Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mặt Chó Sói - Mishima Yukio

Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Hà Linh -  Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm".   Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Rodder lao ra ngoài, tay cầm súng lục. Ambler muốn lên tiếng cảnh báo đồng bọn, nhưng muộn rồi: Justus đập cho gã đàn ông một đòn chí mạng. Rodder ngã văng khỏi lan-can và đập mạnh thân hình xuống nước. Hài lòng, Justus theo những bậc thang trèo lên. - Bây giờ đến lượt các người đi tắm! - cậu nói lớn rồi cười. Nhưng chẳng còn mấy thời gian để mà tận hưởng mùi vị chiến thắng, việc đầu tiên là phải giúp Sandy và Bob trèo lên tàu, sau đó lao xuống cabin giải phóng cho Peter. Rodder bận bịu với việc giữ cho Ambler ngoi được cổ lên trên mặt nước. Khẩu súng lục của gã bây giờ nằm thật chắc chắn dưới đáy biển. - Kéo bọn tao lên tàu ngay lập tức, - Rodder ra lệnh. - Lũ chuột cống nhà chúng mầy! Bob lắc đầu, nhưng cũng ném cho Rodder và Ambler hai chiếc phao cứu hộ. Chầm chậm, con tàu bị gió và những dòng nước cuốn dần ra phía biển. Justus lại bước ra ngoài, đi sát phía sau là Peter. Hãnh diện, Thám tử phó cầm " người đẹp Helena" trong tay. - Cảm ơn các bạn, - Cậu nói rồi giơ bức tượng cho nó lóng lánh trong ánh nắng. - Cha, Rodder, gió lại xoay chiều rất nhanh! Rodder buông ra một câu chửi tục, trong khi Ambler loay hoay với chiếc phao cứu hộ. Thất bình tĩnh, Sandy vởi bộ chân nhái của cô. - Bây giờ mình sẽ gọi điện đàm cho cảnh sát, - cô gái nói. - Mình biết sử dụng loại máy đó. Justus gật đầu với cô. - Bạn bảo họ mang theo một cái lưới đánh cá, - cậu nói. - Bọn ta vừa bắt được cả hai con cá to sù. - Cậu ngồi xuống bên mép tàu, để cho hai chân thõng xuống, đu đưa nhè nhẹ. - Cái phương pháp đánh lạc hướng bằng thư gửi đã được ông phát triển nên từ thời còn ở New York, ông Rodder. Nó cũng có phần nhắm chứng tỏ là mình tài năng hơn cảnh sát, những người đã đuổi việc ông. Và chắc vì vậy mà ông cũng sữ dụng mặt nạ chó sói: ông có cảm giác như mình là một con chó sói bị đuổi ra khỏi đàn. Rodder ném cho cậu một cái nhìn huỷ diệt, nhưng chỉ giúp cho Justus nhận rõ là cậu phỏng đoán đúng. - lẽ ra chúng tôi phải nghĩ đến sớm hơn mới phải, - Peter bổ sung. Cậu ngồi xuống bên cạnh Justus. - Theo tắc thì kể cả hai tội phạm đầu tiên, vụ ăn trộm ở cửa hàng Outdoor World và vụ ăn trộm súng bắn tỉa cũng như những lời trích dẫn tứ bài hát đều chỉ nhằm hướng chúng tôi về phía lý thuyết của một vụ ám sát tổng thống. Đấy là hoàn toàn chưa kể đến cái mặt nạ tổng thống kia. Ambler, kẻ vừa chui được người vào giữa chiếc phao cứu hộ, giờ lên tiếng ngắt lời Peter. - Nhưng để tìm ra được lời của bài hát đó, bọn nhóc các cậu cũng phải cần rất nhiều thời gian! - Nhưng vẫn còn nhanh hơn là cảnh sát, - Bob chen vào. - Nhanh hơn cả các chuyên viên tâm lý. Justus cởi chiếc áo lặn ra. Bài báo mà cậu luôn mang trong người bây giờ ướt sũng, dán sát vào da thịt. Thận trọng, cậu gỡ mảnh giấy ra, nhưng lại ngay lập tức bóp nát nó. - Đáng tiếc, - Justus nói. - Giờ tôi không thể cho hai người xem được nữa. Đây là một bức ảnh rất thú vị, anh Ambler. Nó cho thấy anh đã quen ông Rodder từ thời còn ở New York, chắc là thời anh học đại học. Anh đã mê mẩn gã tội phạm kia. kể từ vụ nầy anh muốn kết hợp hai mục đích với nhau. Thứ nhất là vụ ăn trộm bức tượng và thứ hai… tại sao anh không ngửi được chị Harding, Ambler? - Cô ta cuỗm mất chỗ của tôi, - Ambler kêu lên và đạp chân, muốn lại gần con tàu thêm một chút. - Lẽ ra tôi là người nhận được công việc tại Los Angeles. Nhưng rồi đột ngột xuất hiện cái con bé hỉ mũi chưa sạch đó, mới từ trường đại học ra, và ngồi ngay xuống trước mặt tôi. Còn cái tay Cotta nhà các cậu lại chính là kẻ viết thư giới thiệu nó! - Tôi cũng đã đoán như vậy. - Justus gật đầu. - Và anh biết là chị Harding đã làm bài tốt nghiệp về vụ ám sát tổng thống Kennedy. Vì thế mà anh viết những bức thư theo hướng nầy. Nữ chuyên viên tâm lý từ đó không còn nghĩ được đến một thứ gì khác ngoài một vụ ám sát tổng thống. Bản thân chuyên viên tâm lý Harding trong vụ nầy cũng bị đẩy vào một góc tranh tối tranh sáng. Đối với anh, Ambler, dĩ nhiên là một thắng lợi bổ sung. Tôi cũng phải công nhận rằng đến cả bản thân tôi cũng đã có ý nghi ngờ chị Harding. - Có thế chứ, - Ambler nói. - Ta đã khoái trá khôn tả khi nhìn hai con gà trống choai chọi với nhau. Một trận chiến cạnh tranh thật sự! - Nhưng mà chúng tôi có ba người, - Peter lên tiếng sau một cái liếc xéo về phía Justus. - Anh Ambler, làm thế nào mà anh ăn cắp được khẩu súng của cảnh sát? Trò leo tường bình thường ra vốn là đặc sản của Rodder? - Cái đó các cậu phải tìm ra thôi, các cậu thông minh lắm kia mà, - Ambler kêu lên. - Không thành vấn đề! - Justus thẳng lưng dậy. - Anh đâu có vào phòng qua đường cửa sổ. Chỉ giả bộ thế thôi. Anh muốn tô đắp thêm cho cái huyền thoại Mặt Chó Sói. Mãi sau nầy tôi mới hiểu ra. Những miếng kính cửa sổ nằm không đúng chỗ! Anh Ambler, anh đã mở cửa sổ từ phía trong phòng rồi sau đó mới đập vỡ kính. Những miếng kính vỡ đó nằm sát chân tường! - Đúng, đúng, phải! - Ambler mỗi lúc một bực bội hơn. - Bây giờ cho tôi lên. Tôi không ở dưới nầy lâu hơn được nữa! - Thế bằng cách nào mà anh vào được phòng đựng vũ khí? - Peter hỏi, không thèm để ý đến lời đề nghị của đối phương. - Chỉ là cái trò ăn cắp cỏn con thôi, - Ambler uể oải nói. - Tôi đã rút chiếc chìa khoá của tay hạ sĩ trực rồi lại kịp thời đút lại chỗ cũ. Đoạn dây đã được tôi buộc từ trên nóc nhà thõng xuống dưới từ trước. Bob nhận thấy cả đám mỗi lúc một bị cuốn ra xa bờ hơn. - Để mình ném mỏ neo xuống, - cậu nói. Justus gật đầu. Bob giơ cao mỏ neo và ném nó qua thành tàu. Vài giây đồng hồ sau, con tàu rùng mình nhẹ. Bây giờ nó nằm yên. - Ra là bọn mày biết tất cả, - Rodder kêu lên. - Thế bây giờ tao có thể hỏi chút được không? Nầy cái thằng béo lắm lời kia, tại sao mà mày lại chui vào cửa hàng của ông Laurent? Toàn bộ chuyện chó chết nầy khởi đầu từ đó! - Chút nữa đã, Rodder, tôi còn chưa hỏi hết! - Peter, Bob và Sandy nhìn Justus đầy khấp khởi. Cậu nói tiếp. - Tôi nghĩ là tiện thể ở đây, ta có thể giải thích luôn cả một câu chuyện khác nữa, Rodder. Đi cùng với " người đẹp Helena" là bức tượng của hoàng tử Paris, bức tượng đã biến mất cách đây vài năm. Cho tới nay chưa có ai nghi ngờ là ông có liên quan tới vụ ăn trộm đó! Nhưng thủ phạm cũng chính là ông, Rodder! Qua ánh mắt ngạc nhiên của Mặt Chó Sói, Justus thấy rõ: cậu vừa bắn trúng hồng tâm. - Đúng thế, cú điện thoại ban nãy của ông đã khiến tôi nghĩ đến khả năng nầy. Ông đã xoáy Paris trước đây vài năm. Và bây giờ ông muốn bán thêm cho nhà sưu tầm tư nhân giàu có của mình cả bức tượng quý báu thứ hai, người đẹp Helena. Cho một giá tiền đặt trước không nhỏ, ông lại một lần nữa lao vào trò ăn cắp! - Làm sao mà mày biết đó là một nhà sưu tầm tư nhân? - Rodder kêu lên, tiếng kêu đồng thời cũng là lời công nhận. - Chắc chắn phải là một người tư nhân, Mặt Chó Sói, - Justus trả lời. - Mà là một người có rất nhiều tiền. Người ta không thể bán những bức tượng đó ở thị trường tự do. Chuyên gia nào cũng biết chúng. Rodder đầu hàng. - Bọn mày thông minh thật đấy, mấy thằng nhóc! Đó là một người đàn ông giàu có trong ngành làm phim, nhưng tao thậm chí chưa biết tên ông ấy. Thế, bây giờ cho bọn tao lên tàu đi! Sandy trỏ về phía bờ biển, nơi có một con tàu cảnh sát đang lại gần. - Cha, - Justus chuyển sang lời kết luận. - Cái chuyến du lịch dễ chịu của hai người vậy là không thành rồi. Chắc là cú ăn trộm nầy sẽ mang lại đủ tiền để cả hai người sống thoải mái cho đến cuối đời? Hơn nữa vụ ăn trộm bức tượng Paris chắc chắn cũng còn để lại một vài dollar. - Đúng thế!, - Rodder gầm lên. - Và chuyện thối nhất là để cho lũ nhóc con bọn mầy chen vào giữa. Tất cả là lỗi của Scott! - gã nhìn Ambler, kẻ vẫn đang tiếp tục vùng vẫy bên cái phao cứu hộ. - Bây giờ mày vẫn còn tin đám nhóc con nầy là một luồng gió mát chứ? Ambler phun ra một ngụm nước biển, không nói nửa lời. Gã ta quá mệt, không còn sức đâu mà cãi cọ. Justus lại lật cho đoạn thang chĩa xuống nước. Con tàu cảnh sát bây giờ đã đến rất gần. Cậu thấy rõ thanh tra Cotta đứng trên boong. Chị Hannah Harding đứng cạnh ông và vẫy tay về phía họ. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Chó Sói của tác giả Mishima Yukio.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng
Bạn có một ý tưởng rất hay nhưng không thể trình bày với sếp của mình? Bạn rất yêu một cô gái nhưng không biết tỏ tình làm sao? Bạn muốn xin một sự giúp đỡ? Rất nhiều tình huống trong cuộc sống mà khả năng trình bày của bạn có thể cứu sống chính bạn. Theo nghiên cứu thì con người ta còn sợ thuyết trình trước đám đông hơn là sợ chết? Người ta thà chết con hơn phải là đứng trước đám đông. Đơn giản vì bạn có thể nghĩ mọi người đang dò xét bạn. Bạn không tốt chỗ này, không tốt chỗ kia. Một tỉ câu chuyện cổ tích mà bạn có thể tự vẽ ra. Mà bạn quên mất một điều rằng mọi thứ đều có chiến lược, phương pháp để làm nó. Trong cuốn sách này tác giả sẽ chỉ cho bạn các bước chi tiết để có thể tạo ra một bài thuyết trình ấn tượng, mở ra nhiều cơ hội cho bạn. Giúp bạn quy phục lòng người, chinh phục thành công. Dale Carnegie sẽ chỉ cho bạn cách làm thế nào để: - Phát huy tính tự chủ - Lấy lại tự tin - Tăng cường trí nhớ - Bắt đầu và kết thúc một bài nói - Hấp dẫn và lôi cuốn người nghe - Hoàn thiện phong cách diễn đạt Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng: Đưa ra nhiều cách có giá trị thực tiễn trong việc cảm hóa những người đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của bạn như: Bạn bè, khách hàng, đồng nghiệp và cấp trên của bạn... Những kiến thức trong cuốn sách này đã được hơn một triệu học sinh các khóa học Dale Carnegie nổi tiếng thế giới đào tạo "nghệ thuật nói trước công chúng" và đã sử dụng thành công. Đây là cuốn sách cho tất cả những ai muốn tiến lên phía trước. Như những gì tác giả đã thể hiện trong cuốn sách, các kỹ xảo giúp bạn vượt qua sự e ngại khán giả, sẽ giúp bạn trong mọi tình huống trong cuộc sống. *** Trong rất nhiều năm. Dale Carnegie là tác giả nổi tiếng với những cuốn sách viết về cách có thêm bạn bè và thuyết phục người khác. “Cách có thêm bạn bè và thuyết phục người khác” là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong mọi thời đại và đã khiến Dale nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng đó chưa phải cuốn sách được phát hành đầu tiên của ông. Năm 1926, Dale Carnegie viết cuốn sách có tựa đề “Diễn thuyết trước công chúng” và “Thuyết phục người khác trong kinh doanh”. Đây là cuốn sách về diễn thuyết trước công chúng, và đến nay vẫn được coi là giáo trình chính thức của những khóa học nổi tiếng do Dale Carnegie tổ chức về Diễn thuyết trước công chúng và Các mối quan hệ của con người. Đây cũng được coi như cuốn giáo trình cho khóa học diễn thuyết Y.M.C.A. Trong vòng mười năm, cuốn sách này đã bán được 600.000 bản và tổng số bản sách bìa cứng đã bán được trên toàn thế giới là 1.000.000 bản. Cuốn sách đã được xuất bản bằng khoảng hai mươi thứ tiếng trên thế giới và đã bán được hàng nghìn bản dưới các ngôn ngữ này. Tuy nhiên, đó vẫn chưa là cuốn sách được đa số công chúng độc giả biết đến. Các khóa học của Dale Carnegie đã diễn ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã có hơn 1.000.000 người đã hoàn thành các khóa học này. Những khóa học đã giúp con người ta trở nên dũng cảm hơn, hạnh phúc hơn và thành công hơn trong cuộc sống do chúng đã giúp họ phát huy được khả năng của bản thân mình. “Diễn thuyết trước công chúng - cách giúp tăng sự tự tin và thuyết phục người khác” chứa đựng rất nhiều những lời khuyên khôn ngoan giúp người đọc đạt được các mục tiêu mà mình đề ra. Sau khi đọc kỹ lại cuốn sách, tôi đã biết được có bao nhiêu quy luật khôn ngoan để vượt qua nỗi sợ hãi và giành lấy sự tự tin trong cuốn sách này. Những phương pháp mang tính lý thuyết và những gợi ý đã bổ sung thêm những quy luật giúp mọi người gặp nhau, dù là cá nhân hay theo nhóm, và nói chuyện một cách thật hiệu quả. Tôi thật sự hy vọng rằng người đọc sẽ học được nhiều điều từ cuốn sách, giống như hàng ngàn học viên của các khóa học Dale Carnegie trên toàn thế giới trong nhiều năm qua. DOROTHY CARNEGIE. *** Từ năm 1912 đến nay, đã có hơn năm trăm nghìn người, cả nam lẫn nữ đã tham gia những khoá học diễn thuyết trước công chúng sử dụng phương pháp dạy của tôi. Rất nhiều người trong số họ đã từng viết thư cho tôi giải thích lý do họ tham gia khoá học đó và những gì họ mong đợi đạt được từ khoá học đó. Theo lẽ thường tình, mỗi người có cách diễn đạt khác nhau, nhưng đáng ngạc nhiên là, trong hầu hết các lá thư đó đều thể hiện một mong muốn như nhau. Người nào cũng viết đại ý: “Khi tôi bị gọi lên phát biểu, tôi bỗng cảm thấy rất lúng lúng, rất sợ hãi. Do đó tôi không thể suy nghĩ mạch lạc, không thể tập trung, không thể nhớ những gì tôi đã dự định sẽ nói từ trước. Tôi muốn trở nên tự tin, điềm tĩnh và có khả năng tự suy nghĩ. Tôi muốn sắp xếp các suy nghĩ của tôi theo một trình tự hợp lý và tôi muốn tôi có thể phát biểu ý kiến của mình một cách rõ ràng và thuyết phục trước công ty, câu lạc bộ hay trước rất nhiều người nghe”. Hàng nghìn người có ý kiến tương tự như vậy. Sau đây tôi sẽ kể cho các bạn nghe một trường hợp điển hình. Nhiều năm trước đây, đã có một quý ông trung niên tên là D. W. Ghent tham dự khoá học thuyết trình trước công chúng của tôi tại Philadenphia. Đây là người có một cuộc sống khá năng động. Ông đã thành lập và làm chủ một cơ sở sản xuất riêng, là người lãnh đạo trong các hoạt động quần chúng và trong các công việc của nhà thờ. Chỉ ít lâu sau buổi học đầu tiên, ông ta đã mời tôi cùng ăn trưa tại câu lạc bộ Manufacturer. Trong bữa ăn, ông ta ngồi dựa vào bàn và nói: “Đã rất nhiều lần tôi được đề nghị phát biểu trước đám đông, nhưng chưa bao giờ tôi có đủ khả năng làm được điều đó. Những lúc đó, tôi bỗng trở nên cuống quýt, đầu óc tôi trở nên trống rỗng và tôi luôn phải lẩn tránh việc này. Nhưng bây giờ, tôi đang giữ cương vị chủ tịch một hội đồng gồm ủy ban quản trị các trường đại học. Tôi phải làm chủ tọa các buổi họp của hội đồng. Và đương nhiên là tôi sẽ phải nói đôi điều gì đó trong các cuộc họp đó... Liệu ông có nghĩ tôi có thể học cách nói khi đã vào tuổi này rồi hay không?” “Ông hỏi tôi sẽ nghĩ như thế nào ư, ông Ghent?”, tôi đáp, “Vấn đề không phải là tôi nghĩ ra sao. Vấn đề là tôi biết ông có thể làm được điều đó, và tôi biết ông sẽ làm được, chỉ cần ông luyện tập và làm theo những chỉ dẫn của tôi mà thôi.” Ông ta rất muốn tin những gì tôi nói, nhưng dường như điều đó quá lạc quan, quá tốt đẹp. “Tôi e là ông chỉ nói như thế vì lòng tốt mà thôi”, ông ta trả lời, “và ông nói thế chỉ cố để khích lệ tôi mà thôi”. Sau khi kết thúc khoá học đó, chúng tôi mất liên lạc một thời gian. Sau đó, chúng tôi có dịp gặp lại và cùng ăn trưa với nhau tại câu lạc bộ Manufacturer. Hai chúng tôi lại ngồi ở góc cũ, đúng chiếc bàn mà chúng tôi đã ngồi trong lần đầu tiên đến đây cùng nhau. Nhắc lại câu chuyện trước đây, tôi có hỏi liệu tôi có đã quá lạc quan hay không. Để trả lời, ông ta lôi từ trong túi áo ra một cuốn vở có gáy màu đỏ và cho tôi xem một danh sách các ngày và buổi nói chuyện mà ông được mời tới diễn thuyết. Ông ta thừa nhận: “Và khả năng để thực hiện những điều này, niềm vui của