Della Street rời mắt khỏi cuốn sổ lớn, ngước nhìn lên hỏi: - Sao ông không từ chối cho xong? Mason đáp: - Vì tôi muốn gặp cô ta. Nghề luật sư thường trải qua nhiều vụ giết người nhàm chán mới mong gặp được điều thú vị. Vụ án này rất bình thường. Tôi thấy cần quan tâm đến nó. - Có thể có vụ giết người nhàm chán sao? - Jackson hỏi. - Ấy là sau khi ta đã gặp quá nhiều vụ rồi. Những người chết luôn luôn là điều nhàm chán. Chính kẻ còn sống mới quan trọng. Della Street nhìn Mason bằng đôi mắt náo nức và nhận xét: - Nhưng đây không phải là một vụ giết người. - Thế mà vẫn không kém phần lôi cuốn - Mason nói - Tôi không thích được gọi đến sau khi mọi dữ kiện đã được phơi bày trong suốt như pha lê. Tôi muốn đụng độ với những động cơ thúc đẩy lòng người và những mối hận thù. Giết người là đỉnh cao của hận thù cũng như hôn nhân là tột đỉnh của tình yêu. Dẫu sao hận thù vẫn mạnh hơn tình yêu. ... Mời các bạn đón đọc Cháu Gái Người Mộng Du của tác giả Erle Stanley Gardner.
THƯ
Tegami – Thư là câu chuyện về những lá thư trong tù của phạm nhân cướp của giết người Takeshima Tsuyoshi đến người em trai Takeshima Naoki. Nhưng Naoki lại chẳng mong muốn những lá thư đó gửi đến. Bởi đấy là minh chứng cho quá khứ, cho vết nhớ trong cuộc đời, cho định kiến mà miệng lưỡi thế gian dành cho anh – người nhà của phạm nhân. Cũng như bao cuốn sách khác của Higashino Keigo, tiểu thuyết Tegami – Thư không đặt nặng ở yếu tố trinh thám. Các sự kiện xuất phát từ một vụ án, liên quan đến chất phá án chỉ là chất xúc tác, là tầng đá vỉa bên ngoài để tạo tiền đề cho câu chuyện phát triển. Tầng sâu ý nghĩa của tác phẩm nằm ở tâm lý, suy nghĩ nội tâm của từng nhân vật; là cách tác giả dẫn truyện, làm cho câu chuyện chảy trôi đầy tự nhiên song cũng vô cùng ám ảnh, day dứt. Như hơi thở cuộc sống: lặng lẽ trôi đi đầy vô tình mà khiến cả người trong cuộc lẫn những người xung quanh, ngay chính độc giả, nghĩ mãi chẳng thể dứt ra. Cũng vì câu chuyện nhẹ về yếu tố trinh thám, nặng về yếu tố tâm lý nên có thể nói, Tegami – Thư có một cốt truyện, nội dung hết sức đơn giản: Hai anh em nhà Takeshima mồ hôi cả cha lẫn mẹ. Người anh Tsuyoshi, để thực hiện khát vọng giúp em trai là Naoki vào đại học, đã làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe kiệt quệ. Trong cơn tuyệt vọng vì thất nghiệp mà ngày thi đại học của em trai mỗi lúc một đến gần, Tsuyoshi đã gây ra tội ác: Cướp của giết người. Anh ta bị cảnh sát tóm gọn một cách nhanh chóng. Trong thời gian ở tù, Tsuyoshi được phép gửi cho em trai một lá thư vào mỗi tháng. Nhưng, một kẻ ở tù, cách xa với cuộc sống bên ngoài như Tsuyoshi, không biết được rằng sự tồn tại của anh ta, những lá thư mà anh ta gửi đã trở thành gánh nặng, bóng ma quá khứ mỗi lúc một đào sâu thêm sự định kiến mà người đời đối với Naoki, khiến cho Naoki, chẳng thể ngẩng mặt sống một cách chính trực trước cuộc đời.  