Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Vượt Thời Gian

Kẻ Vượt Thời Gian (The Time Machine) là một tiểu thuyết thuộc thể loại khoa học viễn tưởng của tác giả H. G. Wells, được xuất bản vào năm 1895. Đây là một khái niệm phổ biến khi đề cập đến việc du hành thời gian, việc này có thể thực hiện được bằng một cỗ xe mà nhà du hành có thể điều khiển đến bất kì nơi nào mà họ muốn đến. Thuật ngữ "cỗ máy thời gian" lần đầu tiên được đặt ra bởi Well trong tác phẩm của ông. Tiểu thuyết Kẻ Vượt Thời Gian đã từng được chuyển thể thành 2 bộ phim điện ảnh là Cỗ Máy Thời Gian (phim 1960) và Cỗ Máy Thời Gian (phim 2002), cũng như 2 loạt phim truyền hình, và nhiều truyện tranh khác. Ý tưởng về cỗ máy thời gian cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học cũng như nhiều sản phẩm giải trí khác. Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích.  Bằng trí thông minh hiếm có và chí phấn đấu mãnh liệt, mặc dù phải bận rộn vật lộn với miếng ăn ngay trong thời niên thiếu, ông vẫn đạt những bước tiến đều trên con đường học vấn. Được đại học Royal College of Science, Kensington, cấp học bổng, ông là một sinh viên ưu tú của khoa học gia nổi tiếng T.H. Huxleỵ Ra trường với ngành động vật học, ông có dự tính trở thành một giáo sự Không ngờ năm 21 tuổi, một tai nạn trên sân túc cầu phá hư một chiếc thận; ông phải nằm liệt giường một thời gian dài; con đường dạy học đành bỏ dở. Hoàn cảnh thiếu may mắn đó bắt buộc ông phải ứng biến, và tình cờ bước vào sự nghiệp văn chương. Kiến thức khoa học có sẵn cộng với óc tưởng tượng vô cùng phong phú trở thành tài sản quý báu, Wells thành công rất sớm với những truyện ngắn, xã luận, và tranh khôi hài đăng báo. "The Time Machine" là truyện dài đầu tay của ông, xuất hiện từng kỳ trên mặt báo rồi được in thành sách năm 1985. Độc giả khắp nơi thấy ngay dấu hiệu của một thiên tài, và Wells nổi tiếng nhanh chóng khắp thế giới. Trong vòng năm mươi năm, H.G. Wells cho ra đời một số lượng kinh hồn là 150 tác phẩm. Ông viết nhiều loại, nhưng thành công nhất vẫn là khoa học giả tưởng, mà ngoài "The Time Machine" còn phải kể đến "War of the Worlds" (chiến tranh liên hành tinh), "The Invisible Man" (người vô hình), "The Island of Doctor Moreau" (hòn đảo của bác sĩ Moreau). Ông mất năm 1946 giữa lúc uy tín đang suy sụp trầm trọng vì xuất bản quá nhiều tác phẩm tầm thường - nằm ngoài sở trường khoa học giả tưởng của ông - trong hơn 20 năm liền. Nhưng gần đây phong trào đọc H.G. Wells đã mạnh mẽ trở lại. Người ta khám phá rằng trong khoảng 20 tác phẩm có lẽ sẽ tồn tại vĩnh viễn với thời gian, Wells không những chỉ chứng tỏ tài nghệ văn chương mà còn có viễn quan chính xác. Những suy tưởng của ông về con người, về thế giới, về vũ trụ không còn là giả tưởng xa xôi nữa, mà càng lúc càng phản ảnh trung thực đời sống đầy bất trắc và hoang mang của chúng ta. *** Kẻ vượt thời gian (gọi hắn như vậy cho dễ nhớ) đang cố giải thích một chuyện thật lạ và khó tin. Mắt hắn rực lên nét hăng hái, và khuôn mặt thường xanh xao của hắn hồng hào, sống động. Ngọn lửa trong lò sưởi bập bùng, ánh sáng từ ngọn đèn phản chiếu lấp lánh vào những đốm bọt nhỏ li ti đang sủi chạy trong các ly rượu. Những chiếc ghế, do hắn phát minh, không chỉ là vật thụ động bị ngồi lên mà đang liên tục vuốt ve, tạo sự dễ chịu cho mọi người. Tất cả tạo thành cái không khí thoải mái sau bữa ăn tối, khi mà ý tưởng được giải phóng khỏi mọi sự kềm hãm, tha hồ bay nhảy tự do. Trong khi chúng tôi ngồi lười biếng thán phục thái độ chân thành của một người nhiều tưởng tượng (tối thiểu chúng tôi nghĩ thế lúc ấy), hắn vừa trỏ ngón tay út mảnh khảnh về phía trước để nhấn mạnh vấn đề, vừa liên tục nói say sưa: "Qúy vị phải nghe tôi thật kỹ. Tôi sẽ đi ngược lại một hoặc hai điều mà ai cũng xem là đương nhiên đúng. Môn hình học mà họ dạy quý vị trong trường, chẳng hạn, đã được đặt trên nền tảng sai lầm." "Anh bắt đầu kiểu này thì có khác gì làm khó chúng tôi?" Filby, một chàng tóc hung hay lý sự, đặt vấn đề. "Tôi không đòi quý vị phải công nhận bất cứ một điều gì mà không giải thích rõ ràng. Rồi quý vị sẽ công nhận đủ những điều tôi mong muốn. Hẳn quý vị đã biết một đường thẳng toán học, mà theo định nghĩa là không có bề dày, không thể nào hiện hữu trên đời. Họ dạy quý vị như thế phải không? Mặt phẳng toán học nữa. Tất cả chỉ là quan niệm trừu tượng." "Đúng thế!" Nhà tâm lý học nhìn nhận. "Như vậy, vì chỉ có chiều dài, chiều rộng, chiều cao, một khối thể cũng không thể nào hiện hữu được." "Tôi phản đối," Filby nói. "Dĩ nhiên một khối đặc có thể hiện hữu. Tất cả những vật thể có thật... " "Hầu hết chúng ta đều nghĩ thế. Nhưng khoan đã. Có thể nào một khối thể hiện hữu tức thời hay không?" "Tôi không hiểu anh nói gì," Filby nói. "Có thể nào một khối thể, không tồn tại trong bất cứ một khoảnh khắc ngắn ngủi nào, hiện hữu được không?" Filby bắt đầu trầm tự "Rõ ràng," kẻ vượt thời gian tiếp, "mỗi vật thể đều phải có bốn chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao và chiều LÂU nữa. Nhưng vì một lý do thực tế đặc biệt mà tôi sẽ giải