tôi khi được làm những việc này, cùng những đóng góp của tôi đối với cộng đồng là một trong những gì khiến tôi cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời tôi”. Sau đó ít lâu, một hội nghị quan trọng về giải trừ quân bị được tổ chức tại Oasinhtơn. Khi biết Thủ tướng Anh có kế hoạch sẽ tham gia hội nghị này, những người theo Đạo Tin Lành ở Philadelphia đã đánh điện mời Thủ tướng tới nói chuyện trong một cuộc gặp mặt của đông đảo quần chúng sẽ được tổ chức tại đây. Và ông Ghent đã thông báo cho tôi biết rằng, trong số tất cả những người theo Đạo Tin lành ở thành phố này, chính ông đã được chọn làm người giới thiệu Thủ tướng Anh với người nghe trong buổi gặp mặt hôm đó. Và đó chính là người đàn ông đã ngồi cùng một bàn với tôi gần ba năm về trước mà đã rất nghiêm túc hỏi tôi nghĩ thế nào về việc liệu ông ấy có thể nói trước đám đông được hay không. Nhưng như vậy có phải tốc độ phát triển kỹ năng nói của ông ta nhanh quá mức bình thuờng không? Không hẳn là như vậy. Đã có hàng trăm tình huống tương tự xảy ra. Câu chuyện tiếp theo đây sẽ là một ví dụ cụ thể khác. Nhiều năm trước đây, một bác sỹ điều trị ở Brooklyn, bác sỹ Curtis, đã nghỉ đông ở Florida, gần bãi tập của câu lạc bộ bóng chày Những người khổng lồ (Giants), vốn là một cổ động viên nhiệt tình của môn thể thao này, ông ta thường đến đây xem các cầu thủ tập luyện. Dần dần, ông trở nên quen thân với đội bóng, và đã được mời tham dự một bữa tiệc thân mật của đội bóng. Sau khi uống trà, một vài vị khách quan trọng được mời “phát biểu vài lời”. Đột nhiên, giữa lúc ồn ã đó, bác sỹ Curtis bỗng nghe người chủ tiệc bữa tiệc nói: “Hôm nay, trong bữa tiệc này có một bác sỹ điều trị cùng dự với chúng ta. Và sau đây tôi xin mời Bác sỹ Curtis sẽ nói với chúng ta về vấn đề Sức khỏe của các cầu thủ bóng chày”. Liệu Bác sỹ Curtis có biết về chủ đề đó không? Đương nhiên là có. Ông ấy biết rõ hơn bất cứ ai trên thế giới này: ông đã từng học về vệ sinh, đã thực hiện việc khám bệnh và điều trị đã gần một phần ba thế kỷ. Ông có thể ngồi tại chỗ và nói về chủ đề này suốt đêm cho những người ngồi xung quanh ông cùng nghe. Nhưng phải đứng dậy và nói trước một nhóm các khán giả như trong bữa tiệc này lại là vấn đề khác. Đó là vấn đề do tâm lý sợ hãi gây ra. Lúc đó, tim ông bỗng đập nhanh gấp hai lần bình thường, và cứ thế đập liên tục. Trong cuộc đời mình, ông chưa bao giờ diễn thuyết trước đám đông và tất cả những gì ông nghĩ đến lúc đó chỉ là làm thế nào để mọc cánh bay thoát ra khỏi chỗ đó. Ông ấy phải làm gì bây giờ? Khản giả vỗ tay ào ào, mọi người đều nhìn về phía ông. Bác sỹ Curtis lắc đầu, nhưng hành động này chỉ càng khiến khán giả vỗ tay to hơn. Mọi người hò reo yêu cầu bác sỹ Curtis phát biểu. Tiếng hô “Bác sỹ Curtis! Phát biểu đi! Phát biểu đi!” ngày càng to và cương quyết hơn. Bác sỹ Curtis lúc đó thật sự rất đáng thương. Ông hiểu ràng nếu ông đứng dậy nói, ông sẽ thất bại, vì ông không thể nói được quá sáu câu. Và thế là ông đứng dậy, nhưng không nói một lời nào, quay lưng lại với các bạn của mình và lặng lẽ rời khỏi phòng trong tâm trạng xấu hổ vô cùng và như vừa bị hạ nhục. Thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên là khi việc đầu tiên bác sỹ Curtis làm sau sự việc trên lúc trở về Brooklyn là tham gia lớp học về diễn thuyết trước công chúng của tôi. Ông không muốn bị xấu hổ ê chề như thế thêm một lần nào nữa. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng của tác giả Dale Carnegie.
Cáp Treo Tình Yêu
Tác phẩm mới nhất đến từ nhà văn trinh thám hàng đầu Nhật Bản Keigo Higashino. Trong tuần đầu tiên xuất bản (01/11/2016), Cáp treo tình yêu đã nắm giữ vị trí đầu trong bảng doanh số hàng tuần. Và tiếp tục ở trong top 10 nhiều tuần sau đó. Một nữ nhân viên văn phòng bị hôn phu phản bội... Một chàng trai ôm mộng tìm được tình yêu đích thực sau năm lần bảy lượt thất bại tình trường... Một cô gái trẻ gặp phải gã đàn ông dối trá... Một cặp đôi mới cưới vướng vào rắc rối với bố mẹ vợ... Mỗi người họ đều ôm trong lòng nỗi phiền muộn riêng. Những cuộc đời tưởng chừng như không có điểm giao thoa ấy lại được gắn kết với nhau tại một khu trượt tuyết lạ kỳ, nơi có khả năng phơi bày sự thật và những điều thầm kín dù chúng ta có được con người ta che đậy kỹ càng tới đâu. Vậy, sự thật liệu có luôn là điều mà con người ta muốn biết? Đứng trước tình yêu, con người sẽ trở nên thảm hại, ích kỷ, hoặc nhiều dũng khí đến thế nào? Những tình tiết bất ngờ trong Cáp treo tình yêu sẽ khiến bạn phải bật cười và tự hỏi điều gì tiếp theo có thể xảy ra. --- Một số thành tích nổi bật: - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số của các nhà sách Kinokuniya - Đứng đầu bảng xếp hạng tổng doanh số theo tuần của Nippan tháng 2 năm 2018, tác phẩm được mua bản quyền và xuất bản sang tiếng Hàn. Lập tức lọt top những tác phẩm bán chạy nhất Hàn Quốc. Cùng trong top 10 đó là tác phẩm “Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya” . - Được mua bản quyền dịch bởi Trung Quốc đại lục, Đài Loan và Hàn Quốc. *** Cáp treo tình yêu (Koi no gondora) cuốn tiểu thuyết như một thử nghiệm mới mẻ của Higashino Keigo trên mọi phương diện từ chủ đề, đề tài, kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, trong bối cảnh tên tuổi ông  đã quá nổi danh, đồng thời những đỉnh cao trong sự nghiệp của Keigo-sensei, phần lớn đã tập trung trong những năm cuối 9x, đầu 2000. Những thể nghiệm mới của Higashino Keigo ở cuốn sách xuất bản năm 2016. Trước hết, cần phải nói rằng, Koi no gondora – Cáp treo tình yêu, đúng như tựa đề, cuốn sách chỉ là những mẩu chuyện tình yêu đầy màu sắc, muôn hình muôn vẻ: hạnh phúc, trọn vẹn, viên mãn có; đau đớn, khổ đau, nghiệt ngã cũng có. Nhưng tuyệt nhiên, tác phẩm ấy không dính dáng chút gì đến thể loại trinh thám, điều tra, phá án. Vì thế, nếu bạn kiếm tìm ở Cáp treo tình yêu một câu chuyện chứa những cú twist liên tục, khiến bạn đi từ hết bất ngờ này tới bất ngờ khác như Phía sau nghi can X, Ác ý; hay một câu chuyện tạo nên bầu không khí đặc quánh đêm đen như Bạch dạ hành hay chứa đựng day dứt ám ảnh như Thư; hoặc ẩn chứa vấn đề vĩ mô như Thánh giá rỗng, Phương trình hạ chí… thì chắc chắn một điều, bạn sẽ phải thất vọng. Nói như thế để thấy, tiếp cận Cáp treo tình yêu, độc giả trước tiên cần giữ một thái độ không mang định kiến, trung lập hết sức và hãy tạm thời quên đi, cái danh mà trước nay vẫn thường gán cho Keigo tiên sinh: “tác giả viết truyện trinh thám”. Để thấy rằng, ở sáng tác này, Higashino Keigo đã có những thể nghiệm để làm mới bản thân trên hầu khắp mọi khía cạnh: từ chủ đề, đề tài đến cách thể hiện chủ đề, đề tài đó, cách tạo dựng nhân vật tới cách đặt điểm nhìn trần thuật của tác phẩm. Về đề tài, thật sự, rất hiếm thấy hay có thể nói là gần như không có một tác phẩm của Keigo-sensei lại chỉ gói gọn trong đề tài tình yêu như Koi no gondora. Đó là những câu chuyện tình yêu cá nhân hết sức vụn vặt, nhỏ nhặt gắn liền với một khu trượt tuyết: vùng núi suối nước nóng Satozawa; gắn liền với những chiếc cáp treo chuyên chở tình cảm, và cũng chở cả bao bí mật của những người đang yêu. Đó có thể là câu chuyện về tình cảm gia đình gắn liền với niềm yêu thích một bộ môn thể thao. Đó có thể là sự đơn phương của một chàng trai tốt bụng nhưng lại như luôn vô duyên với phụ nữ. Đó có thể là những phản bôi, tan vỡ, tái hợp của một cặp đôi khi người đàn ông đã từng phản bội người phụ nữ. Hay đó cũng có thể là sự tác hợp của bạn bè đến với cặp đôi khác, vẫn dùng dằng chưa quyết… Vẫn với kết cấu quen thuộc trong sáng tác của Higashino Keigo: kết cấu truyện lồng truyện, tạo cho tác phẩm một cấu trúc vòng cung, trùng điệp, đầu cuối tương ứng: hình ảnh cáp