Với một cốt truyện đơn giản như thế, cũng không đao to búa lớn như nhiều tác phẩm sau này hướng đến những gì quá vĩ mô như luật pháp của một đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường hay sự tồn vong của cả nhân loại…; Higashino Keigo đã tạo dựng được một tuyến nhân vật, không quá đông nhưng lại rất người, rất đời và rất thực.  Đó là Takeshima Tsuyoshi, gần như không thấy bóng, không thấy hình nhưng lại luôn hiện hữu qua từng lá thư anh ta gửi. Vẫn nói, Tsuyoshi ở từng lá thư cứ hồn nhiên, vô tư, không nghĩ đến cảm nhận của những người bên ngoài, song, liệu điều đó có thật không? Sự cô đơn của kẻ chỉ biết nhìn thời gian qua đi, sự sám hối ăn mòn một con người hiện tại và mãi mãi về sau, sự ăn năn khi đã gây ra khó khăn cho người em ruột anh ta hằng yêu quý… Tsuyoshi vô tư ư? Hẳn là không phải. Mà anh ta chỉ cố tỏ ra vô tư bởi anh ta hiểu, anh ta không có quyền để thể hiện nỗi cô đơn để từ đó, đòi hỏi Naoki hay gia đình nạn nhân bất cứ điều gì.  Tuy vậy, những lá thư của Tsuyoshi thực sự cần thiết? Về điều này lại chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng bởi nếu làm rõ trên khía cạnh nào, cũng đều thấy nó thật nghiệt ngã. Nhưng riêng với Tsuyoshi, viết thư là cần thiết. Bởi đó là cách duy nhất anh ta, một phạm nhân cướp của giết người, đã mất đi quyền công dân còn có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, là cách duy nhất anh ta khẳng định được rằng mình vẫn đang sống, đang tồn tại. Đó là Takeshima Naoki, em trai của hung thủ, người đã cố vẫy vùng để vượt thoát khỏi vết nhơ trong quá khứ để làm lại cuộc đời, mà càng vẫy vùng, Naoki như càng chìm sâu thêm vào vũng lầy vô định. Vũng lầy đó có tên là định kiến, là miệng lưỡi thế gian về cái danh người ta gán cho anh “em trai của tội phạm cướp của giết người”. Mà không chỉ Naoki của hiện tại, gia đình anh sau này cũng là nạn nhân của định kiến ấy. Vì thế, Naoki có những hành động hết sức cực đoan, đã từng thử đối mặt với tất cả, những đến cuối cùng, thứ anh nhận về chỉ là trái đắng. Để rồi chính Naoki cũng kì thị bản thân mình. Để anh nhận ra, cuộc đời anh là một bản nhạc buồn đầy tuyệt vọng. Cũng như việc, dù anh có đoạn tuyệt, cũng chẳng thể thay đổi được sự thật Takeshima Naoki là em trai của Takeshima Tsuyoshi. Có thể nói chăng, Naoki, có gì đó thật giống với Ryoji hay Yukiho và rất nhiều nhân vật khác trong sáng tác của Keigo-sensei, dù ở hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, mang số phận này hay số phận kia, tất cả đều như đang lần dần bước đi vào màn “đêm trắng” không lối thoát. Và mỗi chương truyện qua đi, lại xuất hiện những nhân vật, có thể chỉ thoáng qua, cũng có thể đóng vai trò chủ đạo trong chương đấy, dù là vô tình hay