thích, chúng ta đã quên mất điều ấy. Ba chiều kia thường được gọi là ba mặt phẳng không gian, còn chiều thứ tư chính là THỜI GIAN. Tuy nhiên, chúng ta có khuynh hướng đặt ra một sự phân biệt sai lầm giữa ba chiều không gian và chiều thời gian, vì ý thức của chúng ta thường di chuyển bất định về đúng một phía của chiều thời gian từ lúc khởi đầu cho đến đoạn cuối cuộc đời." "Điều này," một thanh niên vừa lên tiếng vừa cố châm lại điếu xì gà bằng ngọn lửa trong chiếc đèn để bàn, "điều này... thật là rõ lắm." "Đáng ngạc nhiên là chẳng ai để ý đến điều ấy," kẻ vượt thời gian tiếp, nét vui trên mặt tăng lên một chút. "Đây chính là chiều thứ tư, mặc dù nhiều người từng nhắc tới chiều thứ tư không biết là họ muốn nói đến nó. Chiều thứ tư là một cách nhìn thời gian. Không có sự khác biệt nào giữa chiều thời gian và ba chiều không gian, trừ một điều là ý thức của chúng ta di chuyển theo nó. Nhưng một số người ngây thơ đã nghĩ sai về chiều thứ tự Chắc quý vị đều biết rõ quan điểm của họ?" "Tôi chưa biết," ông thị trưởng nói. "Rất đơn giản. Không gian, theo các nhà toán học, được xem là có ba chiều gọi là chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Ba chiều ấy có thể được xác định bằng ba mặt phẳng thẳng góc với nhau. Nhưng một số triết gia đặt câu hỏi "Tại sao ba mặt phẳng, tại sao không thể có một mặt phẳng khác thẳng góc với cả ba mặt phẳng kiả" và họ cố tạo dựng khoa hình học bốn chiều. Giáo sư Simon Newcomb đã trình bày quan điểm này trước hội toán học New York mới khoảng hơn tháng trước đây. Qúy vị đều biết rằng trên một mặt phẳng (chỉ có hai chiều) chúng ta có thể biểu diễn một vật thể ba chiều mà không làm mất bất cứ đặc tính nào của nó. Tương tự, họ nghĩ rằng với ba chiều, họ có thể biểu diễn các vật thể có bốn chiều, nếu họ nắm vững mọi quy luật cần thiết." "Tôi cũng nghĩ vậy," ông thị trưởng lẩm bẩm. Đôi lông mày nhíu lại, ông chìm vào cõi suy tư, cặp môi ông di động như người đang lập đi lập lại một câu thần chú. "Phải, giờ tôi đã hiểu rồi," ông thốt lên sau một lúc lâu, với một nét vui mừng không lấy gì làm rõ ràng, chắc chắn. "Được. Tôi không ngại cho quý vị biết rằng tôi đã nghiên cứu khoa hình học bốn chiều từ khá lâu nay, và đã khám phá ra một số kết quả khá lạ lùng. Thí dụ, đây là tấm hình của một người phái nam lúc tám tuổi, tấm này lúc 15 tuổi, tấm này 17 tuổi, tấm kia 23 tuổi, v.v... Tất cả đều có thể gọi là những "thời đồ", hình biểu diễn ba chiều của một sinh vật bốn chiều, cố định và không thể biến đổi. "Giới khoa học," kẻ vượt thời gian ngưng nói một chút để chúng tôi có đủ thời giờ ghi nhận, rồi tiếp, "biết rất rõ thời gian chỉ là một loại không gian. Đây là một biểu đồ quen thuộc, biểu đồ thời tiết. Đường mà tôi đang chỉ biểu diễn những thay đổi của hàn thử biểu. Hôm qua ở mức độ cao, tối qua thấp hơn, rồi sáng nay lại tăng lên dần đến đây. Mức thủy ngân làm sao đi theo đường biểu diễn này nếu chỉ có ba chiều không gian quen thuộc? Nhưng hiển nhiên nó đã vẽ đường này, và đường này, vì vậy, phải được kết luận là đường của chiều thời gian." "Nhưng," ông bác sĩ nói, mắt đăm đăm nhìn một khối than đá trong lò sưởi," nếu thời gian chỉ là chiều thứ tư của không gian, tại sao, và tại sao từ trước đến nay vẫn thế, nó được coi là một chiều khác? Tại sao chúng ta không thể di chuyển trong thời gian như trong ba chiều kia của không gian?" Kẻ vượt thời gian mỉm cười. "Ông có chắc chúng ta có thể di chuyển tự do trong không gian không? Chúng ta có thể đi về phía trái, phía phải, phía trước, phía sau, và con người đã luôn luôn làm thế. Nhưng chiều lên xuống thì sao? Chúng ta bị ngăn cản bởi sức hút trái đất kia mà." "Không hẳn," ông bác sĩ nói. "Có khinh khí cầu." "Nhưng trước thời của khinh khí cầu, trừ những chuyện nhảy lên nhảy xuống và sự khác biệt chiều cao của mặt đất, con người không có tự do di chuyển theo chiều thẳng đứng." "Nhưng họ vẫn có thể di chuyển lên xuống chút ít, như anh đã nói." "Xuống, xuống dễ hơn lên rất nhiều." "Nhưng anh không thể di chuyển trong thời gian một chút nào hết, anh không thể thoát khỏi giây phút hiện tại." "Thưa ông bác sĩ thân kính, đó chính là điểm sai lầm của ông. Đó chính là điểm sai lầm của cả thế giới. Chúng ta luôn luôn rời xa hiện tại. Những thực thể tâm thức của chúng ta, vốn không có hình thể và khối lượng, di chuyển trên chiều thời gian bằng vận tốc đều từ lúc nằm nôi xuống đến mộ phần. Y hệt như trường hợp đi xuống thấp nếu chúng ta bắt đầu sự hiện hữu ở một nơi trên cao hơn mặt đất 50 dặm. "Điều khó khăn là," nhà tâm lý học ngắt lời. "Anh có thể di chuyển qua lại trong cả ba chiều của không gian, nhưng không thể làm tương tự với thời gian." "Đó chính là nguyên nhân dẫn đến phát minh lớn của tôi. Nhưng ông đã lầm khi nói rằng chúng ta không thể di chuyển trong thời gian. Thí dụ, khi tôi hồi tưởng lại từng chi tiết của một việc đã qua có nghĩa là tôi trở lại phút giây xảy ra việc đó: trạng thái lúc ấy của tôi thường được gọi là đãng trí. Dĩ nhiên, cũng như một anh mọi hoặc một con thú nhảy cao lên khỏi mặt đất rồi tức thì rơi xuống, tôi không thể lưu lại ở phút giây quá khứ, mà sẽ bị kéo về hiện tại. Nhưng chú ý rằng trong thí dụ tôi vừa đưa ra, một người văn minh hơn một anh mọi ở chỗ là người ấy có thể dùng khinh khí cầu để bay lên ngược chiều hút của trái đất. Đã thế, tại sao chúng ta - những người văn minh - không có quyền hy vọng sẽ có một lúc, chúng ta có thể dừng lại hoặc đi nhanh hơn theo chiều thời gian; và ngay cả quay đầu lại, đi ngược chiều thời gian nữa? "Chuyện này," Filby xen vào, "tất cả chỉ là... " "Tại sao không được?