Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cậu Tú - Jules Vallès

Tập II Cậu Tú chủ yếu kể lại cuộc kiếm sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, do đó một mặt Juyn Valex vẽ lên một bức tranh khá sinh động về xã hội Pari, mặt khác ông vạch ra bước đầu đi vào hoạt động chính trị của Jăc Vanhtrax mà cũng là của bản thân ông. Chắc chẳn là khi viết về cuộc sống chật vật của Jăc Vanhtrax ở Pari, Juyn Valex đã liên hệ với cuộc sống ở Pari của những Raxtinhăc, Ruybemprê trong Tấn trò đời mà Jăc Vanhtrax gọi là những người “anh em về tham vọng và lo âu của mình”. Nhưng cái xã hội Pari của Juyn Valex có khác cái xã hội Pari của Banzăc, là vì tham vọng của Ruybeniprô, một kẻ muốn vươn tới danh vọng và giàu sang, có khác tham vọng của Jăc Vanhtrax, một kẻ bất bình muốn chống lại bất công xã hội. Ở đây hầu như vắng bóng những quý tộc hay tư sản hãnh tiến, cùng với những cảnh ăn chơi đàng điếm, xa hoa, mà phần nhiều là nhân dân lao động, là sinh viên, và nhất là những người làm chính trị, trong đó nổi bật lên nhân vật Matutxanh, một điển hình chính khách tài tử. Không khí chính trị ở đây đậm nét hơn, căng hơn trong Vỡ mộng chẳng hạn, vì là không khí sau những ngày tháng Sáu 1848, sau cuộc đảo chính 1852 của tên độc tài Napôlêông III. Cái xã hội đó, cái không khí đó đã chuyển Jăc Vanhtrax từ cái chí hướng muốn làm thợ đến chỗ dứt khoát trở thành “người chỉ huy những kẻ mặc áo rơđanhgốt (trí thức) xếp thành hàng ngũ chiến đấu bên cạnh những kẻ mặc áo bludơ (công nhân)”, đúng như lời khuyên của người công nhân già Pari mà Jăc Vanhtrax đã gặp buổi đầu khi mới bước chân tới Pari. *** Juyn Valex (Jules Vallès) là một nhà văn lớn mà cũng là một chiến sĩ kiên cường của Công xã Pari. Ông sinh năm 1832 ở thị trấn Puy (xứ Ôvecnhơ) nước Pháp và mất năm 1885 tại Pari. Xuất, thân từ một gia đình công chức, Juyn Valex ngay từ thuở bé đã là nạn nhân của một nền giáo dục gia đình khắc nghiệt cũng như một nền giáo dục nhà trường sai lầm. Cha ông làm giám thị, sau làm giáo sư trung học, tuy cũng thương con, nhưng lại là một người nhút nhát, luôn luôn lo sợ cho chức vụ của mình, do đó mà sinh ra khắc nghiệt với con, thậm chí có lần, để khỏi bị liên lụy, đã cho giam con vào một nhà thương điên sau khi Juyn Valex tham gia vào một vụ chống đối cuộc đảo chính của Napôlêông thứ III. Mẹ Juyn Valex xuất thân từ nông dân nhưng có tư tưởng hãnh tiến, học làm sang, muốn cho con làm nên danh giá, và, vì không được toại nguyện, nên trút cả nỗi cay đắng lên đầu con, roi vọt hành hạ con đến tàn nhẫn. Một mặt khác, cha Juyu Valex muốn cho con trở thành giáo sư, nhưng cậu học sinh Juyn Valex, qua tấm gương của bố, đã chán ngấy cái cảnh nhà trường do bọn phản động công giáo thời Đế chính thứ II lũng đoạn, ở đó các giáo sư vừa quỵ lụy, khúm núm trước hiệu trưởng và cấp trên, lại vừa hành hạ học trò bằng đòn và phạt, ở đó người ta dạy cho thanh niên một kiểu học tầm chương trích cú, nô lệ sách cũ người xưa, xa rời thực tế. Chính cái giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường sai lầm, tàn nhẫn ấy đã tác động mạnh tới cậu bé Juyn Valex đa cảm và sớm biến cậu thành một kẻ bất bình, môt con người nổi loạn. *** Nhưng con người bất bình ấy đã trở nên một chiến sĩ cách mạng kiên cường, thì lại là do hoàn cảnh xã hội nước Pháp lúc bấy giờ. Khi Juyn Valex sinh ra thì phong trào công nhân Pháp bắt đầu lên mạnh với công cuộc công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa bắt đầu ở nước Pháp trong những năm 30 thế kỷ XIX, và nó được đánh dấu bằng những cuộc đấu tranh và khởi nghĩa của công nhân ở Lyông (1831, 1834) và ở Pari (1832, 1834). Song giai cấp công nhân Pháp chỉ có thể trưởng thành sau khi nó đã dứt bỏ được mọi ràng buộc với giai cấp tư sản để lần đầu tiên, đứng lên như một lực lượng chính trị độc lập, trực diện đấu tranh chống giai cấp tư sản vào tháng Sáu năm 1848. Và chính là phải trải qua những ngày tháng Sáu đẫm máu ấy nó mới bước đầu rũ bỏ được ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng, của mọi thứ“chủ nghĩa xã hội tư sản và tiểu tư sản”. Tuy nhiên, những năm liền sau khi cách mạng 1848 thất bại ở châu Âu nói