treo xuyên suốt tác phẩm, mở ra không gian sáng tác và cũng khép lại những câu chuyện nhỏ vụn vặt. Nhưng ở Cáp treo tình yêu, độc giả thấy được một Higashino Keigo, đang trên đường đổi mới chính mình. Ở đây, tác giả đã cố gắng tập trung vào một đề tài thường nhật hết mực. Không gian truyện gần như gói gọn ở một địa điểm; thời gian truyện, dẫu có nhắc tới quá khứ cũng là một quá khứ gần của nhân vật chứ không kéo dài quá xa. Nên có thể nói, chí ít, Cáp treo tình yêu vừa mang tới những cảm xúc khác nhau qua từng chương, từng câu chuyện của một nhân vật; song cũng vừa mang tới nét lạ lẫm về một Higashino Keigo đã gần gũi, đời thường trong một áng văn nhẹ dịu, ít bất ngờ đến thế. Chính vì đề tài, cách triển khai cốt truyện như vậy mà hệ thống nhân vật trong Cáp treo tình yêu cũng được thu hẹp lại. Và ở đó, đều là những cá nhân hết sức đời thường. Họ không gắn với bất kỳ một vụ án nào, họ chẳng phải nghi can, chẳng phải hung thủ hay nạn nhân của một án mạng nào đấy cần phải tìm lời giải đáp. Họ sống một cuộc sống đời thực, yêu ghét, hận thù, đơn phương, tin tưởng, hi vọng rồi thất vọng. Vì thế, mỗi cá nhân, mỗi con người xuất hiện trên trang văn của Higashino Keigo trong Cáp treo tình yêu, như trở nên gần gũi, đời thực hơn. Bởi một sự thật, con người chúng ta, trong nhịp chảy đời sống thường nhật, đâu dễ dàng để liên đới trực tiếp tới một vụ án mạng nào đấy. Cho nên, với truyện vụ án, ta có thể đồng cảm với nhân vật, cuốn hút theo hành trình truy tìm sự thật của một vụ án song lại rất khó để đặt bản thân vào vị trí một người trong cuộc. Nhưng ở Cáp treo tình yêu thì khác. Người đọc có thể rất dễ nhìn thấy bóng hình người cũ phụ bạc trong hình ảnh Kota, một người đàn ông “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo” trong hình ảnh Mizuki, một anh chàng ngờ nghệch trên mọi phương diện tình trường như Hida… Vì vậy, có thể không có một nhân vật đặc biệt nổi trội hẳn lên như các tác phẩm trước đấy, nhưng với Cáp treo tình yêu, Higashino Keigo đã ngày càng tiệm cận trong việc đi gần hơn tới đời sống cùng muôn mặt con người. Đổi mới không có nghĩa là hoàn toàn thành công. Thông thường, khi độc giả đã quá quen với phong cách sáng tác của một tác giả, hoặc khi mặc nhiên gắn tên tuổi tác giả đó với một thể loại riêng biệt, thì sẽ rất khó để dễ dàng tiếp nhận một tác phẩm mới, trái ngược hoàn toàn với phong cách trước giờ của con người ấy. Và chính bản thân tác giả đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, cũng chẳng thể đảm bảo sẽ tạo ra một tác phẩm hoàn thiện, thành công trên mọi phương diện. Trường hợp của Koi no gondora – Cáp treo tình yêu cũng như vậy. Để rồi, chúng ta – những độc giả khi đã giữ thái độ trung dung nhất đón đọc cuốn sách sẽ đủ khoan dung mà không phủ nhận sạch trơn mọi cố gắng, nỗ lực của Keigo-sensei trong việc đổi mới bản thân; song cũng vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra những thiếu sót ở tác phẩm gần 300 này. Một điều dễ nhận thấy, Cáp treo tình yêu, dẫu đã kéo đề tài về gần với đời sống cùng tâm lý thực của con người nhất, thì đây vẫn như một dạng bình mới rượu cũ trong kho tàng sáng tác đồ sộ mang tên Higashino Keigo. Nói như thế không có nghĩa mâu thuẫn với những gì đã viết ở phía trên; bởi dẫu đã cố gắng đổi mới thì một cây viết gạo cội như Keigo-sensei hẳn từ lâu đã hình thành một phong cách sáng tác cố định cũng như một lối mòn ở tư duy nghệ thuật. Chính vì thế, ở Cáp treo tình yêu dù đề tài, không gian tác phẩm được thu hẹp lại thì vẫn có nét tương đồng rất lớn với những sáng tác khác của Higashino Keigo, đặc biệt là Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya. Vẫn là kết cấu: mỗi chương là một câu chuyện riêng biệt song mọi liên hệ cuối cùng lại quy về một địa điểm như mối cơ duyên tiền định của tạo hóa. Tuy nhiên, Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya sử dụng cách trần thuật như vậy và thành công, bởi Keigo-sensei đã xây dựng lên đủ muôn mặt kiếp người với những số phận khác nhau, trong những chiều không gian, thời gian khác nhau mà hình ảnh tiệm tạp hóa Namiya hiện lên chỉ mang ý nghĩa một địa điểm trung chuyển hiện tại – quá khứ – tương lai. Còn với trường hợp của Cáp treo tình yêu, Keigo-sensei sử dụng cách kể như thế với đề tài, không gian hẹp vô hình chung khiên cốt truyện bị xé nhỏ. Thêm việc tác giả vẫn giữ lối viết vừa muốn đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, vừa muốn tạo khoảng trắng bất ngờ để độc giả liên tưởng lại càng làm cho tình tiết truyện tủn mủn, nát vụn. Đặc biệt, nếu chỉ viết riêng về tình yêu, không mở rộng đề tài, không gắn liền cốt truyện với một vụ án nào đấy; quả thực, bút lực của Higashino Keigo có phần khá yếu. Người đọc vẫn thấy trên trang sách những chi tiết mang đậm đặc trưng cảnh sắc, văn hóa, con người Nhật Bản. Song tình tiết truyện lại có phần nghèo nàn, cách triển khai tâm lý, tình cảm nhân vật có phần non nớt, muốn đào sâu vào nội tâm con người mà chẳng thể đi được tới tận đáy sâu những xúc cảm của một cô gái đang yêu, một anh chàng cục mịch nhút nhát, một anh chàng đào hoa hay xúc cảm một người phụ nữ bị phụ bạc… Có lẽ, đây chính là tác phẩm dễ khiến độc giả cảm thấy thất vọng nhất về cách Higashino Keigo khai thác, miêu tả tâm lý nhân vật. *** Sau khi trượt tuyết được một hiệp, Kota quay trở lại trạm lên cáp treo. Ở đây, người ta đang xếp thành một hàng dài, hơn cả những gì anh tưởng tượng. Vừa tháo đai trượt tuyết khỏi giày, Kota vừa tặc lưỡi. “Sao mà đột nhiên đông người thế không biết?” “Không phải bây giờ là lúc xe buýt chở khách du lịch đi theo đoàn đến sao?” Momomi đã tháo xong giày và đang ngồi trên tuyết. Cô ôm ván trượt, từ từ đứng dậy. Cô mặc một chiếc áo jacket kẻ trắng, hồng kết hợp cùng quần màu xanh lá cây. Theo như lời Momomi thì bộ quần áo này gợi cho ta liên tưởng tới một cây đào. “À, cũng có thể. Chẹp, đen quá. Đúng lúc anh lại đang có hứng.” “Anh vội gì chứ? Em thấy có sao đâu nhỉ. Ta cứ thong thả mà trượt thôi.” Kể ra thì Momomi nói cũng đúng. Bởi vì mục đích chuyến du lịch lần này của Kota không phải là việc tận hưởng những cú bay người tuyệt đẹp trên tuyết bột hay cú rẽ cắt ngang bề mặt lớp tuyết phủ dày bằng mép ván, mà quan trọng nhất vẫn là việc được trải qua quãng thời gian vui vẻ cùng với Momomi. “Anh có vội gì đâu. Nhưng anh không nghĩ Momomi lại trượt giỏi đến thế này nên anh đang thấy rất phấn khích.” “Ôi, cũng bình thường thôi mà. Anh Kota mới siêu ấy. Ban nãy, anh vừa trượt xoay ngược ván phải không? Cả xoay ván một trăm tám mươi độ nữa.” Kota phổng mũi vì những lời khen ngợi của Momomi. Hình như Momomi đã rất chăm chú dõi theo màn biểu diễn trổ tài kỹ thuật trượt ván của anh. “Mấy thứ đó có là gì đâu em.” “Ôi, vậy ư? Em thì lại nghĩ nó điêu luyện tới mức người thường không thể làm được đâu.” “Em cứ nói quá. Ai mà chẳng làm được. Ngay cả Momomi, chỉ cần luyện tập một chút cũng sẽ trượt được ngay thôi.” “Có thật thế không?” “Anh đã nói được là được. Lần tới, Momomi thử sức xem sao.” “Ối, em không làm được đâu.” “Không làm được là thế nào? Em nên biết thách thức bản thân mình. Ta sẽ không nghỉ cho tới khi thực hiện được nó.” “Ôi, chiến binh quả cảm!” Momomi nói với vẻ thích thú. Đương nhiên, Kota cũng thấy thú vị không kém. Hai người họ cùng ôm ván trượt và đứng xếp vào cuối hàng. Ngay lập tức, có một nhóm những cô gái từ đâu đến đứng nối ngay sau Kota và Momomi. Đám người đó khá là ồn ào nhưng nó khiến cho bầu không khí xung quanh trở nên sôi nổi hơn. Nghe nói hằng năm số lượng khách tới trượt tuyết ngày càng giảm đi, vậy mà riêng hôm nay có vẻ khu trượt tuyết lại náo nhiệt hơn thường lệ. Mặc dù khách đứng xếp hàng rất đông, nhưng mọi người vẫn tiến