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Trái với lý lẽ," Filby nói. "Lý lẽ nào?" Kẻ vượt thời gian hỏi. "Anh có thể dùng lập luận để chứng minh rằng màu đen là màu trắng," Filby đáp, "nhưng anh sẽ chẳng bao giờ thuyết phục được tôi." "Có lẽ không," kẻ vượt thời gian nhìn nhận. "Nhưng chắc quý vị đã bắt đầu hiểu mục đích cuộc nghiên cứu của tôi về hình học bốn chiều. Từ lâu tôi đã có khái niệm mơ hồ về một cái máy... " "Để vượt thời gian!" Chàng thanh niên thốt lên. "Di chuyển trong thời gian, theo bất cứ chiều nào." Filby phá lên cười. "Nhưng những điều tôi nói đều có thí nghiệm chứng minh." Kẻ vượt thời gian nói. "Nếu làm được như anh nói thì rất tiện lợi cho các sử gia," nhà tâm lý học nhận xét. "Họ có thể lùi lại thời gian để kiểm chứng những gì đã được ghi lại về trận Hastings chẳng hạn!" "Ông không nghĩ làm như vậy là gây ra khó dễ à?" Ông bác sĩ nói. "Tổ tiên chúng ta chắc không thích những kẻ hay kể chuyện sai đâu." "Mình có thể nghe tiếng Hy Lạp ngay từ miệng Homer hoặc Plato," người thanh niên nói. "Nếu vậy người ta sẽ không để yên anh đâu. Các học giả Đức đã cải tiến tiếng Hy Lạp rất nhiều." "Và rồi còn tương lai nữa," người thanh niên lại nói. "Thử nghĩ xem! Chúng ta có thể đầu tư hết cả gia sản, để tiền lời tự sinh ra, rồi tới sớm để mà hưởng thụ!" "Khám phá một xã hội," tôi nói, "xây dựng hoàn toàn trên nền tảng cộng sản." "Nghe như một thuyết hoang đường!" nhà tâm lý học trở lại vấn đề. "Phải, chính tôi đã từng nghĩ thế," kẻ vượt thời gian trả lời, "vì vậy tôi chưa bao giờ nói chuyện này với người khác, cho tới khi... " "Có thí nghiệm chứng minh!" Tôi thốt lên. "Anh sẽ chứng minh những điều anh nói thật sao?" "Chứng minh, chứng minh!" Filby kêu thành tiếng. Hắn có vẻ hết chịu đựng nổi những lời giải thích của kẻ vượt thời gian. "Hãy cho chúng tôi nhìn tận mắt thí nghiệm của anh," nhà tâm lý học yêu cầu, "mặc dù, như anh biết, chúng tôi thấy khó tin lắm." Kẻ vượt thời gian mỉm cười đảo nhìn hết chúng tôi. Rồi, trong khi vẫn giữ nụ cười nhẹ, với hai tay đút sâu trong túi quần, hắn bước chậm ra khỏi phòng. Chúng tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp của hắn kéo dài trên hành lang dẫn tới phòng thí nghiệm. Nhà tâm lý học nhìn chúng tôi. "Không biết hắn định làm gì đây?" ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Vượt Thời Gian của tác giả Herbert George Wells & Đẳng Sơn (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giọt Máu Ái Tình (2 Tập)
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Giọt Máu Ái Tình (2 Tập) của tác giả Việt Đông. Tên sách: Giọt máu ái tình - Cuốn 1,2 Tác giả: Việt Đông Nơi xuất bản: Sài Gòn Năm xuất bản: 1935 *** Việt Đông là bút danh. Ông tên thật là Lưu Thoại Khải. Hiện vẫn chưa biết năm sinh và mất, thân thế cùng quê quán của ông. Căn cứ vào tư liệu hiện còn thì Việt Đông bắt đầu viết văn từ năm 1930. Từ năm 1931 về sau, ông cùng Ellen Anh Hoa viết chung một loạt tác phẩm với độ dày mỗi cuốn 32 trang và dự định ra mắt bạn đọc mỗi tuần một cuốn. Những tác phẩm này, ông tập hợp trong bộ Việt Đông văn tập ký tên là Văn khoa học sĩ. Chi tiết trên được nhà văn ghi rõ ở trang cuối cuốn tiểu thuyết Tiếng súng lục liên, do nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, ấn hành năm 1931. Theo thông tin quảng cáo ở một số bìa sách thì rất có thể ông là chồng của nữ sĩ Ellen Anh Hoa, tức Huỳnh Thị Anh Hoa và hai người có viết chung một số tiểu thuyết như Ai người hẹn ngọc; Duyên chàng nợ thiếp; Thân gái dặm trường; Con ở chúa nhà ...   Kể cả những tác phẩm viết chung với Ellen Anh Hoa thì Việt Đông đã góp mặt cho văn xuôi Quốc ngữ Nam bộ hồi trước 1945 một khối lượng tác phẩm truyện và tiểu thuyết có thể nói là thật đáng kể, đồ sộ với 67 cuốn lớn nhỏ (có thể còn nhiều hơn, vì hiện chưa tìm được hết, bởi trên trang cuối các tiểu thuyết đã xuất bản, nhà văn có quảng cáo những tác phẩm sẽ xuất bản), với dung lượng ngắn nhất là 12 trang và dài nhất đến 116 trang. Những tác phẩm này thuộc nhiều thể loại khác nhau, được viết trong khoảng 08 năm, từ 1930 đến 1938. Do ông có dự định và bước đầu đã thực hiện được dự định ấy là ra bộ Việt Đông văn tập, mỗi tuần một cuốn, ký tên là Văn khoa học sĩ, nhằm đáp ứng yêu cầu và thị hiếu của số đông công chúng độc giả bấy giờ nên có nhà nghiên cứu cho rằng ông là “nhà văn thị trường” Về cách dựng chuyện và kể chuyện trong tác phẩm của Việt Đông có thể nói là ít có gì đặc sắc; cốt truyện thường dung dị, giản đơn, có khi trơn tuột. Đây cũng là nét chung của nhiều ngòi bút văn xuôi Quốc ngữ Nam Bộ hồi đầu