hữu ý, đang góp phần mỗi lúc một tô đậm thêm màn “đêm trắng” mà Naoki đang bước. Họ, có tên tuổi, danh tính, nhưng đều như đại diện cho hai chữ “định kiến”, hai tiếng “trừng phạt” cho tội ác mà Tsuyoshi gây ra. Đúng như ông Hirano đã từng nói: “Họ kì thị là lẽ đương nhiên”, “Tội phạm bắt buộc phải nhận thức được chuyện này. Vấn đề không phải cứ vào tù là xong. Họ phải hiểu rằng sự trừng phạt không chỉ nhắm vào mỗi mình họ”. Vì thế, đến cuối cùng, có lẽ chẳng thể trách cứ hay đổ lỗi cho bất cứ ai. Bởi mọi vấn đề, mọi suy nghĩ, mọi hành động của con người xuất hiện trên trang văn của Keigo-sensei đều hợp tình, hợp lý, hợp suy nghĩ mà một người bình thường sẽ nghĩ đến. Không thể yêu, không thể trách, không thể ghét hoàn toàn, chính vậy mà cõi lòng độc giả khi tiếp xúc với tuyến nhân vật trong Tegami – Thư lại càng thêm nặng nề, day dứt. Chẳng phải, con người vốn thích những gì rõ ràng sao? Nhưng bản chất đời sống lại chẳng khi nào rõ ràng, dễ dàng để người ta thấu hiểu, cắt nghĩa đến thế. Và mỗi bóng hình xuất hiện trong Thư, lại lần nữa xoáy sâu vào tâm trí những suy ngẫm, khắc khoải nhân sinh về hai tiếng con người, về hai chữ làm người giữa cuộc đời vốn thiện – ác đan xen như này. Tuy nhiên, giữa sắc màu u ám, trầm uất của Tegami – Thư, vẫn có những cá nhân như Kurata, Shiraishi Yumiko hay Terao Yusuke , để ít nhất, người đọc còn thấy điểm sáng giữa màn “đêm trắng”. Họ có thể là người cùng chung hoàn cảnh như Naoki nên dễ đồng cảm, thấu hiểu cho nỗi đau của anh từ tận đáy lòng. Đó có thể người bạn chơi với Naoki bằng tất cả sự vô tư, trong sáng, hào sảng, nghĩa hiệp nhất. Họ là tình đời, tình người, để đến tận cùng, Tegami – Thư có đau thương, tuyệt vọng, có nghiệt ngã, tăm tối đến thế nào cũng vẫn còn hi vọng le lói về tương lai hay ngày mai. Được viết vào năm 2003, có thể nói, mọi bối cảnh, không gian trong Tegami – Thư so với thời điểm hiện đại đều khá cổ kính. Nhưng chính sự cổ kính đó lại hợp với bầu không khí ngột ngạt, u ám như đêm trường bất tận đến lạ. Một không khí rất Nhật với những con người mất đi căn cước, đang vẫy vùng để có thể nói được lên tiếng nói cá nhân, để chứng minh rằng bản thân đang tồn tại giữa cuộc đời. Một Tsuyoshi mất quyền công dân vì làm điều ác vẫn cố níu giữ chút niềm con người cuối cùng qua việc anh ta viết thư đến những người xung quanh. Một Naoki muốn chối bỏ thân phận thật là em trai kẻ sát nhân để dựng lên căn cước mới, hi vọng có cuộc đời tươi đẹp hơn. Một Shiraishi luôn muốn Naoki sống thật mạnh mẽ, đường hoàng nhưng chính bản thân cô lại luôn sống trong cảnh lo âu, sợ sệt, chui lủi vì món nợ của người cha. Một Yusuke vật lộn trong ngành giải trí chỉ để khẳng định được cái tôi với quan điểm nghệ thuật: âm nhạc phải là âm nhạc, ở đó trước là chuyên chở tài năng của người nghệ sĩ, sau đấy mới đến thỏa mãn phục vụ số đông khán giả… Những con người của năm 2003, nhưng dưới ngòi bút của Keigo-sensei, lại hiện lên như con người Nhật Bản thời hiện đại nói riêng, như con người nói chung.  