về phía trước, từng chút một. “Dù sao thì chúng ta cũng đã thật may mắn vì điều kiện khá thuận lợi.” Momomi nói. Kota nhìn thấy được nụ cười dịu nhẹ của Momomi hiện ra giữa kính trượt tuyết và lớp khăn quàng cổ giữ ấm rất dày. “Đúng thế nhỉ. Anh không nghĩ tuyết lại đẹp đến vậy. Thật tốt biết bao khi điều mà dự báo thời tiết nói đã không xảy ra, tại vì anh đã nghe người ta bảo là có thể có cả mưa nữa.” “Trời mưa sẽ chán lắm anh nhỉ?” “Thế thì thật khủng khiếp. Gì chứ đừng có mưa vì lần này, từ đầu đến chân anh toàn đồ mới hết.” “A, đúng rồi.” “Thực sự chúng ta quá may mắn.” Kota mặc chiếc áo jacket màu xanh thẫm và chiếc quần màu xám. Nói thật thì anh đã mua chúng để dành riêng cho ngày hôm nay, buổi hẹn hò trượt tuyết lần đầu tiên với Momomi. À, đâu chỉ có thế. Cả ván trượt, giày trượt, thậm chí đến cả chiếc mũ len màu vàng, anh cũng mua nó vì hôm nay. Dòng người vẫn chậm rãi tiến về phía trước. Cuối cùng họ cũng tới được chỗ có mấy bậc thang. Mọi người vừa phải để ý chân nhau, vừa tiến lên từng bậc. “Anh này, ở đây có tiệm mì tantanmen1 rất nổi tiếng phải không?” Momomi nói. “Chuẩn đó em. Có cả rau Nozawana2 trong bát mì nữa. Ngon khỏi phải nói. Lần nào anh cũng phải ăn một bát đó.” “Vậy ư? Em muốn ăn thử!” “OK. Vậy trưa nay chúng ta ăn ở đó nhé. Tiệm mì nằm ngay phía dưới của khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Hinata.” “Anh giỏi quá. Anh Kota chắc rành về khu trượt tuyết này lắm nhỉ?” “Thì bởi vì năm nào anh cũng tới đây mà.” “Anh giỏi ghê!” Momomi nhắc lại thêm một lần nữa. “Tuyệt vời thật.” Kota nhâm nhi niềm sung sướng vì anh được tới đây để trượt tuyết - sở thích lớn nhất của mình, và được tận hưởng giây phút cùng với cô gái mình yêu trong không gian chỉ có hai người. Kể từ hôm nay, anh và Momomi sẽ ở bên nhau suốt hai ngày liền. Nơi nghỉ ngơi là một khách sạn nằm ngay cạnh khu trượt tuyết. Không biết mình và Momomi sẽ cùng nhau trải qua một đêm nồng cháy như thế nào đây? Trí tưởng tượng của Kota cứ bung nở không giới hạn. Chỉ có điều, nếu cứ thổi phồng lên những ý nghĩ đó thì chẳng còn gì là cái thú khi đi trượt tuyết nữa, thành thử Kota sẽ cố kìm nó lại. Cuối cùng, bọn họ cũng leo lên hết các bậc thang. Kota với tay ra lấy hai chiếc túi đựng ván trượt đã được để sẵn trong giỏ, một chiếc anh đưa cho Momomi và giúp cô cho chiếc ván vào túi đựng vì Momomi đang phải vất vả với nó. Mỗi lần leo lên cáp treo ở bất kỳ khu trượt tuyết nào, Kota vẫn luôn trăn trở rằng tại sao mấy chiếc túi đựng ván trượt lại khó dùng đến thế? Rằng người ta chẳng thể cải tiến để nó tốt hơn lên hay sao? Họ sắp đến được gần trạm lên cáp treo. “Xin lỗi, đề nghị quý khách ngồi ghép với các đoàn khác.” Cô nhân viên với tông giọng cao vút thông báo. Đó là tình huống chẳng mấy thú vị đối với Kota, người đang nung nấu ý định sẽ được ngồi riêng với Momomi trong một cabin cáp treo. Nhưng hành khách đông đến mức này thì anh cũng chẳng thể buông được lời phàn nàn nào cả, bởi vì cabin cáp treo ở đây thuộc loại to, chứa được tối đa mười hai người. Đã tới lượt của Kota và Momomi. Chiếc cabin trống từ từ tiến lại gần. Anh để Momomi lên trước rồi mới leo lên sau. Kota chọn vị trí đối diện với Momomi đang ngồi ở góc trong cùng. Và đương nhiên là nhóm những người họ không quen biết cũng lần lượt leo lên theo sau. Họ là một nhóm gồm bốn người phụ nữ, mặc dù vẫn chưa ổn định được chỗ ngồi nhưng đã bắt đầu mở miệng nói về những chuyện gì đó mà Kota chẳng thể hiểu nổi. Từ lúc đứng xếp hàng để đợi lên cáp treo, đám người đó đã nói liên hồi. Vẫn biết đây là chuyện ngoài ý muốn và vì thời gian ngồi trong cabin cũng chỉ hơn chục phút nên Kota chỉ còn cách bấm bụng chịu đựng cho qua. Cửa cabin đóng lại, cáp treo dần dần tăng tốc. Nhìn ra bên ngoài, Kota thấy quang cảnh trước mắt là một vùng tuyết trắng trải rộng mênh mông. Những vị khách tới đây để trượt tuyết, trượt ván được bao bọc bởi lớp quần áo dày, nhiều màu sắc. Khắp mọi nơi, tất cả bọn họ đều đang trình diễn những cú trượt ngập tràn cảm xúc tự do và ngẫu hứng. ”Chà, tớ thấy phấn khích quá, cũng lâu lắm rồi chứ ít đâu.” Một trong số bốn người phụ nữ hào hứng lên tiếng. Đó là người phụ nữ ngồi ngay cạnh bên trái Kota. “Chắc từ hồi sinh viên tới giờ tớ không trượt ván rồi. Ừm... cũng phải bảy năm rồi ấy.” “Erika, cậu biết trượt ván cơ à? Tớ thì hoàn toàn không có chút tự tin nào hết ấy.” Người mặc chiếc áo khoác màu xanh lá cây, ngồi phía đối diện chếch bên tay trái của Kota lên tiếng. Hình như người ngồi bên cạnh Kota tên là Erika. “Kiểu gì chẳng trượt được. Với lại bảy năm trước, nói thẳng ra thì lúc đó chẳng ai biết cậu có biết trượt ván hay không, nên kể cả bây giờ cậu có trượt kém hơn ngày ấy đi chăng nữa thì tớ nghĩ vẫn được gọi là biết trượt thôi.” Dứt lời, người phụ nữ ấy cười phá lên. Kota lẩm nhẩm tính trong đầu. Bảy năm rồi mới trượt kể từ thời sinh viên ư? Vậy lần cuối người này đi trượt tuyết hồi còn là sinh viên năm thứ mấy? Nếu là sinh viên năm nhất thì bây giờ người này hai mươi lăm tuổi. Không, với cách nói chuyện và thần thái thế này thì không thể có chuyện đó được, Kota đoán. Vậy nếu lần cuối trượt tuyết là thời điểm trước khi tốt nghiệp, tức là hồi hai mươi hai tuổi thì bây giờ người này hai mươi chín. Phải, chắc khoảng tầm đó thì chính xác hơn, Kota tự đưa ra câu trả lời của mình. “Vốn dĩ việc bốn người chúng ta cùng nhau đi du lịch như thế này cũng là cơ hội hiếm thấy mà.” Một người phụ nữ khác nói với giọng trầm tĩnh hơn. Từ hướng giọng nói phát ra, Kota đoán người này ngồi cách anh hai ghế. “Xin lỗi vì bắt các cậu phải cất công tới tận đây.” “Ơ hay, tại sao cậu lại phải xin lỗi? Nói thật thì tớ thấy chuyến đi này cực kỳ thú vị mà.” Người phụ nữ ban nãy ngồi cạnh Kota, người được gọi bằng cái tên Erika lên tiếng. “Phải đấy. Lâu lắm rồi chúng ta mới được đi chơi cùng nhau như thế này, cho nên Chiharu cũng phải tận hưởng đi.” Người mặc áo khoác xanh nói. Hình như người ngồi cách Kota hai ghế tên là Chiharu. “Nhưng mà thời tiết không lạnh như chúng ta đã nghĩ nhỉ? Tớ tưởng còn phải lạnh hơn ấy chứ.” Erika nói. “Ừ. Có khi chỉ nên mặc ba lớp áo trong thôi thì vừa.” Bất giác, Kota hướng mắt nhìn về phía người phụ nữ mặc áo khoác xanh. Mặc ba lớp thì vừa ư? Vậy lúc này cô ta đang mặc mấy lớp nhỉ? Chính là lúc đó. Người phụ nữ còn lại đang ngồi cạnh người mặc áo khoác xanh, im lặng mãi từ đầu cho đến tận lúc này mới lên tiếng: “Hình như tớ cũng mặc nhiều quá. Bộ quần áo trượt tuyết này ấm hơn tớ nghĩ.” Nói rồi, người đó nắm lấy tay chiếc áo khoác màu đỏ mình đang mặc. Kota thấy bất ngờ trước giọng nói ấy. Là bởi vì nó cực kỳ giống với giọng nói của một người mà anh biết rất rõ. Anh liếc nhìn sang ngang. Kính và khẩu trang che kín khiến Kota không thể nhận ra khuôn mặt đó là ai. “Cậu đã nói mua bộ quần áo này vì chuyến đi nhỉ?” Erika chỉ tay về phía người phụ nữ mặc áo đỏ. “Đúng thế. Tại bộ trước của tớ dùng cũng khá lâu rồi. Đúng lúc tớ cũng đang muốn mua một bộ mới.” Quả nhiên là giống. Ngữ điệu nói cũng giống y chang. Một dự cảm không mấy vui vẻ bỗng dâng lên trong lồng ngực của Kota. Nhìn vào ván trượt tuyết, Kota đoán hình như nó là đồ đi thuê. “Cậu đã mua cả bộ đấy à?” Người có tên Chiharu hỏi. “Tớ mua bộ quần áo và găng tay. Nhưng mà đúng ra nên mua thêm cả kính nữa. Kính này mau bị mờ lắm.” Dứt lời, người mặc áo đỏ đưa tay gỡ cặp kính. Chiếc khẩu trang trượt xuống trong sự hồi hộp của Kota, rồi gương mặt ấy dần hé lộ. Tim của Kota suýt chút nữa thì bắn ra ngoài. Người mặc bộ đồ trượt tuyết màu đỏ là Miyuki. Và Miyuki lại chính là người hiện đang chung sống với Kota. Mời các bạn đón đọc Cáp Treo Tình Yêu của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Hải Hà (dịch).