chung, chính là “thời đại - như Lênin đã nói,- mà tinh thần cách mạng của phái dân chủ tư sản đã suy vong rồi (ở châu Âu), trong khi đó thì tinh thần cách mạng của giai cấp vô sản xã hội chủ nghĩa chưa tới lúc già dặn” [1] . Riêng ở nước Pháp, trong thời kỳ đầu của nền Đế chính thứ II tối phản động thiết lập từ tháng Chạp 1852, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân bị lắng xuống cho mãi tới những năm 60 nó mới được phục hồi. Và với sự thành lập Chi nhánh Pháp Quốc tế thứ nhất năm 1866, một thời kỳ bão táp cách mạng mới lại mở ra để đến khi giai cấp tư sản thống trị, dưới nhãn hiệu Chính phủ Quốc phòng, đầu hàng quân xâm lược Phổ (tháng Giêng 1871), thì nó lên tới đỉnh cao với phong trào Công xã Pari thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới trong bảy mươi hai ngày (18 tháng 3 đến 28 tháng 5 năm 1871). *** Juyn Valex sinh ra và lớn lên trong cái hoàn cảnh lịch sử xã hội như thế đó. Thị trấn quê hương ông ở sát cạnh những trung tâm công nghiệp như Xanh-Êchiên (nơi mà cha ông đã từng tới dạy học một thời kỳ), như Lyông, nên không khỏi nhận được âm vang mạnh mẽ của những làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân. Và chàng trai có chí hướng muốn làm thợ đó đã từng đi đầu trong đám thanh niên cộng hòa khi nổ ra cuộc Cách mạng tháng Hai 1848. Sau đó, khi được gia đình gửi lên Pari theo học, Juyn Vanlex, sống nghèo khổ ở thủ đô, lại đã sớm tiếp xúc với phong trào cách mạng trên mảnh đất chôn nhau của cách mạng. “Tôi đã đi vào lịch sử cuộc Cách mạng. Người ta vừa mở ra trước mặt tôi một quyển sách trong đó có nói về bần cùng và đói khát, trong đó tôi thấy diễu qua những bộ mặt làm tôi nhớ đến cha Jôdép hoặc chú Sađơna, những người thợ mộc với chiếc compa mở rộng ra làm vũ khí và những nông dân cầm chĩa sắt có vấy máu ở đầu răng. Có những phụ nữ đi tấn công Vécxay, vừa đi vừa thét lên là bà Vêlô làm nhân dân đói, và ngọn giáo có xiên ổ bánh mì đen - một lá cờ - đâm thủng các trang sách và chọc vào mắt tôi... ... Lần này thì không còn là tiếng La-tinh nữa. Họ nói: “Chúng tôi đói! Chúng tôi muốn tự do!” Tôi đã ăn thử bánh mì quá cay đắng ở gia đình tôi, tôi đã bị hành hạ quá nhiều ở nhà nên những tiếng kêu đó không thể không làm kinh động trái tim tôi”. [2] Juyn Valex đã kể lại như thế cuộc tiếp xúc đầu tiên của mình với phong trào cách mạng Pari qua một cuốn lịch sử cuộc Cách mạng 1789 và người ta đã đưa ông mượn đọc. Và không lạ rằng Juyn Valex đã từ đó tiến tới đứng dưới lá cờ của Công xã Pari để hợp thành cái mà ông gọi là “Cuộc đại liên minh của những đau khổ”. *** Công xã Pari thất bại; Juyn Valex, sau khi chiến đấu đến phút cuối cùng, đã trốn ra được nước ngoài, ông sang Bỉ, Thụy-sĩ, rồi sang Anh. Ở đấy ông sống nghèo khổ bằng nhuận bút của một số bài báo, trang tiểu thuyết đăng trên vài tờ báo cộng hòa xuất bản ít ỏi ở Pari. Đến năm 1880, khi luật ân xá được ban hành, ông trở về nước Pháp, viết sách viết báo cho tới lúc qua đời. Juyn Valex bắt đầu viết từ khoảng cuối những năm 50, sau khi đã chật vật làm đủ nghề để kiếm sống ở Pari. Ông cộng tác với một số tờ báo như Figarô , Biến cố ; ông giao thiệp với Giracđanh, ông vua báo chỉ đương thời, và Vilơmexăng, chủ nhiệm báo Figarô . Trên tờ Figarô ông giữ mục Thị trường chứng khoán là vấn đề mà ông nghiên cứu trong cuốn sách đầu tay của ông nhan đề Tiền bạc (1857). Nhưng ít lâu sau ông bỏ mục đó để cộng tác với những tờ báo không chịu phục tùng nền Đế chính như Tạp chí châu Âu , Tự do , Báo chí , Thời đại ... và chẳng mấy lúc ông nổi tiếng là một nhà văn luận chiến hăng hái và độc lập, một nhà báo trào phúng và chiến đấu, độc đáo và tài năng. Năm 1865, với tác phẩm Những kẻ không phục tùng (Les Réfractai res) tập hợp một số bài báo, ông nhằm đả kích lối sống nghệ sĩ giang hồ mà nhà văn đương thời Hăngri Muyêcgiê đã ca tụng trong cuốn Cảnh đời sống giang hồ có ảnh hưởng xấu tới thanh niên. Năm 1867 ông sáng lập tờ báo Đường phố , trong đó ông đả kích thẳng tay mọi thiết chế chính trị, văn học, nghệ thuật đương thời, đả kích những kẻ mà ông gọi là “bọn giữ đồ thánh trong văn học, chính trị, và cả trong Cách mạng nữa!” Nhưng ra đến số 34 thì tờ báo bị tịch thu và phá sản. Trong thời kỳ Công xã ông thành lập tờ báo Tiếng kêu của dân chúng nó mau chóng trở thành cơ quan chủ yếu của Công xã, trong đó Juyn Valex khích lộ tinh thần kháng chiến đến mức “kiên cường tuyệt vọng”. Nhưng tác phẩm văn học lớn và chủ yếu của Juyn Valex là bộ tiểu thuyết ba tập Jăc Vanhtrax (Jacques Vingtras) mà hai tập đầu ông đã viết và cho đăng báo ngay từ hồi ông còn lưu vong ở Anh (1878 - 1879). Sau khi trở về Pháp ông đã chữa lại hai tập đó và viết tiếp tập ba mà mãi sau khi ông mất, năm 1886, mới được in thành sách. Jăc Vanhtrax là một tiểu thuyết tự truyện thuật lại chính cuộc đời của tác giả và, với nội dung xã hội - chính trị, nó giúp cho chúng ta hiểu khá sâu xã hội Pháp từ sau cuộc cách mạng 1848, trải qua thời Đế chính thứ II cho đến phong trào Công xã Pari. Cùng với tiểu thuyết Jăc Vanhtrax cũng phải kể đến việc Juyn Valex cho xuất bản lại tờ báo Tiếng kêu của dân chúng từ năm 1883, và ông đã làm cho nó thành tờ báo cách mạng lớn đầu tiên của nước Pháp. Tiếng kêu của dân chúng đã tham gia vào tất cả mọi chiến dịch xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, nó đã kịch liệt phản đối những cuộc chinh phục thuộc địa ở Tuynidi và ở Bắc kỳ (Bắc-bộ Việt Nam), nó đã nhiệt liệt ủng hộ những cuộc đình công của thợ mỏ tại Anzin và Đơcazơvilơ. Và điều đáng kể là Juyn Valex đã biết đặt Juyn Ghexđơ (Jules Guesde), vị lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân Pháp đương thời, vào địa vị cây bút số một trong tờ báo của ông. Chính sự hợp tác của Ghexđơ và những đồng chí của ông này đã khiến cho Tiếng kêu của dân chúng trở thành cơ quan ngôn luận lớn nhất của giai cấp công nhân đã xuất hiện ở Pháp từ trước cho đến thời bấy giờ. Juyn Valex qua đời năm 1885, hai năm sau khi Tiếng kêu của dân chúng lại xuất hiện. Hàng chục vạn nhân dân lao động Pari đã đưa tới nghĩa địa Perơ Lasedơ “người ứng cử viên của bần cùng” [3] “người đại biểu của những kẻ bị xử bắn” ấy. Nhân dân Pari đã biểu lộ lòng tôn trọng chính đáng của mình đối với “con người tâm huyết” ấy, “người bạn chân thành của thợ thuyền, người chiến sĩ vẻ vang của Công xã, nhà văn cách mạng lớn của nước Pháp!” *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax, với ba tập của nó nhan đề lần lượt: - tập I, Chú bé (L’enfant - 1879), - tập II, Cậu tú (Le bachelier - 1881), - tập III, Người khởi nghĩa (L’insurgê - 1886), Jacques Vingtras là một kiệt tác kỳ lạ của Juyn Valex; nó đã đặt ông vào hàng những nhà văn xuôi lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Một mặt, bộ tiểu thuyết vạch rõ bước đường tất yếu của một người trí thức tiểu tư sản, dưới thời Đế chính thứ II, đi đến với cách mạng. Bước đường của Jăc Vanhtrax chính là bước đường của bản thân Juyn Valex. Có thấy hết mọi nỗi nhục nhã, cay đắng vì nghèo khổ, vì hành hạ, vì bất công, mà chú bé Jăc Vanhtrax, cậu tú Jăc Vanhtrax phải chịu đựng trong gia đình, ở nhà trường và ngoài xã hội, có thấy cả cái không khí đấu tranh chính trị ở Pari, dưới thời Đế chính thứ II, khi ngấm ngầm khi công khai, sôi sục, mới hiểu được tại sao Jăc Vanhtrax đã trở thành một kẻ bất bình, và từ một kẻ bất bình trở thành người khởi nghĩa đứng dưới lá cờ của Công xã Pari. Mặt khác, bộ tiểu thuyết cũng đồng thời vừa là một bức tranh sinh động vừa là mội bản cáo trạng nghiêm khắc cái xã hội Pháp đương thời, dưới nền Đế chính thứ II cực kỳ phản động, dưới sự thống trị của giai cấp tư sản, đầy rẫy những tàn ác, bất công trong quan hệ gia đình, quan hệ học đường, quan hệ xã hội. Tập I, Chú bé, với lời đề tặng cho TẤT CẢ NHỮNG AI đã buồn chán đến chết trong trường học hoặc đã phải khóc trong gia đình, những ai, trong thời thơ ấu, bị thầy giáo hành hạ hoặc bị cha mẹ đánh đập”, chính là đã vạch trần những quan hệ gia đình, quan hệ học đường tàn nhẫn đó. Tập II, Cậu tú với lời đề tặng cho “Những ai bụng nhồi đầy tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh mà chết đói”, vừa mỉa mai cái nền giáo dục nhồi sọ, sách vở, xa rời thực tế, vừa tố cáo “cái xã hội chó má nó làm cho những người có học thức và những người can đảm phải chết đói khi họ không muốn làm đầy tớ cho nó”. Đến như tập