Ngoài một không khí cùng những con người rất Nhật để tạo nên cái riêng cho tác phẩm, Tegami – Thư còn là câu chuyện chung của con người trên thế giới, về tâm lý chung của loài người khi đối diện với những kẻ “lạc loài”, những ai thuộc về phần thiểu số. Phải, đó là tội phạm và người thân của tội phạm.  Nếu như trong Akui – Ác ý, thành kiến tạo nên ác ý, từ ác ý mà cấu thành tội ác; thành kiến đó, xuất phát từ sự đớn hèn, từ sự giáo dục của gia đình, nhà trường. Thì đến với Tegami – Thư, vẫn là câu chuyện thành kiến ấy nhưng định kiến bây giờ xuất phát từ chính tâm lý chung của người đời khi đứng trước tội ác. Kẻ phạm tội chịu sự phán xét của pháp luật, còn người thân của họ sẽ phải chịu phán xét của người đời: bị đối xử như người ngoài lề, bị xa lánh, kì thị… dù bản thân người đó không làm bất cứ điều gì sai. Keigo-sensei đã gọi đó là tâm lý tự bảo vệ, hành vi “chống phân biệt đối xử”, hay chính là phản xạ tự nhiên, không điều kiện của con người khi gặp phải một sự việc, trái với đường ray, quỹ đạo cuộc sống yên bình. Luật pháp, có thể chỉ là một thứ “thánh giá rỗng”, nhưng miệng lưỡi thế gian chính là thứ luật không tên, không văn bản ràng buộc tất cả những ai trong cuộc: cả kẻ phạm tội, gia đình tội phạm, và cả nạn nhân nữa. Nhưng vì thế mà thứ luật không thành văn đẩy người trong cuộc mãi chìm sâu vào vũng lầy, vào “đêm trắng” chẳng thấy ngày mai. Đó là sự trừng đầy nghiệt ngã, đau đớn với một bộ phận thiểu số kia. Đến nỗi, lúc Naoki đủ dũng khí đối diện với người anh trai sau khi đã trải qua đủ thương đau, vẫy vùng mọi cách để vượt thoát quá khứ, vẫn nghẹn lại mà thốt lên: “Anh ơi! Naoki thầm gọi trong tim. Tại sao chúng ta lại sinh ra trên đời này”. Bài hát Imagine Naoki đã từng cất tiếng hát, xuất hiện thấp thoáng, trở đi trở lại, làm thành kết cấu đầu cuối tương ứng cho Tegami – Thư như chính nguyện vọng Naoki đã từng: một thế giới không còn ranh giới, một thế giới chẳng có phân chia, định kiến. Để rồi, Naoki lại chẳng thể cất tiếng hát lên lần nữa, bởi anh đã hiểu, nguyện vọng đó mãi chỉ lại vọng tưởng trước hiện thực tăm tối, phũ phàng. Bên cạnh vấn đề : “Thành kiến trong lòng người khác như ngọn núi lớn, cho dù ngươi có cố dịch chuyển thế nào cũng chỉ là mơ mộng hão huyền.” (Thân Công Báo – Na Tra Ma đồng giáng thế), Tegami – Thư còn là câu chuyện về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời đầy những sự kiện mà chẳng ai có thể lường đến. Ngay lúc gây ra tội ác, Tsuyoshi đã đứng trước muôn vàn chọn lựa: có tiếp tục việc trộm cắp không? Có nên ở lại lấy gói hạt dẻ rang đường, có nên ở lại xem