Gia Đình Trộm Cắp
"GIA ĐÌNH TRỘM CẮP" (Shoplifters) - những xó xỉnh nằm ở rìa xã hội không được ánh sáng chiếu đến. Được chuyển thể từ bộ phim cùng tên của tác giả Kore-eda Hirokazu giành giải Cành cọ vàng tại LHP Cannes lần thứ 71, cuốn tiểu thuyết thuộc thể loại tâm lý xã hội đã làm xúc động hàng triệu trái tim trên toàn thế giới. Vào một đêm mùa đông lạnh giá, Osamu và đứa con trai Shota vừa ăn cắp khỏi một tiệm tạp hóa gần nhà thì tình cờ gặp một bé gái bốn tuổi đang sắp chết cóng trên ban công. Hắn quyết định mang cô bé về nhà mình mà không suy nghĩ quá nhiều. Cuốn tiểu thuyết về một gia đình kì quái được tạo thành bởi những mảnh đời phiêu dạt nằm bên ngoài xã hội, không được ánh sáng chiếu tới. Một người đàn ông ở tuổi trung niên chỉ biết dạy những đứa trẻ ăn cắp, sống vạ vật không đi làm. Một người phụ nữ bị ám ảnh bởi quá khứ bất hạnh yêu thương những đứa trẻ không thuộc về mình. Một cô gái bỏ nhà ra đi sống nương tựa vào một bà già chỉ sống bởi trợ cấp từ chồng cũ và tống tiền gia đình của chồng. Và hai đứa trẻ "bị bắt cóc", không đi học, không được dạy dỗ tử tế, coi việc ăn cắp là tất nhiên. Họ không phải vợ chồng, cha mẹ con cái, nhưng họ lại là một gia đình, sống với nhau bởi những ràng buộc nằm ngoài mối ràng buộc ruột thịt. *** Cuốn tiểu thuyết Gia đình trộm cắp được chuyển thể từ kiệt tác điện ảnh cùng tên đã giành được nhiều giải thưởng danh giá: Cành Cọ Vàng liên hoan phim Cannes lần thứ 71, Phim điện ảnh hay nhất của năm, Giải Viện Hàn Lâm Nhật Bản lần thứ 42… Cuốn tiểu thuyết dung dị này đã chạm đến trái tim của hàng triệu độc giả trên đất nước Mặt trời mọc và được chuyển ngữ tại nhiều quốc gia. Câu chuyện kể về cuộc sống của 5 con người hoàn toàn xa lạ sống với nhau như một gia đình, mỗi người có một hoàn cảnh, câu chuyện riêng nhưng tình yêu, nỗi đau và khát vọng hạnh phúc là điểm chung đã gắn kết những con người này như một gia đình. Mọi chuyện bắt đầu khi Osamu – một gã lười biếng kiếm ăn bằng món nghề trộm cắp vặt tại các cửa hàng, đã dắt một cô bé về nuôi trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Cuộc sống của gia đình cũng bắt đầu đảo lộn từ đây, họ đấu tranh xem có nên trả cô bé đáng thương này về với người cha mẹ vô tâm đã bỏ mặc cô giữa đêm đông, hay tiếp tục giữ đứa trẻ này đồng nghĩa với việc phạm tội bắt cóc? Cuối cùng Nobuyo – người phụ nữ từng bị chồng đánh đập – trong một giây đã quyết định giữ đứa trẻ vì bản năng làm mẹ bỗng được đánh thức. Cô nghĩ về bố mẹ của đứa trẻ rằng: “Những kẻ bỏ quên đều chẳng ra gì” vậy nên những thứ họ lấy: “Đứa trẻ” hay những món đồ ở cửa hàng tạp hóa, tất cả chỉ là “nhặt được” vì chúng chẳng thuộc về ai. Câu chuyện về những con người bị bỏ quên bên lề xã hội, nhưng họ vẫn có trái tim, vẫn có tình yêu và ước mơ dù chúng trông méo mó trong mắt người khác: Một “người cha” dạy “con” hành nghề trộm cắp vì gã chẳng có thứ gì khác để dạy. Một người đàn ông tha thiết được nghe đứa trẻ gọi “cha” nhưng không bao giờ được thỏa mãn. Một người phụ nữ từng đổ vỡ trong hôn nhân chấp nhận sống bên một người đàn ông (chỉ biết đi ăn cắp) như vợ chồng chỉ vì so với những gã đàn ông khác thì “đàn ông không có thói đánh đập đã tốt hơn kẻ khác rất nhiều rồi“ Một bà cụ 80 tuổi đã “cướp” người thân trong gia đình người khác để mình được hả hê khi chứng kiến họ nếm trải mùi vị bất hạnh như bà đã từng. Một cô gái trẻ dùng tên của em gái hành nghề dịch vụ khiêu dâm để trả thù gia đình. … Tất cả những con người ấy đáng thương tới mức những ước mơ đã trở thành xa xỉ đến nỗi họ chỉ dám mơ đến việc ngắm pháo hoa từ tòa chung cư cao nhất vùng này. Vậy mà sau những gì họ làm xuất phát từ lương tâm, tình yêu và mưu cầu hạnh phúc thì họ vẫn bị xã hội nhìn vào bằng cái tên kì dị: “Gia đình trộm cắp”. Cuốn sách này khiến chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn và nhìn vào mặt khuất của những gì chúng ta thường thấy. Có những tội ác lại bắt nguồn từ đạo đức, sự ích kỉ bắt nguồn từ bao dung, và lòng thù hận lại bắt nguồn từ yêu thương… Hà Nội, 31/3/2020   *** Lần đầu tiên Shouta gặp cô bé ấy là vào mùa hè năm ngoái. Hòm thư màu bạc được gắn bên hông cửa ra vào của dãy nhà tập thể năm tầng đã cũ, phía bên dưới xếp ngổn ngang xe đạp dành cho trẻ em và những bìa các tông quên vứt. Cô bé ngồi đó như đang phải chịu phạt, đưa mắt nhìn người qua đường. Dãy nhà tập thể ấy nằm chính giữa nhà của họ và một siêu thị mang tên “Shinsengumi” mà Shouta vẫn đi cùng bố mỗi tuần một lần. Ngày xưa, trên bức tường trắng toát, những vết nứt đã xuất hiện, và để che đi những vết nứt đó, người ta đã quét lên một lớp sơn trắng mới. Lớp sơn trắng ấy như càng làm nổi bật hiện trạng của bức tường đang dần bị màu tro tàn bao phủ. “Làm ăn gì mà chán thế. Đúng là nghiệp dư mà”. Mỗi khi đi ngang qua bức tường của dãy nhà tập thể đó, người bố Osamu sẽ ngẩng lên nhìn, huých khuỷu tay vào. Shouta và nói như vậy. Nghe nói trước kia, chính gã cũng từng làm nghề quét sơn. “Tại sao chú lại nghỉ việc?”, mỗi lần Shouta hỏi, Osamu lại cười và nói, “Vì bố sợ độ cao mà”. Người bố gọi khu nhà tập thể ấy là “koudan”[2]. Còn người mẹ Nobuyo lại gọi là “toei”[3]. Shouta không thể phân biệt được đâu là cách gọi đúng và sự khác nhau giữa hai từ đó là gì. Lời Nobuyo thốt ra “Tiền nhà rẻ đến khó tin” vừa như ghen tị lại vừa như khinh miệt, có biết bao điều ẩn chứa trong nụ cười lạnh của cô. Việc tới siêu thị vào mỗi thứ tư hằng tuần không phải để mua sắm, mà đó là công việc quan trọng nhằm duy trì kinh tế gia đình Shibata. Thứ tư là ngày bán hạ giá của cửa hàng này nên rất đông khách. Mặc dù khắp nơi đều dán giấy ghi “Nhân 3 tích điểm”[4], nhưng Shouta cũng chẳng hiểu rõ nó có lợi hơn bao nhiêu so với ngày thường. Hai người chen vào được bên trong cửa hàng tầm năm giờ chiều thứ tư hôm đó. Họ nhắm vào khoảng thời gian chuẩn bị bữa tối, lúc cửa hàng nhộn nhạo nhất. Đó là ngày mà dự báo thời tiết đã gây xôn xao rằng, buổi sáng sẽ lạnh tới mức kỷ lục trong tháng hai và chiều tối sẽ bắt đầu có tuyết rơi. Đi từ nhà tới siêu thị chỉ mất có mười lăm phút mà đầu ngón tay Shouta đã lạnh tới mức mất cảm giác. “Lẽ ra nên mang theo găng tay”, cậu hối hận. Cứ thế này sẽ không thể làm việc được. Shouta bước qua cửa ra vào của siêu thị thì dừng lại, vừa quan sát bên trong cửa hàng, vừa cử động năm ngón tay đang đút trong túi, cậu muốn đầu ngón tay nhanh lấy lại cảm giác. Osamu vào chậm hơn Shouta vài bước, lặng lẽ đứng cạnh cậu. Ở đây không được liếc nhìn nhau. Điều này là quy tắc ngầm giữa hai người kể từ khi bắt đầu công việc này. Cầm lấy quả quýt là mặt hàng mẫu được đặt bên hông