III, Người khởi nghĩa, với lời đề tặng “Những liệt sĩ năm 1871, những ai là nạn nhân của bất công xã hội, đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và họp thành, dưới lá cờ của Công xã, cuộc đại liên minh của những đau khổ”, thì chính là một thiên ký sự lịch sử độc đáo kể lại bước đấu tranh cách mạng tất yếu của Jăc Vanhtrax, và, nhân đó, vẽ lên cả bức tranh nhân dân lao động Pari sôi sục nổi dậy chống chính quyền tư sản đầu hàng giặc, thiết lập Công xã và chiến đấu suốt trong bẩy mươi hai ngày. *** Tiểu thuyết Jăc Vanhtrax , như vậy, với hình tượng nhân vật chủ yếu của nó là Jăc Vanhtrax, bao trùm cả ba tập, vẽ lên thành một điển hình sắc nét của người chiến sĩ Công xã Pari, là một tác phẩm xuất sắc của dòng văn học hiện thực chủ nghĩa nước Pháp, kế tục trực tiếp những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan, của Banzắc mà Juyn Valex đã từng nói đến trong tác phẩm của ông. Tính cách của Jăc Vanhtrax được hình thành và phát triển trong những hoàn cảnh gia đình và xã hội nhất định, đó là điều mà tác giả có ý thức đầy đủ và muốn chứng minh rõ ràng. Song, giá trị hiện thực của bộ tiểu thuyết tăng lên qua ba tập sách với trình độ khái quát hóa càng ngày càng cao thêm. Tập I chủ yếu trình bày cái khung cảnh gia đình và nhà trường tỉnh nhỏ trong đó chú bé Jăc Vanhtrax lớn lên. Trước hết hình tượng bố và mẹ Jăc Vanhtrax cũng đạt tới những nhân vật điển hình sinh động: ông bố tiêu biểu cho một lớp giáo viên không phải thiếu học vấn, thiếu tư tưởng và tinh cảm, nhưng vì nhút nhát, một mặt luôn luôn lo sợ mất chức vụ, mặt khác lại bị bà vợ đành hanh khống chế, nên hóa ra một con người tầm thường, hèn với cấp trên, ác với con; bà mẹ đại diện cho hạng tiểu tư sản xuất thân từ nông dân, với đầu óc hẹp hòi mà hãnh tiến” - muốn đua đòi, bay nhẩy, học làm sang, thậm chí vì không được toại nguyện mà đâm cay nghiệt, tàn ác với con. Bên cạnh hai nhân vật đó tập truyện còn đạt ở một loạt hình tượng chân dung những giáo sư, hiệu trưởng trường trung học, như Tuyếcfanh kiêu căng, hợm hĩnh, khinh người nghèo, hành hạ học trò có học bổng, như Lacbô tâm ngẩm, giảo quyệt, - cóc cần học trò và chỉ dịu dàng với đám con nhà quyền thế, hay như Bécgunha đạo mạo, lạnh lùng, lên mặt triết gia mà độc ác với con như quỷ sứ, thậm chí đã giết con bằng roi vọt tàn bạo, tất cả đều nói lên một chế độ nhà trường ghê tởm, thối tha. Rõ ràng, với những tính cách nhân vật và bức tranh xã hội đạt tới tính chân thực, tính lịch sử và tính khái quát cao, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax đã kế tục và phát huy vẻ vang những truyền thống hiện thực chủ nghĩa của Xtăngđan và Banzắc ở nửa sau thế kỷ XIX khi mà chủ nghĩa hiện thực phê phán cổ điển đã bắt đầu xuống dốc với Guyxtavơ Flôbe để mở ra thời kỳ của chủ nghĩa tự nhiên và tiếp theo nó là hàng loạt những trường phái suy đồi đủ loại. Hơn thế nữa, mặc dầu Juyn Valex không vẽ lên một bức tranh xã hội thật rộng lớn, đồ sộ và không đả kích mạnh vào cái mặt cơ cấu của xã hội tư sản là quan hệ tiền bạc như Xtăngđan hay Banzắc, nhưng ông lại vượt hẳn các nhà hiện thực phê phán cổ điển này ở chỗ ông đã mường tượng thấy và đề cập tới người chủ tương lai của xã hội sẽ thay thế cho giai cấp tư sản, đó là giai cấp công nhân. Với ông lần đầu tiên trong văn học Pháp xuất hiện hình ảnh người công nhân, hình ảnh quần chúng nhân dân như những nhân vật anh hùng phần nào với cái tư thế của những người làm nên lịch sử, và ít ra thì cũng đã có lúc họ làm nghiêng ngửa cả uy thế của những tay chính khách tư sản sừng sỏ trong bộ máy thống trị như Juyn Fery, Gămbetta... Và, mặc dầu bộ tiểu thuyết kết thúc bằng sự thất bại của Công xã Pari, người ta không thấy bóng dáng của bi quan thất vọng, trái lại hình ảnh cuối cùng vẫn là hình ảnh của chiến đấu trong tương lai: ... Tôi vừa vượt qua một dòng suối làm biên giới. Chúng nó không bắt được tôi nữa! Và tôi sẽ còn có thế đứng với nhân dân, nếu nhân dân lại bị ném ra ngoài phố và dồn tới chỗ phải chiến đấu. Tôi nhìn trời về phía tôi cảm thấy có Pari. Trời một màu xanh tươi rói, với những đám mây đỏ. Tưởng như một chiếc áo bludơ lớn đẫm máu”. Chính ở những điểm trên đây, tiểu thuyết Jăc Vanhtrax của Juyn Valex, cùng với toàn bộ nền văn học Công xã Pari, đã hé mở ra một bước phát triển mới của văn học hiện thực chủ nghĩa sau này, đó là bước đường đi tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta ngày nay. Tháng Năm 1972 TRỌNG ĐỨC Mời các bạn đón đọc Cậu Tú của tác giả Jules Vallès.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quỷ Bạc