thế kỷ cho đến 1945. Bởi đối tượng tiếp nhận, người đọc phần đông là tầng lớp bình dân như phu xe, chị bán hàng… mà nhà văn có viết như thế thì mới phù hợp với thị hiếu công chúng. Việc xây dựng nhân vật và khắc hoạ tâm lý nhân vật trong nhiều tác phẩm cũng chưa được nhà văn chú tâm khai thác đúng mức. Đây là điểm hạn chế lớn nhất của ngòi bút Việt Đông. Ngôn ngữ kể chuyện trong nhiều tác phẩm thì thường kể với giọng văn không ổn định, mang nhiều giọng: lúc thì trơn tuột, mộc mạc, rất giản dị như lời nói thường ngày; lúc thì cầu kỳ gọt giũa, dùng nhiều điển cố, điển tích; câu văn có lúc viết theo lối biền ngẫu ngày xưa nên phần nào ít phù hợp với hiện thực và tính cách nhân vật được nhà văn phản ánh. Riêng về đoản thiên tiểu thuyết và chuyện thần tiên thì tình tiết tưởng tượng ly kỳ, gay cấn, éo le, ít nhiều cũng gợi được sự tò mò và hấp dẫn cho người đọc. Như trên đã giới thiệu, số lượng truyện và tiểu thuyết của Việt Đông thì nhiều, nếu không muốn nói là đồ sộ, nhưng tư duy nghệ thuật, bút pháp kể chuyện của ông thì không mấy nổi bật, chưa tạo được dấu ấn riêng. Đọc truyện và tiểu thuyết của ông, người đọc cảm thấy nhàn nhạt, có khi nhàm chán. Đó cũng là lý do để cắt nghĩa tại sao tác phẩm và tên tuổi của Viết Đông chưa được người đọc nhắc đến nhiều và ít được các nhà văn học sử, các nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu nếu so với các cây bút khác cùng thời như Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Chánh Sắt, Phú Đức, Tân Dân Tử chẳng hạn. Nhìn chung, điều đáng quý là những tiểu thuyết của Việt Đông dù viết theo thể loại nào ít nhiều cũng đều có tính giáo dục, khuyến thiện trừng ác, sống đạo đức, khơi gợi lòng yêu nước, lòng tự hào về quê hương với những truyền thống đạo lý tốt đẹp. *** Tóm tắt Cuốn 1 Giọt Máu Ái Tình kể về câu chuyện của hai gia đình giàu có ở Sài Gòn trong những năm đầu thế kỷ 20. Gia đình Trần Văn Khải là một gia đình danh giá, có nhiều đất đai và nhà cửa. Gia đình Nguyễn Văn Hiếu cũng là một gia đình giàu có, có nhiều tiền bạc và quyền lực. Vào một ngày nọ, Trần Văn Khải và Nguyễn Văn Hiếu gặp nhau trong một cuộc đấu thầu. Cả hai đều muốn giành được quyền khai thác một khu đất vàng ở Sài Gòn. Trong cuộc đấu thầu, Trần Văn Khải đã giành chiến thắng. Nguyễn Văn Hiếu rất tức giận và muốn trả thù Trần Văn Khải. Ông ta đã sai người giết chết Trần Văn Khải. Sau khi Trần Văn Khải qua đời, vợ ông ta là bà Trần Thị Mai đã phải gồng gánh gia đình. Bà đã phải bán hết nhà cửa và đất đai để nuôi các con. Hai con trai của Trần Văn Khải là Trần Văn Liêm và Trần Văn Lợi đã trưởng thành. Trần Văn Liêm là một người đàn ông tài giỏi và có chí hướng. Ông ta đã thành lập một công ty xây dựng và trở nên giàu có. Trần Văn Lợi là một người đàn ông yếu đuối và nhu nhược. Ông ta đã bị Nguyễn Văn Hiếu lợi dụng và trở thành con rối của ông ta. Cuốn 2 Trong cuốn 2, Trần Văn Lợi đã kết hôn với con gái của Nguyễn Văn Hiếu là Nguyễn Thị Hoa. Ông ta đã bị Nguyễn Văn Hiếu ép buộc phải kết hôn với Hoa để đổi lấy một số quyền lợi kinh doanh. Trần Văn Liêm đã yêu Hoa từ lâu. Ông ta đã rất đau khổ khi biết tin Hoa sẽ kết hôn với Trần Văn Lợi. Sau khi kết hôn, Trần Văn Lợi và Nguyễn Thị Hoa đã có một đứa con trai. Tuy nhiên, hôn nhân của họ không hạnh phúc. Trần Văn Lợi vẫn yêu Hoa nhưng Hoa lại không yêu ông ta. Trong khi đó, Trần Văn Liêm đã kết hôn với một người phụ nữ khác. Ông ta đã có một cuộc sống hạnh phúc bên vợ và con cái. Cuối cùng, Nguyễn Văn Hiếu đã bị trừng trị vì những tội ác của mình. Ông ta đã bị bắt và bỏ tù. Review Giọt Máu Ái Tình là một tiểu thuyết tình yêu và báo thù. Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ 20. Tác phẩm có những điểm mạnh sau: Truyện có cốt truyện hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Nhân vật được xây dựng sinh động, có tính cách và tâm lý phức tạp. Ngôn ngữ trong truyện giàu chất thơ, mang đậm màu sắc của văn học lãng mạn. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số điểm hạn chế như: Một số tình tiết trong truyện còn thiếu logic. Nhân vật Nguyễn Thị Hoa được xây dựng chưa thực sự thuyết phục. Nhìn chung, Giọt Máu Ái Tình là một tác phẩm đáng đọc đối với những ai yêu thích thể loại tiểu thuyết tình yêu và báo thù. Đánh giá Giọt Máu Ái Tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả bởi cốt truyện hấp dẫn, nhân vật sinh động và ngôn ngữ giàu chất thơ. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những mâu thuẫn và xung đột trong xã hội Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ 20. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp giàu nghèo, giữa cái thiện và cái ác, giữa tình yêu và thù hận. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác giả. Tác giả lên án những thế lực xấu xa, những kẻ gây ra đau khổ cho người khác. Đồng thời, tác giả ca ngợi tình yêu chân chính, tình mẫu tử và tình cảm gia đình. Giọt Máu Ái Tình là một tác phẩm văn học có giá trị. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Mời các bạn mượn đọc sách Giọt Máu Ái Tình (2 Tập) của tác giả Việt Đông.