lối vào, Osamu khẽ lẩm bẩm “ừm” trong miệng, vẫn không nhìn Shouta mà đưa qua một nửa. Miếng quýt vừa nhận được trong tay đã trở nên lạnh lẽo. Như để bảo vệ bàn tay đang dần ấm lên, Shouta bỏ cả miếng quýt đó vào mồm. Vị chua lan rộng trong miệng. Quả nhiên vì chỉ là hàng mẫu nên không được ngọt lắm. Hai người vô thức nhìn nhau rồi cùng đi sâu vào tận bên trong cửa hàng. Osamu nhanh nhẹn bỏ chùm nho vào cái giỏ đựng đồ màu xanh gã đang cầm trên tay. Chùm nho trông có vẻ cao cấp với màu xanh đọt chuối. “Nho này có hạt nên ăn sẽ phiền phức lắm”, Osamu nói rồi chỉ ăn một quả nho hạt nhỏ màu đỏ tía. Shouta biết đó là loại nho rẻ tiền nhất, nhưng cậu không nói ra. Tuy nhiên, hôm nay không cần chú ý đến giá cả. Osamu dễ dàng bỏ hai túi nho vào trong giỏ. Từ đây, nếu tiếp tục đi thẳng sẽ đến quầy bán thực phẩm tươi sống như cá, thịt lợn... ở cuối đường, còn nếu rẽ trái sẽ đến góc bán mì ly và các loại bánh kẹo. Ở vị trí đó, như mọi khi, hai người cụng nắm đấm rồi tách nhau ra. Shouta chầm chậm rẽ trái rồi dừng lại trước một cái giá đựng bánh kẹo đã nhắm từ trước, đặt ba lô xuống dưới chân. Móc khóa hình máy bay treo trên ba lô khẽ nảy lên. Hình ảnh của một nhân viên cửa hàng phản chiếu trong chiếc gương trước mặt Shouta. Đó là một thanh niên mới được nhận vào làm bán thời gian từ tháng trước. Người thanh niên này không thành vấn đề với Shouta. Khi cậu xác nhận xong vị trí của anh ta rồi quay sang trái thì cũng vừa lúc Osamu đi vòng quanh trong cửa hàng đã quay lại. Osamu dựng ba ngón tay lên, chỉ chỗ đứng của từng nhân viên trong cửa hàng. Shouta khẽ gật đầu, sau đó chống hai bàn tay vào nhau, xoay vòng hai ngón trỏ rồi nắm tay trái lại áp lên miệng. Shouta thuận tay trái. Nghi thức này là do Osamu dạy cho, trước khi tiến hành “công việc”, cậu nhất định sẽ thực hiện nó. Shouta vẫn không rời mắt khỏi người nhân viên trong chiếc gương kia, thận trọng vươn cánh tay trái đã tự mình cầu phúc lúc nãy, với lấy thanh sô cô la. Cậu nắm chặt thanh sô cô la mà không phát ra bất kỳ tiếng động nào, ánh mắt không hề nhìn xuống, nhanh tay kéo khóa ba lô quẳng vào trong. Âm thanh nhỏ đó chìm nghỉm giữa tiếng nhạc ồn ào trong cửa hàng. Nhân viên, và tất nhiên cả khách khứa đông đúc cũng không một ai chú ý đến. Quả là một khởi đầu tốt đẹp. Shouta lại đeo ba lô lên lưng, di chuyển vị trí. Mục tiêu chính của công việc hôm nay là mì ly. Shouta dừng lại trước giá đựng mì ly kim chi heo cay mà cậu vốn rất thích, lần nữa hạ cái ba lô xuống dưới chân. Tuy nhiên, một nhân viên cửa hàng đứng trước giá hàng hóa đang chắn mất lối đi nhỏ hẹp, mãi mà không di chuyển. Đối phương là một người trung niên kỳ cựu trong nghề, khá khó đối phó. “Nếu có thể một mình đánh bại ông ta thì con sẽ trưởng thành đấy”, vì những lời này của Osamu, Shouta đã lựa chọn đỉnh điểm trong “công việc” ngày hôm nay chính là đối đầu với ông ta. Tuy nhiên, ông ta chỉ đơn giản là không để lộ sơ hở của mình cho Shouta thấy. Mời các bạn đón đọc Gia Đình Trộm Cắp của tác giả Kore-eda Hirokazu.
Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng
Trong Nghệ thuật Chinh Phục Khách Hàng bậc thầy Janelle Barlow và Claus Moller đã giới thiệu một ý tưởng đột phá mang tính cách mạng: Biến những lời phàn nàn, chỉ trích thành một món quà. Thật vậy, lời phàn nàn của khách hàng là thông tin phản hồi quý báu có thể giúp các doanh nghiệp cải thiện chất lượng sản phẩm, nâng cấp dịch vụ, ứng xử của con người và xác định trọng tâm định hướng sản xuất, kinh doanh, thị trường một cách nhanh chóng, hiệu quả và ít tốn kém nhất. “Ấn bản đầu tiên của quyển sách đã là một viên ngọc quý. Phiên bản mới được cập nhật toàn diện này còn tuyệt vời hơn nữa. Những ví dụ mới vừa mang tính chất chỉ dẫn vừa truyền cảm hứng và thực sự hữu ích cho những người làm công tác chăm sóc khách hàng. Tôi tin rằng quyển sách sẽ gây sửng sốt cho bất cứ ai đang nghi ngờ sức mạnh từ việc lắng nghe khách hàng của mình”... *** NHỮNG LỜI KHEN NGỢI DÀNH CHO “NGHỆ THUẬT CHINH PHỤC KHÁCH HÀNG” “Barlow và Moller đã vạch ra lý do tại sao một khách hàng phàn nàn có thể trở thành tài sản quý giá nhất của công ty và hướng dẫn bạn cách giành lại khách hàng, thúc đẩy thêm giao dịch và tích lũy thêm những lời chứng thực thuận lợi. Nếu thành công trong kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với bạn, bạn cần phải đọc quyển sách này!” Ron Kaufman, Tác giả và nhà sáng lập trường UP Your Service! “Đối với những công ty đang dành ngày càng nhiều tiền vào việc nghiên cứu kỳ vọng của khách hàng, quyển sách này là một làn gió mới mẻ. Quyển sách cũng có thể được đặt tên là: Biến những cảm xúc thông thường thành lợi nhuận.” Paul Clark, Tổng giám đốc, Country Energy, Úc “ Nghệ thuật chinh phục khách hàng cung cấp một phương tiện tuyệt vời để giải thích cách thức một công ty có thể cung cấp dịch vụ hoàn hảo và xử lý lời phàn nàn thông qua những mối quan hệ khách hàng được cải thiện, mà cuối cùng là giúp gia tăng doanh số cũng như cải thiện sự hài lòng của khách hàng.” Thom Ray, Tổng Giám đốc British Telecom “Ngày nay mọi thứ dường như quá phức tạp. Nhưng Barlow và Moller đã chọn một vấn đề gai góc và biến nó thành điều dễ hiểu, không chỉ trong thế giới kinh doanh, mà còn trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi sẽ không bao giờ cảm thấy lời phàn nàn có tính hủy hoại nữa.” Tiến sĩ Russ Volckmann, Chủ bút và Biên tập viên, Tạp chí Integral Leadership Review “Trong ngành kinh doanh cửa hàng tiện ích, sau tốc độ giao hàng thì dịch vụ là quan trọng nhất. Quyển sách này đào sâu nghiên cứu những điều kiện cần thiết giúp hoạt động khôi phục dịch vụ diễn ra một cách nhất quán.” Lee Barnes, Chủ tịch Chuỗi Cửa hàng tiện ích Family Fare “Quyển sách này mang lại một sự chuyển đổi thái độ mang tính cảm hứng cho những nhân viên trong ngành dịch vụ, một công thức đột phá tạo ra sự khôi phục dịch vụ khi phải đối mặt với những lời phàn nàn khó khăn, và một sự cải tổ hệ thống quản lý.” Rick Brandon, đồng tác giả quyển Sự tồn tại của Tri thức “Quyển sách này xử lý việc khôi phục dịch vụ như một nghệ thuật. Bài kiểm tra thực sự của một thương hiệu vĩ đại là khả năng tận dụng cơ hội để hình thành mối quan hệ khách hàng mới. Thông qua sự pha trộn kỹ lưỡng khả năng phân tích, tính sáng tạo trong kinh doanh và các ví dụ thực tế, những trang sách này sẽ thuyết phục bạn rằng những lời phàn nàn thực sự là những món quà.” Mike English, Phó Giám đốc Trung tâm Liên lạc Khách hàng, Starwood Hotels & Resorts Worldwide Inc. “Khái niệm trong quyển sách này là một thái độ mà chúng tôi đã áp dụng để bổ sung cho lời