Tên eBook: Quỷ Bạc (full prc, pdf, epub) Tác giả: Teresa Denys Thể loại: 18+, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Tên tiếng Anh: The Silver Devil Biên dịch: Shane_D Hiệu chỉnh: minogirl, bibi in love, mayphieulang, lehuyenlily Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Truyện không dành cho người dưới 18  tuổi. Bầu trời xanh ngắt. Cuộc diễu hành huyên náo đến điếc đặc tai. Những lời reo hò cổ vũ, những cái liếc mắt lả lơi, những sắc màu ngập tràn đường phố. Kẻ tung hô, kẻ ngoái nhìn. Cứ như một tuồng kịch. Các khung cửa sổ chật ních. Người người người người người người. Đầy rẫy. Choáng ngợp. Và tẻ ngắt. Đột ngột, có ai đó ở trên cao, cao lắm. Ai đó khoác lên mình chiếc áo màu đen, với mái tóc cũng đen dài. Ai đó nơi chân trời xanh thẳm thẳm. Ai đó như một con chim nhỏ giữa bốn bề rộng lớn. Ta nheo mắt, ngược nắng nhìn. Ai đó như quạ con bé nhỏ của ta. Phải. Của ta. Và ta sẽ tìm được nàng... Mời các bạn đón đọc Quỷ Bạc của tác giả Teresa Denys.
Lạc mất và Hy vọng - Colleen Hoover
Tên eBook: Lạc mất và Hy vọng Tác giả: Colleen Hoover Nguyên tác: Hopeless Thể loại: Best seller, Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: Lạc Anh Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 506 Ngày xuất bản: 01/07/2014 Giá bìa: 115.000 ₫ Công ty phát hành: Thái Uyên Nhà xuất bản: NXB Lao Động Chụp pic: sundaefruit Type: Meobongxu87, salie_20, saral, intheend Beta: kararoxbee Tạo prc: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Nguồn: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu:    Họ đã lạc mất nhau… từ mười ba năm trước. Mười ba năm kiếm tìm trong vô vọng của chàng trai, cũng là mười ba năm chọn cách lãng quên, khóa chặt ký ức của cô gái mang tên Hope - Hy vọng.   Vậy mà số phận vẫn cho họ gặp lại nhau, tình cờ và nhiều bí ẩn. Họ để mắt đến nhau từ cái nhìn đầu tiên, bị hút vào nhau nồng nàn say đắm, và đã không chỉ like, không chỉ love, mà còn live - sống vì nhau.   Và rồi cô gái khám phá ra mảnh ký ức xa xôi kia trong những giấc mơ chớp nhoáng. Những bí mật thân phận, những uẩn khúc gia đình lần lượt được phơi bày. Còn có một cuộc đời khác từ mười ba năm trước mà trong vô thức cô luôn né tránh. Giờ đây, cô đối diện với nó vô vọng, hoang mang.   Nhưng lần này, cô đã có chàng trai ở bên. Người đã cho cô biết thế nào là cảm xúc bất diệt của nụ hôn đầu. Người đã hứa trao cho cô những lần đầu tuyệt diệu nhất và những lần cuối cùng vĩnh cửu nhất. Người đã cho cô biết thế nào là tin yêu và hy vọng từ những ngày bé thơ:   “Hứa với mình là khi ông ta làm cậu buồn, cậu hãy nghĩ đến bầu trời nhé?”   Tôi không biết sao cậu ấy muốn tôi hứa, nhưng vẫn gật đầu.   “Nhưng tại sao?”   “Bởi vì,” cậu ấy lại ngửa mặt lên nhìn những vì sao, “bầu trời luôn luôn đẹp. Dù khi tối tăm, mưa giông hay âm u, nó vẫn rất đẹp để ta ngắm nhìn. Mình yêu nó, vì mình biết nếu mình có thất bại, cô đơn hay sợ hãi, mình chỉ cần nhìn lên và nó sẽ ở đó… luôn luôn đẹp đẽ, dẫu có bất cứ chuyện gì.” Tác giả COLLEEN HOOVER:   Colleen Hoover là nữ tác giả có sách bán chạy nhất của New York Times. Năm 2012, bà xuất bản series truyện đầu tiên gồm ba cuốn Slammed, Point of Retreat và This girl. Năm 2013, bà xuất bản series thứ hai bao gồm Hopeless, Losing Hope và Finding Cinderella. Các tiểu thuyết của bà đều viết về những câu chuyện tình yêu đầy đam mê nhưng cũng chứa nhiều uẩn khúc, với một văn phong lãng mạn, tràn đầy thấu cảm và yêu thương. Trong số đó, tiểu thuyết Lạc mất & Hy vọng (Hopeless) gây ấn tượng mạnh với độc giả hơn cả. Cuốn sách đã dẫn đầu bảng xếp hạng của New York Times trong một thời gian dài, trở thành tiểu thuyết dành cho lứa tuổi trưởng thành hay nhất năm 2013. Mời các bạn đón đọc Lạc mất và Hy vọng của tác giả Colleen Hoover.