Tạ Ơn Thượng Đế
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Tạ Ơn Thượng Đế của tác giả Jean Vautrin & Vũ Đình Phòng (dịch). Bức tranh thơ mộng này thuật lại cuộc đời của ba thế hệ người Cajun, những người tiên phong rời nước Pháp đến định cư ở Lousiana. Những nhân vật này rất mạnh mẽ, phóng khoáng, cực đoan: Edius Raqun, người tiên phong cứng đầu, bà vợ Bazelle và cô con gái Azeline. Rồi đến chàng rể tương lai, Farouche Ferraille Crowley, người sống ngoài vòng pháp luật. Còn cả Palestine Northwood, thủy thủ từ Nantucket, và còn nhiều nhân vật khác của câu chuyện bắt đầu ở những nhánh sông và kết thúc ở New Orleans, vào thời điểm nhạc jazz xuất hiện. Lối hành văn của tác giả mô phỏng thổ ngữ ở Lousiana. *** Giải Goncourt, giải thưởng văn học danh giá của nước Pháp, vừa được trao cách đây vài giờ cho tác giả Hervé Le Tellier với tác phẩm «L'anomalie», được xuất bản bởi Gallimard. Lần gần nhất nhà xuất bản này có sách đoạt giải Goncourt là vào năm 2016 với «Chanson Douce» (Người lạ trong nhà) của tác giả Leïla Slimani. --- Giải Goncourt (Prix Goncourt) là một giải thưởng văn học Pháp được sáng lập theo di chúc của Edmond de Goncourt vào năm 1896. Hội văn học Goncourt thành lập chính thức năm 1900 và giải đầu tiên được trao ngày 21 tháng 12 năm 1903. Giải Goncourt, được sáng lập để trao mỗi năm cho «tác phẩm văn xuôi xuất sắc nhất trong năm», nhưng hầu như chỉ trao cho tiểu thuyết. Nó là giải thưởng văn học Pháp được mong muốn nhất. Mặc dù tiền thưởng của giải chỉ là 10 euro, nhưng sự nổi tiếng mà Goncourt đem lại cho cuốn sách sẽ là một phần thưởng lớn thay thế. Các thành viên của viện Goncourt họp vào các thứ ba đầu tiên mỗi tháng trong phòng khách của họ tại tầng hai nhà hàng Drouant ở Paris (Place Gaillon, quận 2). Tên người được giải sẽ công bố ngày 3 tháng 11 sau bữa ăn trưa tại nhà hàng (Năm nay, do ảnh hưởng của Covid-19 nên thời gian công bố đã được lùi lại). Giải chỉ trao cho mỗi nhà văn một lần. Duy có Romain Gary năm 1956 nhận giải với tiểu thuyết «Racines du ciel» (Rễ trời) và năm 1975 nhận một giải nữa với «La vie devant soi» (Cuộc sống ở trước mặt), nhưng dưới bút danh Émile Ajar. --- Một số cuốn sách đoạt giải đã được xuất bản tại Việt Nam: 1905: Những kẻ văn minh (Les Civilisés) - Claude Farrère 1916: Khói lửa (Le Feu) - Henri Barbusse 1919: Dưới bóng những cô gái đương hoa (À l'ombre des jeunes filles en fleurs) - Marcel Proust 1933: Thân phận con người (La Condition humaine)- André Malraux 1936: Sự tha thứ muộn màng (L'Empreinte du dieu) - Maxence Van der Meersch 1948: Những gia đình cự tộc (Les Grandes Familles)- Maurice Druon 1951: Bờ biển Syrtes (Le Rivage des Syrtes) - Julien Gracq 1956: Rễ trời (Les Racines du ciel) - Romain Gary 1970: Chúa tể đầm lầy (Le Roi des aulnes) - Michel Tournier 1974: Cô thợ thêu (La Dentellière) - Pascal Lainé 1975: Cuộc sống ở trước mặt (La Vie devant soi) - Émile Ajar 1977: Câu chuyện New York (John l'Enfer) - Didier Decoin 1978: Phố những cửa hiệu u tối (Rue des Boutiques obscures) - Patrick Modiano 1984: Người tình (L'Amant) - Marguerite Duras 1985: Những cuộc hôn thú man dại (Les Noces barbares) - Yann Queffélec 1987: Đêm thiêng (La Nuit sacrée) - Tahar Ben Jelloun 1988: Triển lãm thuộc địa (L'Exposition coloniale) - Erik Orsenna 1989: Tạ ơn Thượng Đế (Un grand pas vers le bon Dieu) - Jean Vautrin 1990: Chiến trường vinh quang (Les Champs d'honneur) - Jean Rouaud 1991: Những người con gái dòng Chúa chịu nạn (Les Filles du Calvaire) - Pierre Combescot 1995: Di chúc Pháp (Le Testament français) - Andreï Makine 1996: Chiếc máy bay tiêm kích Zéro (Le Chasseur Zéro) - Pascale Roze 1997: Chiến trận (La Bataille) - Patrick Rambaud 1998: Nỗi niềm (Confidence pour confidence) - Paule Constant 1999: Tôi đi đây (Je m'en vais) - Jean Echenoz 2000: Ingrid Caven - Jean-Jacques Schuhl 2001: Brésil Đỏ (Rouge Brésil) - Jean-Christophe Rufin 2003: Người tình của Brecht (La Maîtresse de Brecht) - Jacques-Pierre Amette 2004: Mặt trời nhà Scorta (Le Soleil des Scorta) - Laurent Gaudé 2005: Ba ngày ở nhà mẹ (Trois jours chez ma mère) - François Weyergans 2006: Những kẻ thiện tâm (Les Bienveillantes) - Jonathan Littell 2007: Alabama Song - Gilles Leroy 2008: Nhẫn thạch (Syngué sabour. Pierre de patience) - Atiq Rahimi 2009: Ba phụ nữ can đảm (Trois femmes puissantes) - Marie NDiaye 2010: Bản đồ và vùng đất (La Carte et le Territoire) - Michel Houellebecq 2012: La Mã sụp đổ (Le Sermon sur la chute de Rome) - Jérôme Ferrari 2013: Hẹn gặp lại trên kia (Au revoir là-haut) - Pierre Lemaitre 2014: Không khóc (Pas pleurer) - Lydie Salvayre 2016: Người lạ trong nhà (Chanson douce) - Leïla Slimani 2017: Chương trình nghị sự (L'Ordre du jour) - Éric Vuillard   Mời các bạn mượn đọc sách Tạ Ơn Thượng Đế của tác giả Jean Vautrin & Vũ Đình Phòng (dịch).