tivi, có nên giết người? Khi vào tù lại là việc lựa chọn: gặp em trai hay là không, viết thư hay là không? Naoki phải lựa chọn cách sống làm sao với cái danh em trai của kẻ cướp của giết người: đánh đổi ước mơ, tình yêu, công việc, và cuối cùng là mối quan hệ đầy oan trái,… Và cả những người khác nữa. Không biết chọn lựa đó là đúng hay sai, có giải quyết được tận gốc vấn đề hay không nhưng con người vẫn phải không ngừng lựa chọn cách sống, lối sống, tâm thế trước trường đời.  Cuốn sách khép lại dưới hình thức mở, Higashino Keigo không nói tiếp đến cuộc đời Naoki, cũng không kể tiếp đến tương lai lúc Tsuyoshi ra tù. Chặng đường tiếp theo của hai anh em, vẫn tiếp tục là những phép thử và sai, bởi cuộc đời phía trước, còn nhiều lắm đau thương. Vì thế, với Tegami – Thư, độc giả có thể khóc khi người trong cuộc nói được lên tiếng nói từ tận đáy sâu tâm hồn họ, sau rất nhiều nghẹn ngào mà sáng tác của Keigo-sensei mang lại trước giờ. Tegami – Thư, câu chuyện được kể từ hai điểm nhìn, hai ngôi kể: điểm nhìn của Tsuyoshi với ngôi kể thứ nhất qua những lá thư hắn gửi; điểm nhìn của Naoki với ngôi kể thứ ba qua cuộc sống anh phải trải qua sau ngày Tsuyoshi bị bắt giữ. Bởi thế, Keigo-sensei đã tạo lên được hai không gian truyện, hai tâm thế con người rất khác biệt: không gian trong tù và không gian ngoài xã hội, tâm lý tội phạm và tâm lý người nhà phạm nhân; cùng với đó là các mối quan hệ xã hội không dễ gì có thể làm ngơ, chối bỏ. Một tác phẩm, tưởng rằng nói lên những vấn đề cá nhân hết sức nhỏ nhặt, mà lại day dứt, ám ảnh lòng người mãi không thôi. Một câu chuyện, chứa đựng những khắc khoải nhân sinh mà chẳng ai có thể phân rõ đúng – sai, thiện – ác. Để rồi, trang sách cuối còn mở, mà những nghẹn ngào đã chảy thành nước mắt từ khi nào chẳng rõ.  Mọt Mọt review *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... *** Tsuyoshi nhằm vào ngôi nhà đó không vì lý do gì đặc biệt, chẳng qua do hắn đã biết trước phần nào tình hình nơi ấy mà thôi. Nhưng khi quyết định phạm tội, hình ảnh đầu tiên thoáng qua trong đầu hắn lại là bà Ogata với mái tóc bạc trắng chải chuốt gọn gàng cùng lối ăn mặc thanh lịch quý phái. “Cảm ơn cậu nhé! Còn trẻ thế này mà đã đi làm. Tháo vát quá!” Bà lão vừa nói vừa chìa cho Tsuyoshi một phong bì nhỏ. Mở ra, hắn thấy bên trong là ba tờ 1000 yên. Từ ngày làm công nhân chuyển nhà đến giờ, đây là lần đầu tiên hắn được boa nhiều tới vậy. Nhìn nét mặt đủ biết bà là người tử tế. Khi bà mỉm cười, từng nếp nhăn cũng toát lên vẻ hiền hậu. Tsuyoshi gật đầu qua quýt tỏ ý cảm ơn, đàn anh đi cùng thấy vậy liền mắng, “Này, cảm ơn cho cẩn thận đi.” Đó là chuyện của bốn năm trước, khi Tsuyoshi vừa tròn 19 tuổi. Từ thời Edo, phố Kiba quận Koto đã có rất nhiều hàng buôn gỗ, cái tên Kiba có lẽ cũng bắt nguồn từ đó. Trên xe tải