Ánh Sáng Vô Hình
Đây là cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Thế giới thứ II kể về số phận một cô gái mù người Pháp và cậu bé mồ côi người Đức. "Marie Laure sống cùng cha tại Paris, gần bảo tàng Lịch sử tự nhiên, nơi cha cô làm thợ khóa chính. Khi lên 6 tuổi, Marie Laure bị mù. Cha cô đã dựng một mô hình thu nhỏ hoàn chỉnh về khu phố hai cha con đang sống để cô có thể ghi nhớ bằng cách chạm và lần tìm đường về nhà. Năm Marie Laure 12 tuổi, Đức Quốc xã chiếm giữ Paris, cô cùng cha chạy trốn đến thành phố nằm trong tường thành, Saint-Malo, nơi ông chú thích ẩn dật của cha cô sống trong một ngôi nhà cao ven biển. Hai cha con họ đã mang theo một viên đá quý giá trị nhất và cũng nguy hiểm nhất viện bảo tàng. Cậu bé mồ côi Werner lớn lên cùng em gái trong một khu mỏ than ở Đức. Cậu bị một chiếc điện đài thô sơ mà hai anh em tìm được thu hút, sau này Werner trở thành chuyên gia lắp ráp và sửa chữa những thiết bị thông tin. Tài năng ấy đem lại cho cậu một vị trí trong học viện tàn bạo của Đoàn Thanh niên Hitler, sau đó là nhiệm vụ đặc biệt theo dấu quân kháng chiến. Ngày càng nhận thức được cái giá sinh mệnh con người phải trả cho trí tuệ của mình, Werner đi qua trung tâm cuộc chiến, cuối cùng, đến Saint-Malo, nơi cậu gặp gỡ Marie-Laure." "Cảm nhận tinh tế về từng chi tiết vật chất và những phép ẩn dụ tài tình" của Doerr ( theo báo San Francisco Chronicle ) thật tuyệt vời. Khéo léo đan cài cuộc đời của Marie-Laure và Werner, ông đã làm sáng tỏ cái cách con người cố gắng đối tốt với nhau bất chấp bao khó khăn chồng chất. Mất đến 10 năm sáng tác, " Ánh sáng vô hình" thực sự là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời và vô cùng xúc động của  Anthony Doerr - nhà văn của " những câu chữ không bao giờ mất đi sức lay động" ( theo thời báo Los Angeles Times ). *** Marie Laure, cô gái nhỏ người Pháp, năm lên 6 tuổi không may bị mù. Cha cô là thợ khóa và là người nắm giữ chìa khóa của Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, ông làm cho cô một mô hình thu nhỏ của khu phố để cô có thể dễ dàng đi lại và tìm được đường về nhà. Werner cậu bé mồ côi người Đức sống trong khu mỏ than, cậu bé là một thiên tài và có niềm say mê đặc biệt với việc sửa chữa các thiết bị thông tin. Chính nhờ tài năng ấy cậu được vào Học viện Quân sự Hitle. Nhưng chiến tranh đã làm đảo lộn cuộc sống của hai con người trẻ tuổi này. Marie Laure mất đi người cha thân yêu của mình, cô sống trong niềm đau khổ và niềm thương nhớ với cha. Đối với cô chỉ có những lần được đi ra bãi biển Môle nhúng đôi chân trần của mình xuống dòng nước lạnh băng, lúc đó cô mới có được khoảng thời gian ngắn ngủi thôi không nghĩ về người cha yêu quý của mình. Hai con người ở hai đầu chiến tuyến nhưng cái cách họ gặp nhau và đối xử với nhau cho ta thấy được tình người trong chiến tranh. Họ cùng nhau giúp đỡ nhau vượt qua những ngày tháng khốc liệt của bom đạn. Cuốn tiểu thuyết viết rất hay về những chiếc điện đài, những mảnh vỏ ốc, thành phố Breton của Saint-Malo, về viên kim cương truyền thuyết và cái cách con người cố gắng đối tốt với nhau bất chấp bao khó khăn xung đột. Ngòi bút tinh tế, giàu cảm xúc, đậm chất Mỹ của Anthony Doerr đã kết nối thành công suy nghĩ chân thực của hai nhân vật trẻ tuổi trong cuộc chiến tranh tàn khốc với độc giả. Ánh sáng vô hình cho thấy khả năng cảm nhận nhạy bén về những chi tiết vật lý và những phép ẩn dụ bóng bẩy của Anthony Doerr thật kinh ngạc. 10 năm cầm bút, tác phẩm này là một kiệt tác nghệ thuật, một cuốn tiểu thuyết vô cùng cảm động. Tác phẩm cũng lọt vào danh sách 10 cuốn sách hay nhất năm 2014 của New York Times và được Hudson Booksellers chọn là Cuốn sách của năm 2014. Năm 2015, cuốn sách được trao giải thưởng danh giá Pulitzer cho tiểu thuyết hư cấu. Hãng phim 20 th Century Fox cũng