hứa thương hiệu của mình tại Royal Plaza ở Scotts, Singapore. Chúng tôi đã gieo mầm cho sự quan trọng của nó vào tất cả các nhân viên để họ thực sự biết ơn sự phản hồi của khách hàng, dù chúng thuận lợi hay bất lợi.” Patrick Garcia Fiat, Tổng giám đốc, Royal Plaza, Scotts, Singapore “Quyển sách này rất sâu sắc. Nó trở lại với những nền tảng cơ bản đang thúc đẩy ngành của chúng tôi. Các tác giả đưa bạn đi qua quá trình từ lúc đề cập đến một trải nghiệm không hay của khách hàng đến lúc biến vị khách đó thành một khách hàng trung thành. Tựa đề quyển sách này không thể đúng hơn được nữa.” Rich Hicks, Giám đốc Nhà hàng Tin Star “Chúng tôi sở hữu một trong những địa điểm hùng vĩ nhất trên thế giới: cầu bộ hành trên không (Sky Walk) ở Grand Canyon West. Và chúng tôi vẫn nhận được những lời phàn nàn. Quyển sách này có thể giúp bất kỳ tổ chức nào đạt được những mục tiêu trải nghiệm của khách hàng. Khái niệm này có tác dụng rất tốt ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Ngày nay, điều này trở nên rất quan trọng nhằm tạo nên một đặc trưng thực sự mang tính quốc tế trong dịch vụ mang lại trải nghiệm cho khách hàng.” Waylon Honga, Giám đốc điều hành, Grand Canyon West “Quyển sách này dành cho bất cứ nhà quản lý nào hiểu được rằng những khách hàng thực sự thỏa mãn sẽ mang lại những cơ hội tốt nhất để kiếm thêm nhiều khách hàng khác. Nghệ thuật chinh phục khách hàng là một công cụ mạnh mẽ cần được chia sẻ cho mọi nhân viên trong toàn công ty.” Andy Jorishie, Phó Chủ tịch The Zimmerman Agency “Quyển sách này là một tác phẩm nghệ thuật. Tôi sẽ giới thiệu cho bất cứ ai đang tìm kiếm sự hoàn hảo và học hỏi về hoạt động chăm sóc khách hàng nói chung và xử lý phàn nàn nói riêng.” Omran Al Shansi, Giám đốc Xử lý Phàn nàn, Emirates Telecommunications Corp. “Đây là một quyển sách kỳ diệu với những công cụ và kỹ thuật thực tiễn nhằm đảm bảo tạo ra những trải nghiệm thú vị cho khách hàng và giải quyết tốt ngay cả những lời phàn nàn mang tính thách thức nhất từ phía họ. Nó bao gồm rất nhiều gợi ý nhằm cung cấp dịch vụ khách hàng hoàn hảo ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất. Những công cụ này thực sự có hiệu quả, mang tính thực tiễn.” Michael Krumpak, cựu Giám đốc Tiểu ban Đào tạo và Phát triển, Hạ viện Mỹ “Khái niệm ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ chỉ ra sự khác biệt mang tính dài hạn. Chúng tôi tin rằng, là một mạng lưới các ngân hàng, chúng tôi có thể sửa chữa một số lượng lớn các sai sót của chúng tôi từ phản hồi của khách hàng. Chắc chắn chúng tôi sẽ trở nên độc đáo hơn trong cách thức phục vụ khách hàng. Quản lý phàn nàn là một yếu tố then chốt trong chiến lược kinh doanh của chúng tôi.” Andrey Litvinov, Phó Chủ tịch, Life Financial Group, Nga “Thật thú vị khi cuối cùng chủ đề ‘phàn nàn’ cũng được đề cập và thảo luận sâu sắc. Hoạt động kinh doanh của chúng tôi, vốn được dựa trên việc xây dựng quan hệ, đã nhận được lợi ích rất lớn từ những kiến thức sâu sắc được cung cấp trong quyển .” Cliff Miller, Chủ sở hữu M. J. Christensen Diamonds “Triết lý ‘Lời Phàn nàn là một Món quà’ đã mang lại quyền lực cho những nhân viên tiếp xúc khách hàng của chúng tôi trong việc cải thiện và cũng cố quan hệ với khách hàng. Phương pháp tiếp cận bằng sự giao tiếp độc đáo này đối với những dịch vụ sai sót rất có ích cho tổ chức chúng tôi, giúp xây dựng những nhóm nhân viên mạnh hơn và hiệu quả làm việc cao hơn.” Peta Peter, Giám đốc Giáo dục và Đào tạo, Amway Úc và New Zealand. “Quyển sách này là một thành phần vô giá trong bộ công cụ của chúng tôi nhằm tạo ra nền văn hóa dịch vụ khách hàng khác biệt. Nó tập trung vào việc tiếp nhận những lời phàn nàn của khách hàng để tinh chỉnh dịch vụ và thu phục khách hàng trở lại, thay vì xem những lời phàn nàn là những điều tồi tệ cần né tránh.” Muriel Roake, Giám đốc Phát triển Thương hiệu và Tổ chức, Air New Zealand “Tôi luôn là người ủng hộ triết lý xem phàn nàn là quà tặng của Janelle và Claus trong lĩnh vực này nhiều năm qua. Các kênh giao tiếp và sự thông suốt của cách tiếp nhận lời phàn nàn, thông qua blog và phòng chat trực tuyến, đã tạo điều kiện cho cả những nhu cầu thiết yếu hơn trong việc xử lý sự phàn nàn một cách hiệu quả và nhanh chóng.” Nigel Roberts, Phó Chủ tịch Điều hành, The Langham Hotels & Resorts “Dịch vụ khách hàng là một nghịch lý: một doanh nghiệp càng có nhiều sự tương tác với khách hàng, họ càng nhận được nhiều phản hồi ‘tiêu cực’, nhưng đồng thời cũng có nhiều cơ hội để tạo ra những điều ‘tích cực’. Nhiều yếu tố trong quyển đã được Boyd Gaming sử dụng và tỏ ra hữu ích khi chúng tôi tiếp tục xây dựng khả năng cung cấp và giám sát dịch vụ khách hàng cũng như các chương trình phản hồi chủ động.” Brian Shultz, Phó Chủ tịch Tiếp thị, Midwest and South Region, Boyd Gaming Corp. “Đây là một quyển sách về lĩnh vực tâm lý – tâm lý của những khách hàng vẫn còn quan tâm để phàn nàn, tâm lý của những tổ chức có đủ tự tin để tiếp nhận lời phàn nàn và xử lý chúng, và tâm lý của những người trong tổ chức cũng như mức độ tự tin khác nhau trong việc xử lý phàn nàn.” Sanjay Tiwari, Giám đốc Kinh doanh và Dịch vụ Khách hàng, KLM Cargo USA “Nếu bạn muốn biết điều gì thực sự có hiệu quả trong việc quản lý lời phàn nàn, hãy nghiên cứu quyển sách này. Nó bao gồm những ví dụ thực tiễn và những tư duy mới nhất về chủ đề này. Thật hiếm khi có thể tìm thấy một quyển sách như vậy dành cho những người liên quan đến hoạt động xử lý những khách hàng phàn nàn và rút tỉa tốt những nghiên cứu học thuật có giá trị.” Jochen Wirtz, Giáo sư, Đại học quốc gia Singapore, đồng tác giả quyển Tiếp thị Dịch vụ: Con người, Công nghệ, Chiến lược “Phương pháp tiếp cận mới mẻ này đối với sự khôi phục dịch vụ và lòng trung thành của khách hàng đã trở thành một phần trong những từ ngữ thường dùng trong văn phòng Butterfield Bank. Janelle và Claus cung cấp nguồn thực phẩm cho ý tưởng, những ví dụ có thể giảng dạy và giải trí, những hướng dẫn dễ sử dụng nhằm đưa triết lý của họ vào thực tế.” Lori Baker-Lloyd, Phó Chủ tịch phụ trách Phát triển Tổ chức và Nguồn Nhân lực, Ngân hàng N. T. Butterfield & Son, Bermuda Xin dành tặng quyển sách này cho Khổng Tử, người đã thông thái chỉ ra rằng: “Người phạm lỗi mà không biết sửa lỗi là phạm lỗi thêm một lần nữa”. Khổng Tử không biết về lời phàn nàn của những khách hàng hôm nay, nhưng ông đã lý giải một cách thật dễ hiểu rằng tại sao những khách hàng phàn nàn lại là người tặng quà cho ta. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Chinh Phục Khách Hàng của tác giả Janelle Barlow & Claus Møller.