tới nhà bà Ogata, đàn anh kể với Tsuyoshi rằng gia đình Ogata một thời cũng từng buôn gỗ. Tuy nhiên, việc kinh doanh chỉ được thời gian đầu, hiện giờ thu nhập chủ yếu của nhà Ogata lại là tiền thu về khi sử dụng chính khu đất đã từng kinh doanh gỗ ngày trước vào việc khác. “Thế nên họ chẳng cần làm gì vẫn được ăn sung mặc sướng.” Đàn anh nói với giọng đầy thèm muốn. “Ngoài bãi đỗ xe, chắc chắn họ còn có cả chung cư và căn hộ cao cấp. Một mình bà lão làm sao tiêu hết, nên cứ mỗi tháng lại tích được một khoản. Anh con trai vừa đòi có nhà riêng là bà ấy rút ngay ra một xấp tiền lớn.” “Nhà mới của anh con trai là bà ấy mua cho ạ?” Tsuyoshi ngạc nhiên hỏi. “Chẳng biết nữa, nhưng chắc là vậy. Nghe nói anh ta không nối nghiệp gia đình. Nếu chỉ là người làm công ăn lương bình thường, làm sao mua nổi nhà.” Rõ ràng đàn anh tự suy diễn, nhưng khi tới nhà Ogata, Tsuyoshi nhận ra không phải tất cả suy diễn đều là vô căn cứ. Họ ở căn biệt thự một tầng trên khoảnh đất rất rộng, pha trộn phong cách Nhật và Tây ít thấy vào thời đó. Đối diện biệt thự là bãi đỗ xe thu phí tháng cũng treo biển hiệu Ogata. Phía Nam biệt thự là khoảnh vườn rộng đủ xây một ngôi nhà nhỏ, bên trong có một con chó to cỡ con bê đang đi đi lại lại. Bà lão nói nó thuộc giống chó núi Pyrenees. Con chó chưa nhìn thấy nhóm Tsuyoshi đã xồ lên sủa hung hãn. Chắc nó đánh hơi thấy người lạ trước cả khi người ta kịp xuất hiện. “Ồn ào quá, con kia!” Đàn anh vừa quát vừa bọc chống sốc quanh tủ. Tuy đã bị nhốt vào chuồng nhưng con chó vẫn sủa liên hồi suốt thời gian họ làm việc. Một đàn anh khác bảo, “Cũng nhờ có nó mà bà lão sẽ an tâm hơn khi sống một mình. Chắc bình thường không xích lại đâu. Tên trộm nào dám trèo tường vào nhà, nó sẽ nhào ra cắn ngay.” Công việc lần này là chuyển đồ cho gia đình người con trai cả ra ở riêng. Con trai bà cụ là một tên gầy gò ngoài bốn mươi tuổi, lầm lì ít nói, hoàn toàn thờ ơ với việc chuyển nhà. Trong khi đó chị vợ mập mạp lại hồ hởi ra mặt, đầu óc chỉ chăm chăm hướng về ngôi nhà mới chứ chẳng buồn bận tâm đến ngôi nhà mà họ sắp rời đi. Đàn anh lại bắt đầu suy diễn đủ điều, “Người chồng tính tình nhu nhược, bị vợ dắt mũi nên mới buộc phải chuyển đi. Thông thường cứ xây sửa lại nhà cũ là xong, nhưng như vậy bà lão sẽ tiếp tục sống chung với họ. Chắc hẳn người đứng tên ngôi nhà này cũng là bà lão, gia đình người con trai khác nào ăn nhờ ở đậu. Chị con dâu mập ú chẳng vui vẻ gì chuyện này nên mới bắt anh chồng phải mua nhà riêng. Cậu nhìn mà xem, vẻ mặt chị ta cứ như thể ‘từ nay thoát cũi sổ lồng’ vậy.” Đàn anh vừa nói vừa nhếch mép cười. Sau khi chất hết hành lý lên xe, nhóm Tsuyoshi tới chào bà lão. Bà không đi cùng sang nhà mới để giám sát việc dỡ đồ. Bà cổ vũ riêng Tsuyoshi, “Cố gắng lên nhé.” Chắc vì thấy hắn trẻ người nhất và cũng non