đã nhanh chóng mua lại bản quyền phim của cuốn tiểu thuyết này. Cuốn sách được nhiều nhà chuyên môn đánh giá cao về nội dung, lẫn giá trị nghệ thuật. Đây được coi là cuốn sách tốn nhiều giấy mực nhất của giới phê bình văn học. Trịnh Dung - Zing.vn *** Review Regina Morgenstern:   Một cuốn tiểu thuyết lịch sử quá xuất sắc về nhiều mặt. Nếu có một điều duy nhất nào mình không thích về cuốn sách này, đó chính là nó khá dài và diễn biến chậm. Nhưng không vì vậy mà mình cảm thấy chán nản khi đọc "Ánh sáng vô hình".Lấy bối cảnh thế chiến II, với 2 tuyến nhân vật chính là Werner ở Đức và Marie-Laure bị mù ở Pháp - đều ở độ tuổi còn rất nhỏ, tác giả Anthony Doerr đã dựng nên một cốt truyện rất tài tình để rồi đưa hai tầm hồn này tới lại gần với nhau. Đây không phải là bức tranh khắc họa một chiến tuyệt khốc liệt với nhiều tổn thất cho cả hai bên. Đây là những câu chuyện đầy thương cảm về cuộc đời 2 người còn trẻ bị cuốn vào vòng xoáy tưởng chừng không hồi kết của chiến tranh: Werner được huấn luyện để phục vụ cho Đức từ rất sớm, Marie-Laure phải sống một cuộc sống thấp thỏm lo âu với đôi mắt mù lòa. Bên cạnh mạch kể chính lại là những câu chuyện nhỏ lẻ hết sức sâu sắc, như cái cách dân Pháp ghét lính Đức đến mức tìm đủ mọi cách để chọc phá, hay tìm cách để truyền thông tin phục vụ quân Đồng minh bất chấp sự cấm đoán của quân Đức chiếm đóng. "Ánh sáng vô hình", mình ban đầu đã suy hết từ điều nọ sang thứ kia. Mình cho rằng nó là những "điều tốt đẹp nho nhỏ mà chúng ta không nhìn thấy trong thời điểm chiến tranh", rằng cuốn sách này sẽ cho chúng ta rõ hơn về những điều ấy. Nào ngờ nó là một khái niệm đơn giản nằm ngay trong cuốn sách, một ẩn ý của tác giả: sóng radio (vật lý)! Trong cuốn sách này có hai hình ảnh biểu tưởng lớn nhất là viên đá Biển Lửa - tương truyền có khả năng khiến người ta bất tử và chiếc radio. Có lẽ ai cũng rõ, radio là một công cụ không thể thiếu trong các cuộc chiến tranh nói chung và Thế chiến II nói riêng, vậy nên đưa hình ảnh sóng radio vào tên sách cũng hợp tình hợp lý. Nhưng phải đọc hết cuốn sách này, các bạn mới vỡ lẽ ra tầm quan trọng của sóng radio, cách mà nó tạo nên mạch truyện, cách mà nó gắn kết các nhân vật với nhau! Quả là diệu kì, một cái tên mà mang bao ý nghĩa, một hình ảnh được sử dụng đầy sáng tạo! Để nói hết về cuốn sách này quả thực là không thể. Một cuốn sách chứa chan cảm xúc, đậm tính nhân văn và tràn đầy nghị lực. Quả không hổ danh tác phẩm đoạt giải Pulitzer! *** Cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Thế giới thứ II kể về số phận một cô gái mù người Pháp và cậu bé mồ côi người Đức, nhưng lại khiến chúng ta phải nhìn nhận lại thời đại thông tin ngày nay. Hiếm người biết rằng trong số những vật báu Đức Quốc xã săn lùng trong Thế Chiến thứ hai có cả một viên kim cương nguyên chất với sức mạnh làm cho người giữ nó bất tử nhưng lại đem đến xui rủi cho những người xung quanh. Giống như tất cả những lời đồn xoay quanh Đức Quốc xã, đây là một câu chuyện có màu sắc hư ảo, nhưng những chi tiết nghe qua càng phi lý thì người ta lại càng thấy đáng tin. Ai chứ quân Đức Quốc xã đi tìm kiếm sự bất tử thì có gì lạ? Câu chuyện về viên kim cương Lửa Biển, tuy chỉ là chuyện trong cuốn tiểu thuyết Ánh sáng vô hình của Anthony Doerr, đủ cho ta thấy sức mạnh của những lời đồn đại. Trong một thời kỳ không biết nên tin vào ai hay vào cái gì, những luồng thông tin như thế có thể điều khiển người ta mù quáng đến mức quên mình, như những câu chuyện xảy ra xung quanh Werner Pfennig, một binh nhì Đức, trong Ánh sáng vô hình. Giữa một thời đại mù mờ tin tức liên lạc như Chiến tranh Thế giới II, không có gì ngạc nhiên khi những nguồn tin chính xác trở thành tài nguyên quý giá. Werner được chiêu mộ vào quân đội chính bởi cậu là một thiên tài khoa học kỹ thuật, có thể lắp