Câu Chuyện New York
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Câu Chuyện New York của tác giả Didier Decoin & Viễn Nguyên (dịch). Didier Decoin sinh năm 1945, bắt đầu con đường cầm bút với nghề làm báo rồi trở thành nhà văn có tên tuổi ở Pháp. Năm 1995, Didier Decoin được bầu làm tổng thư ký Viện Hàn Lâm Goncourt. Tác phẩm mang tên "John l’Enfer" (John Địa Ngục) - qua bản dịch của chúng tôi - "Câu chuyện New York" - đã được giải thưởng Goncourt năm 1977. Một nhà phê bình văn học viết trên báo Aurore bấy giờ đánh giá: “... Đối với tôi, đó là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi đã đọc trong mùa ấy”. Dịch giả Viễn Nguyên​ *** Didier Decoin viết nhiều truyện dài và kịch bản đã chuyển thành phim. "Khi chiếc xe tải của hãng truyền hình NA đến hiện trường xảy ra tai nạn, đám đông đã tự động tản ra làm hai nhóm; trên lề đường nhốn nháo, ồn ào như thể một đàn ong vỡ tổ. Những người được "may mắn" chứng kiến tận mắt tai nạn - đứng hơi lùi về phía sau. Nhóm những kẻ chạy đến quá muộn đứng gần hơn, bàn tán dựng lại cảnh bi thảm bên chỗ nạn nhân nằm. Họ ước đoán những cơ may sống sót và đưa ra các lời khuyên: "Có thể y bị trật khớp, có phần dập nát" "Đừng đụng vào y, cứ như thế chờ cảnh sát cơ động đến; không được di chuyển, không được cởi mũ y ra." "Máu chảy từ các lỗ mũi thì đó là dấu hiệu xấu rồi! Sao không gập một chiếc áo vét-tông đặt dưới gáy kẻ khốn khổ ấy?"... Còi ôtô cảnh sát New York rú lên từ xa, phía đầu công viên Row, gió nóng hầm hập thổi, uốn cong các cần ăng-ten mềm dẻo."... Tác phẩm này mang tên John l'Enfer (John Địa Ngục) - qua bản dịch của Nhà xuất bản Lao Động - "Câu Chuyện New York" - đã được giải thưởng Goncourt năm 1977. Xin trân trọng giới thiệu. *** TÓM TẮT Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết của nhà văn Didier Decoin, được xuất bản năm 1977 và giành giải thưởng Goncourt. Truyện kể về cuộc đời của John, một thanh niên người Pháp sinh ra ở New York. John là một đứa trẻ mồ côi, được một gia đình người Pháp nhận nuôi khi còn nhỏ. Anh lớn lên ở Pháp, nhưng luôn cảm thấy mình là người xa lạ ở đất nước này. Sau khi tốt nghiệp đại học, John quyết định trở về New York để tìm kiếm nguồn gốc của mình. Anh bắt đầu cuộc sống ở thành phố này với tư cách là một nhà văn. Tại New York, John gặp gỡ nhiều người, từ những người nghèo khổ đến những người giàu có, từ những người thành đạt đến những người thất bại. Anh bắt đầu hiểu được sự phức tạp và đa dạng của thành phố này. John cũng bắt đầu khám phá quá khứ của mình. Anh tìm hiểu về cha mẹ đẻ của mình, về những người đã nuôi nấng anh và về những người đã ảnh hưởng đến cuộc đời anh. Trải qua những trải nghiệm ở New York, John bắt đầu tìm thấy chính mình. Anh trở thành một người đàn ông trưởng thành, có bản sắc riêng. Nhân vật John: Nhân vật chính của truyện. Anh là một người đàn ông trẻ tuổi, đang tìm kiếm bản thân và nguồn gốc của mình. Madame de Saint-Sauveur: Bà là người phụ nữ đã nuôi nấng John khi còn nhỏ. Bà là một người phụ nữ giàu có và quyền lực, nhưng cũng rất yêu thương John. Monique: Một cô gái người Pháp mà John yêu. Cô là một người phụ nữ xinh đẹp và thông minh, nhưng cũng rất bí ẩn. Larry: Một người đàn ông người Mỹ mà John gặp ở New York. Anh là một người đàn ông thành đạt và phóng túng, nhưng cũng rất tốt bụng. Cốt truyện Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết về sự tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Truyện kể về cuộc đời của John, một thanh niên người Pháp sinh ra ở New York. Anh lớn lên ở Pháp, nhưng luôn cảm thấy mình là người xa lạ ở đất nước này. Sau khi tốt nghiệp đại học, John quyết định trở về New York để tìm kiếm nguồn gốc của mình. Tại New York, John gặp gỡ nhiều người, từ những người nghèo khổ đến những người giàu có, từ những người thành đạt đến những người thất bại. Anh bắt đầu hiểu được sự phức tạp và đa dạng của thành phố này. John cũng bắt đầu khám phá quá khứ của mình. Anh tìm hiểu về cha mẹ đẻ của mình, về những người đã nuôi nấng anh và về những người đã ảnh hưởng đến cuộc đời anh. Trải qua những trải nghiệm ở New York, John bắt đầu tìm thấy chính mình. Anh trở thành một người đàn ông trưởng thành, có bản sắc riêng. Đánh giá Câu Chuyện New York là một tiểu thuyết xuất sắc của Didier Decoin. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Truyện kể về một câu chuyện tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Truyện đã khắc họa một cách chân thực và cảm động hành trình của John trong việc tìm kiếm chính mình. Truyện cũng đã gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về sự trưởng thành và tìm thấy bản thân. Review Câu Chuyện New York là một cuốn tiểu thuyết rất đáng đọc. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Dưới đây là một số điểm nổi bật của truyện: Cốt truyện hấp dẫn: Truyện kể về một câu chuyện tìm kiếm bản thân và nguồn gốc. Cốt truyện của truyện được xây dựng một cách logic và chặt chẽ, với nhiều tình huống bất ngờ và hấp dẫn. Nhân vật được xây dựng tốt: John là một nhân vật được xây dựng rất tốt. Anh là một người đàn ông trẻ tuổi, có tính cách phức tạp và đa dạng. Những nhân vật khác trong truyện cũng được xây dựng rất tốt, với những tính cách và số phận riêng. Thông điệp nhân văn sâu sắc: Truyện gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về sự trưởng thành và tìm thấy bản thân. Truyện cho thấy rằng, mỗi người cần phải trải qua những thử thách và trải nghiệm để có thể tìm thấy chính mình. Nếu bạn đang tìm kiếm một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và ý nghĩa thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn. Mời các bạn mượn đọc sách Câu Chuyện New York của tác giả Didier Decoin & Viễn Nguyên (dịch).