dạ nhất. “Vâng!” Tsuyoshi khẽ gật đầu. Khoảng một năm sau, gần nhà Ogata lại có người muốn chuyển nhà. Buổi trưa, sau khi ăn xong cơm hộp mua ở cửa hàng tiện lợi gần đó, Tsuyoshi đi bộ tới nhà Ogata. Bức tường đá oai nghiêm không khác gì một năm trước. Nhưng khi bước lại gần cổng, tự nhiên hắn thấy khang khác mà chính hắn cũng không hiểu tại sao. Cho tới khi tiến về phía vườn, hắn mới nhận ra không còn tiếng sủa của con chó to ngày nọ nữa. Hắn đứng cạnh tường đá thử dòm vào trong vườn. Cái chuồng vẫn ở đó nhưng không thấy bóng dáng con chó đâu. Hắn chắc mẩm nó chỉ đang đi dạo loanh quanh cùng bà lão thôi. Bỗng hắn nhận ra ngay cạnh chuồng dựng một thanh gỗ dài, bên trên treo vòng cổ màu xanh. Tsuyoshi nhớ đó là vòng cổ của con Pyrenees. Tsuyoshi thầm nghĩ, hẳn bà lão phải rất cô đơn khi con trai rời khỏi nhà và con chó yêu quý cũng ra đi. Đây là điều duy nhất thoáng qua trong đầu hắn tại giây phút đó. Chỉ là những suy nghĩ tản mạn, chứ hắn tuyệt nhiên không có ý hãm hại bà lão giàu có sống một mình. Thậm chí suốt ba năm tiếp theo, hắn cũng chưa một lần nhớ về bà. Có lẽ nếu không lâm vào cảnh cùng cực như hiện giờ, suốt đời này hắn cũng chẳng nhớ tới bà nữa. Hắn tiến lại gần. Biệt thự với kiến trúc kết hợp hài hòa hai phong cách Đông-Tây nằm lặng lẽ giữa tường bao bằng đá. Gió mùa này bắt đầu se lạnh. Chỉ tầm một tháng nữa thôi, người ta sẽ phải co rúm vai lại cho bớt khó chịu khi đi trên đường. Tiếp đến sẽ là tháng Chạp, rồi tháng Giêng. Đến lúc ấy đường phố chắc chắn sẽ rất đông đúc, người người qua lại tấp nập. Vì có công việc nên họ mới chạy đây chạy đó. Vì có tiền nên họ mới hào hứng phấn khởi. Còn mình không có cả hai. Hắn không cần tiền mua bánh Giáng sinh hay mochi cho năm mới. Thứ mà Tsuyoshi muốn là khoản tiền đủ làm yên lòng Naoki, để thằng bé khỏi phải trăn trở về việc thi đại học nữa. Tsuyoshi bắt đầu mơ mộng hão huyền. Nếu có số tiền này trong tay, đầu tiên hắn sẽ đem gửi ngân hàng rồi cho Naoki xem sổ, “Thế nào, dù không kể với em nhưng anh đã tiết kiệm được bao nhiêu đây. Với chỗ tiền này anh cóc sợ phí dự thi hay phí nhập học nữa, em không việc gì phải lo lắng cả.” Tsuyoshi biết Naoki đang dần mất niềm tin vào việc thi lên đại học. Hắn cũng biết thằng bé bí mật đi làm thêm. Thằng bé sợ anh giận nên chưa dám nói, nhưng đã bắt đầu âm thầm tìm hiểu các công ty. Hắn biết nếu không mau mau nghĩ cách thì không kịp mất, nhưng hiện giờ, hắn không những không có tiền để gửi tiết kiệm, mà còn mất luôn cả cần câu cơm. Hắn nghỉ việc ở công ty chuyển nhà đã hai tháng nay. Nguyên nhân trực tiếp là bởi đau hông và đầu gối. Vốn dĩ hắn cũng không phải nhân viên chính thức nên không thể xin điều chuyển sang bộ phận khác. Ngoài ra, hắn còn làm nhân viên chuyển đồ nội thất, nhưng hợp đồng với bên đó cũng chấm dứt rồi. Hân