ráp sửa chữa mọi loại điện đài và dựa vào sóng điện đài để tính toán vị trí quân địch. Werner nắm trong tay sức mạnh của thông tin, và với sức mạnh ấy cậu đã gây ra nhiều cái chết. Khỏi phải nói những điều khủng khiếp nào có thể xảy ra bởi một sai lầm đơn giản trong tin tức của cậu. Nhưng những tin tức bên ngoài thì không thiếu sai lạc. Những lời đồn thổi phồng về quân Đức Quốc xã đủ lan truyền sự sợ hãi từ khi chưa một bóng lính nào xuất hiện. Quân Đức - người thợ làm vườn khẳng định - có sáu mươi nghìn máy bay chiến đấu; quân Đức có thể hành quân trong nhiều ngày mà không cần ăn; quân Đức giao cấu với bất cứ nữ sinh nào chúng gặp. Một phụ nữ đứng sau quầy bán vé nói rằng quân Đức mang lựu đạn khói và giắt súng chống tên lửa ở thắt lưng; quân phục của chúng, cô thì thào, được làm từ một chất liệu còn cứng hơn thép. Và khi thành phố bị chiếm đóng, những lời đồn vẫn tiếp tục lan rộng, bóp nghẹt những cư dân trong sợ hãi. Còn ở bên kia chiến tuyến, quân Đức theo đuổi cuộc chiến với niềm tin được củng cố bởi những lời đồn đại phần thực phần hư, những lời ca ngợi Lãnh tụ Hitler với khả năng vô song và những tin tức khẳng định thắng lợi ngay cả khi quân sĩ tử trận còn thường hơn cơm bữa. Cùng lúc đó, việc trao đổi thông tin bị kiểm duyệt gắt gao. Những chiếc radio đúng tiêu chuẩn Đức không bắt được các kênh nước ngoài, trong khi sử dụng loại radio khác là bất hợp pháp. Những bức thư giữa Werner khi còn ở Học viện Chính trị Quốc gia và em gái cậu phải qua bộ phận kiểm duyệt của trường trước khi đến tay người nhận, và những thông tin không thích hợp sẽ bị bôi đen để không thể đọc được. Quả là một sự mỉa mai khi không thể tiếp cận thông tin từ những người thân thuộc đáng tin mà chỉ được phép nghe những lời đồn không rõ căn cứ. Rốt cuộc, giữa cuộc chiến đuổi bắt những bóng ma lời đồn, chỉ có sự thật bên trong là đáng để người ta tin vào. Những niềm tin mà Werner chia sẻ với em gái từ ngày còn bé, đó mới là ngọn đèn soi sáng cho cậu thoát khỏi cái bóng tăm tối của chiến tranh. Giữa những lời đồn, những thông tin sai lệch, lòng tin vào thiện tâm giữ cậu đi đúng hướng. Werner chọn tin vào cô gái mù người Pháp, chỉ từ một ngày quan sát cô, chỉ từ những lời của Jules Verne cô đã đọc để cậu bắt được trên điện đài, cậu đã quyết định giúp đỡ cô. Cậu thà đặt lòng tin vào một người gần như xa lạ còn hơn tiếp tục làm thuộc hạ của một đế chế giả dối. Đế chế tạo dựng trên nền tảng những lời đồn thổi, những thông tin bưng bít thì không thể đứng vững quá lâu. Werner đã từng tin vào những cơ hội mà Lãnh tụ có thể cho cậu và nước Đức. Werner đã từng tận tuỵ lần theo sóng điện đài để tìm những bóng ma quân Xô Viết, “những kẻ nổi dậy hết sức nguy hiểm, có kỷ luật; chúng làm theo mệnh lệnh của những chỉ huy tàn bạo, hung ác,” để đến lúc ra trận mới nhận ra rằng những kẻ chống đối mà cậu tiếp tay kết liễu chỉ là “những kẻ khố rách áo ôm, những kẻ cố cùng liều thân chẳng có gì để mất.” Khoảng cách giữa những lời tuyên truyền bên tai cậu và hiện thực mà cậu biết càng ngày càng lớn, cho tới khi cậu không thể bỏ qua được nữa. Hệ thống tin tức phi nhân cuối cùng đã không chiến thắng được lòng tin của con người. Câu chuyện từ Thế Chiến thứ hai, nhưng cũng không hiếm trong thời đại thừa mứa thông tin ngày nay. Internet có thể giúp thổi phồng những tin đồn không ai bận tâm xác minh, và khiến người ta lao vào sát phạt nhau mà không cần biết mình làm tổn thương những ai. Thông tin thời nào cũng là quý giá, và nó có thể xé nát hoặc hàn gắn thế giới, tuỳ vào cách ta sử dụng. Khi một lời nói ra vô danh, chẳng ai phải chịu trách nhiệm về nó, và người ta lao vào phân tích, đánh giá cũng chẳng mất gì. Nhưng bạn à, hãy dùng niềm tin, nỗ lực và lòng tốt của mình một cách tỉnh táo. Mời các bạn đón đọc Ánh Sáng Vô Hình của tác giả Anthony Doerr.