Bài Ca Núi Anpơ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Bài Ca Núi Anpơ của tác giả Vasil Bykov & Văn Phú (dịch).   Nhiều thế hệ các nhà văn Xô-viết đã khai thác đề tài về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩđại, soi rọi nó từ nhiều góc độ khác nhau, và đã tạo nên những tác phẩm xuất sắc của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa viết về chiến tranh. Sau Phađêep. Erenbua, Sôlôkhốp, Ximônốp, v.v… những năm gần đây độc giả Xô-viết đánh giá cao các tác phẩm của Bônđarep, Tsakopxky, Bưcốp... và một loạt các tác giả trẻ khác. Trong lớp nhà văn kể trên, Vaxin Bưcốp, người Bieldrutxia (Bạch Nga), có một vị trí đặc biệt, và sở trường về truyện vừa. Ông đã được thưởng Huân chương Sao đỏ. Sinh năm 1924 ở Vilepcko, Bưcốp đã bước vào tuổi 18 đồng thời với cuộc chiến tranh khốc liệt chống phát xít. Cả thời thanh niên, Bưcốp đã lăn lộn trong chiến hào, và dấu ấn của những cuộc chiến đấu ấy còn in đậm suốt đời trong sáng tác của ông. Bản thân Bưcốp đã từng bị thương nặng, ngất lịm lâu đến nỗi đã được xếp vào hố chôn cùng với những người hy sinh, nhưng may mắn sao, ông đã tỉnh lại và được đưa về cứu chữa. Có lẽ vì thế, những trang miêu tả chiến đấu trong tác phẩm của ông hết sức chân thật, nóng bỏng. Ông không bao giờ nhìn chiến tranh bằng con mắt tĩnh tại, hoặc muốn đơn giản hóa hiện thực. Không phải ngẫu nhiên, nhà phê bình văn học E. Xi-Đôrốp đã viết: «Tất cả các tác phẩm của V. Bưcốp đều được soi rọi trong một ảnh sáng chân lý khốc liệt mang tính bi kịch: Có những giờ phút lịch sử mà con người chỉ có thể bảo tồn và xác định được những gì còn là chất người ở trong mình bằng cách trả giá cao nhất. đó là hy sinh mình hẳn về thể chất, để tạo nên được một chiến công!». Và chính Vaxin Bưcốp cũng đã phát biểu quan niệm sau đây về sáng tác của mình: «Điều trước tiên và chủ yếu mà tôi quan tâm là hai yếu tố đạo đức, có thể thâu tóm đơn giản như sau: Con người là gì khi đứng trước sức mạnh hủy diệt của một hoàn cảnh phi nhân đạo? Con người có năng lực làm được gì, khi mọi khả năng giành quyền sống đã bị vắt kiệt đến tận đáy? ...». Như vậy, đối với ông, cái kết cục cuối cùng của nhân vật không quan trọng bằng ý thức chủ đạo của con người hành động, con người tự vượt lên khỏi hoàn cảnh tưởng như không lối thoát của mình. Do quan niệm như vậy, Bưcấp không ngần ngại đầy nhân vật của mình vào những thử thách thắt nút, đến mitc, mọi giá trị tinh thần, đạo đức phải được phơi bày đến đây. Lúc bình thường, những nhân vật của Bưcốp không hề là những người xuất sắc hoặc có tính cách gì đặc biệt, thậm chí còn khá nhiều yếu điểm, khuyết điểm. Nhưng khi linh cách của họ được tôi luyện qua hoàn cảnh chiến đấu, họ trở nên mạnh mẽ, cao thượng, và sẽ tới lúc, họ làm nên những kỳ tích phi thường, đến chính họ cũng không ngờ. Đó là chủ kiến của Bucop về con người bình thường, – có thể nói là lầm thường. Tính bi kịch cũng là nét nổi bật trong các tác phẩm của Bưcốp. Hầu như tác phẩm của ông cũng mang đậm tính bi kịch: Từ Tiếng bầy sếu kêu (1960) đến Phát tên lửa thứ ba (1962)— tác phẩm đã gây ra khá nhiều tranh cãi về phẩm chất con người Xô-viết – đến Bài ca núi Anpơ (1964)— một mối tình quốc tế cảm động của những người tù - rồi tới Điểm cao đáng nguyền rủa (1968). Xốtnhicốp (1970). Đài kỷ niệm (1976), chất là kịch trong những tình huống mà nhân vật phải trải qua, càng ngày càng đậm, và làm người đọc phải suy nghĩ sâu sắc. Nhưng, ưu điểm của Bưcốp là ở chỗ tính bi kịch này không làm yếu con người trong tác phẩm của ông. Nó chỉ càng thúc đẩy con người vươn lên. Tới những tính cách mạnh mẽ, những quyết định quả cảm, và vì thế nó có tinh chất tích cực, tính chất tiến công. Nói khác đi, nó đẩy nhân vật của Bưcốp vươn tới chủ nghĩa anh hùng ngay cả trong điều kiện không thuận lợi nhất. Trong cuộc chiến đấu vừa với nội tâm, vừa với ngoại cảnh ấy, không một người nào được quyền sống vô ích và chết vô ích. Mỗi cá nhân phải trả lời trước tập thể, trước cả lịch sử nữa, về những hành động của mình, dù anh ta ở trong một hoàn cảnh biệt lập đi chăng nữa. Anh ta phải vận dụng mọi ý chí, kinh nghiệm, xử trí mọi quan hệ theo lương tâm và trách nhiệm cao nhất của mình. Chính đó là nét đặc trưng trong nhân vật của Bưcốp, mà nhà lý luận mỹ học V. Borep gọi là “tính tích cực lạc quan trong nhân vật bi kịch, đẩy vọt nhân vật lên tới tầm vóc tiến công”. Giới thiệu hai truyện vừa của V. Bưcốp được dư luận Liên Xô khá chú ý là Bài ca núi Anpơ và Phát tên lửa thủ ba( 1), chúng tôi mong giới thiệu thêm với bạn đọc Việt Nam một phong cách viết về chiến tranh, về chủ nghĩa anh hùng thầm lặng của người chiến sĩ, không phải trong chiến