là kẻ vụng về và có trí nhớ kém. Điều duy nhất hắn tự tin về bản thân là thể lực nên mới chọn những công việc kiểu này làm kế sinh nhai, rốt cuộc lại hủy hoại chính sức khỏe mình. Không có thể trạng tốt thì chẳng nơi nào chịu thuê. Cho đến tuần trước hắn vẫn còn đi giao đồ ăn, chẳng may đang giao hàng thì hông đau dữ dội, thùng đồ ăn rơi tung tóe, nên lại bị sa thải. Muốn đi làm ở công trường, e rằng sức không chịu nổi. Suy tính chán chê, hắn vẫn không tìm ra lối thoát nào. Người ta nói hiện giờ cả thế giới đều khó khăn, Tsuyoshi lại thấy ngoài hắn ra hình như ai cũng giàu có. Dạo này mấy cửa hàng giá rẻ rất được ưa chuộng, nhưng giá có rẻ hay không cũng chỉ quan trọng với người có khả năng mua được. Hắn cho rằng thực phẩm lành mạnh trở nên thịnh hành như vậy đều do người ta sống quá dư dả. Giá như họ chia cho hắn một phần nhỏ của sự dư dả đó thì tốt biết bao. Hắn không cổ xúy người nghèo nên đi ăn trộm, nhưng giờ hắn không nghĩ ra được cách nào khác. Dù có than thở hay cầu nguyện, tiền cũng không thể tự nhiên mà có, xem ra hắn chỉ còn cách tự thân vận động mà thôi. Trong đầu hắn hiện lên khuôn mặt hiền hậu của bà Ogata. Bà lão tiền nhiều vô kể, lấy trộm một ít cũng chẳng phải chuyện gì nghiêm trọng. Nếu biết kẻ trộm là một người khốn khổ như hắn, có khi bà lại tha thứ cũng nên. Nhưng tốt nhất vẫn không nên để bà phát hiện ra. Tsuyoshi đảo mắt nhìn quanh. Cả khu phố gồm toàn nhà dân xen lẫn vài công xưởng nhỏ, hầu như không có cửa hàng. Chắc vì vậy mới không thấy bóng dáng ai đi lại trên đường. Ngay bên cạnh có vài chung cư, nhưng cổng chính đều dẫn thẳng ra đường lớn nên cư dân ở đó rất ít khi bén mảng ra con phố phía sau. Cái bóng nhỏ thó của hắn đổ trên mặt đường nhựa. Hắn không rõ thời gian chính xác, chắc khoảng 3 giờ chiều gì đấy. Mười phút trước, hắn có xem giờ lúc vào cửa hàng tiện lợi. Hắn vào để mua găng tay. Trước khi tới đây, hắn đã quên khuấy mất chuyện sẽ để lại dấu vân tay. Hắn biết hiện giờ nhà Ogata đi vắng hết. Ban nãy hắn đã thử gọi bằng điện thoại công cộng ở bên ngoài cửa hàng tiện lợi. Hắn lấy số từ biển hiệu của bãi đỗ xe đối diện nhà Ogata. Điện thoại có kết nối, nhưng âm thanh vang lên lại là tiếng hệ thống trả lời tự động. Tsuyoshi từ từ tiếp cận cổng nhà Ogata. Tất nhiên hắn cũng do dự. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi trước khi đến được cổng, hắn tự hỏi tự đáp không biết bao lần. “Làm thế này có ổn thật không? Đương nhiên là không. Nhưng đâu còn cách nào khác. Đằng nào cũng chỉ có thể ăn trộm, thôi thì đi trộm của người giàu vậy. Nếu bị bắt thì phải làm sao? Không, không có chuyện bị bắt đâu. Trong ngôi nhà này chỉ có bà lão sống một mình, chẳng may bị phát hiện thì cứ chạy trốn là xong. Không thể nào bị tóm được.”   Mời các bạn đón đọc THƯ của tác giả Higashino Keigo.