thắng vẻ vang, mà ngay trong những giây phút khó khăn, nặng nề, thậm chí tạm thời thất bại; giây phút mỗi người phải đối mặt với sự hy sinh và cái chết, tự đấu tranh với bản thân để giữ được và phát huy những gì cao đẹp, trong sáng nhất trong mình. NHÀ XUẤT BẢN TÁC PHẨM MỚI *** TÓM TẮT Bài ca núi Anpơ là một truyện vừa của nhà văn Vasil Bykov, được xuất bản năm 1964. Truyện kể về câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh, một người Nga và một người Đức, tại một trại tù ở dãy núi Anpơ. Nhân vật Nikolai Kovaliov: Một người lính Hồng quân bị bắt làm tù binh. Anh là một người đàn ông mạnh mẽ và kiên cường, nhưng cũng rất tình cảm. Inga: Một cô gái Đức bị bắt làm tù binh. Cô là một người phụ nữ xinh đẹp và dịu dàng, nhưng cũng rất kiên cường và dũng cảm. Cốt truyện Kovaliov và Inga gặp nhau trong một trại tù ở dãy núi Anpơ. Họ nhanh chóng bị thu hút bởi nhau, nhưng tình yêu của họ gặp phải rất nhiều khó khăn. Họ phải đối mặt với sự thù địch của những tù nhân khác, những người không muốn nhìn thấy một người Đức và một người Nga yêu nhau. Họ cũng phải đối mặt với sự nghi ngờ của chính bản thân mình, khi họ không thể tin rằng một người như họ có thể yêu một người như người kia. Dù vậy, tình yêu của họ vẫn vượt qua mọi thử thách. Họ đã cùng nhau vượt qua những ngày tháng khó khăn trong trại tù, và họ đã cùng nhau trốn thoát. Họ đã đến được một vùng đất tự do, nơi họ có thể sống cùng nhau và xây dựng một tương lai mới. Tính bi kịch Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn mang đậm tính bi kịch. Tình yêu của Kovaliov và Inga phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, và họ đã phải hy sinh rất nhiều để được ở bên nhau. Họ đã phải rời bỏ quê hương, gia đình và bạn bè của mình. Họ cũng đã phải đối mặt với sự thù địch của những người khác. Tuy nhiên, tính bi kịch trong truyện cũng không làm giảm đi sức hấp dẫn của nó. Tình yêu của Kovaliov và Inga là một tình yêu đẹp và cao thượng, và nó đã vượt qua mọi thử thách để tồn tại. Đánh giá Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn xuất sắc của Vasil Bykov. Truyện đã khắc họa một cách chân thực và cảm động câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh. Truyện cũng đã thể hiện được sức mạnh của tình yêu, khi nó có thể vượt qua mọi thử thách. Review Bài ca núi Anpơ là một truyện ngắn rất đáng đọc. Truyện có một cốt truyện hấp dẫn, những nhân vật được xây dựng tốt và một thông điệp nhân văn sâu sắc. Truyện sẽ mang đến cho bạn những cảm xúc sâu lắng và những suy ngẫm về tình yêu, chiến tranh và con người. Dưới đây là một số điểm nổi bật của truyện: Cốt truyện hấp dẫn: Truyện kể về một câu chuyện tình yêu giữa hai người tù chiến tranh, một người Nga và một người Đức. Chuyện tình của họ gặp phải rất nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả và được ở bên nhau. Nhân vật được xây dựng tốt: Kovaliov và Inga là hai nhân vật được xây dựng rất tốt. Họ là những người có tính cách mạnh mẽ, kiên cường và tình cảm. Thông điệp nhân văn sâu sắc: Truyện gửi gắm một thông điệp nhân văn sâu sắc về tình yêu, chiến tranh và con người. Tình yêu có thể vượt qua mọi thử thách, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Nếu bạn đang tìm kiếm một truyện ngắn hấp dẫn và ý nghĩa, thì Bài ca núi Anpơ là một lựa chọn tuyệt vời. *** Điều trước tiên và chủ yếu mà tôi quan tâm là hai yếu tố đạo đức, có thể thâu tóm đơn giản như sau: Con người là gì, khi đứng trước sức mạnh hủy diệt của một hoàn cảnh phi nhân đạo? Con người có năng lực làm được gì, khi mọi khả năng giành quyền sống đã bị vắt kiệt đến tận đáy?... V. BƯCỐP Những năm gần đây độc giả Xô Viết đánh giá cao các tác phẩm của Bondarep, Tsakopxky, Bưcốp… Trong lớp nhà văn kể trên, Vaxin Bưcốp, người Biêlðrutxia (Bạch Nga), có một vị trí đặc biệt và sở trường về truyện vừa. Ông đã được thưởng Huân chương Sao đỏ. Sinh năm 1924 ở Vitepxkơ, Bưcốp đã bước vào tuổi 18 dòng thời với cuộc chiến tranh khốc liệt chống phát xít. Cả thời thanh niên, Bucốp đã lăn lộn trong chiến hào, và dấu ấn của những cuộc chiến đấu ấy còn in đậm suốt đời trong sáng tác của ông. Có lẽ vì thế, những trang miêu tả chiến đấu trong tác phẩm của ông hết sức chân thật, nóng bỏng. Ông không bao giờ nhìn chiến tranh bằng con mắt tĩnh tại, hoặc muốn đơn giản hóa hiện thực. Nhiều tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Trong số đó nổi bật nhất là những cuốn: Tiếng bầy sếu kêu (1960), Phát tên lửa thứ ba (1962), Bài ca núi Anpơ (1964), Điểm cao đáng nguyền rủa (1968), Xôtnhicốp (1970), Đài kỷ niệm (1976)...   GIÁ: 17 Đ Mời các bạn mượn đọc sách Bài Ca Núi Anpơ của tác giả Vasil Bykov & Văn Phú (dịch).