Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bà Già Phá Luật

Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão. Nếu chẳng thể nào thanh tân trở lại, chi bằng hãy già đi theo một kiểu thật ngầu? Một bà lão nhỏ bé, 79 tuổi, Martha Anderson không có ý định dành những ngày tháng còn lại của cuộc đờitrong viện dưỡng lão mà không làm gì, bàmuốn hướng đến một lối sống thú vị hơn nhiều: với phong cách Robin Hood. Cùng với bốn người bạn thân,Martha quyết định nổi dậy chống lại tất cả các luật lệ áp đặt lên họ. Rồi khi những người già trở nên táo bạo hơn, các hoạt động của họ cũng leo thang: họ đưa ra một kế hoạch xảo quyệt để trốn khỏi viện dưỡng lão và ĐI CƯỚP!!! Sức quyến rũ đặc biệt của Bà già phá luật đến từ những tình tiết gây cười, bất ngờ, khó đoán nhưng thật đáng suy ngẫm. Xét cho cùng, đời người cốt yếu đâu phải sống được bao nhiêu năm, mà là bao nhiêu năm ta thực sự sống? *** "Một ngày phạm tội, khỏe lên gấp bội" (Chritina, bảy mươi bảy tuổi) Từ thế giới ảm đạm của tuổi già và sự quên lãng, tại trại dưỡng lão Kim Cương ngày một tồi tệ, 5 người già đã về hưu bỗng "sống lại" với những kế hoạch phạm tội để đời. Cùng với nhau 5 người bạn thân: Martha, Brains, Christina, Anna-Greta và Rake lần lượt phá bỏ tất cả các luật lệ, đưa người đọc đến những bất ngờ nối tiếp. Với một phong cách rất Robin Hood, những ông bà lão tuổi thất tuần từng bước dấn thân vào một đời sống tội phạm đầy rủi ro nhưng cũng vô cùng quyến rũ. Họ trốn khỏi trại dưỡng lão, thành lập Băng Hưu Trí, ăn trộm tại một khách sạn hạng sang, "bắt cóc" tống tiền tranh của Renoir và Monet tại Bảo tàng Quốc gia...và đi cướp ngân hàng! "Bà già phá luật" của Catharina Ingelman-Sundberg khá trọn vẹn trong vai trò một cuốn mở đầu của bộ ba tiểu thuyết. Tiểu thuyết đem tới cho người đọc những phút giây hồi hộp, bất ngờ của những tiểu thuyết trinh thám-tội phạm, những phút cười thư thái, những khoảng lắng đọng trầm lắng và sự tò mò ngóng đợi những hành trình tiếp theo của Băng Hưu Trí. Suy cho cùng, sự nổi loạn của những ông lão bà lão, là nỗi lực cuối cùng, nhưng xứng đáng để thoát khỏi sự bức bối và sự thờ ơ của một xã hội - nơi những người già bị bỏ lại như những món đồ cũ kĩ trong kho, để một lần nữa, được sống lại thực sự và sống lại thật "ngầu". Với thông điệp giản đơn: Không phải ta sống được bao nhiêu năm, mà bao nhiêu năm ta thực sự sống, cùng lối viết dễ gần, vui tươi, "Bà già phá luật" là một cuốn sách tươi sáng, tích cực mà bạn nên đọc. *** #Review #Bà_già_phá_luật Đọc xong quyển này mình cũng muốn lập băng hưu trí để già đi một cách thật ngầu :D “Tuổi già xồ tới như một con chó xồm, chưa kịp nhận ra, ta đã ở trong viện dưỡng lão” Đã vậy, nếu không thể quay trở lại tuổi thanh xuân thì làm cách nào để già đi theo một cách thật ngầu? Bà lão nhỏ bé Martha ở viện dưỡng lão quyết định nổi dậy chống lại các luật lệ, bà lên kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão và đi cướp. Thế đã đủ ngầu chưa nhỉ? Bà đến ngân hàng và quyết định cướp ngân hàng bằng cách giơ tấm biển CƯỚP ĐÂY và bảo cô thu ngân của ngân hàng “ba triệu, bỏ vào giỏ ngay lập tức”. Một vụ cướp không thể hài hước hơn và dĩ nhiên nó thất bại. Sau vụ cướp bất thành vì như trò đùa đó của bà Martha, bà về viện dưỡng lão và cùng với những người bạn của mình lập kế hoạch trốn khỏi viện dưỡng lão để phạm tội. Băng hưu trí của bà Martha đã gây ra một vụ trộm chấn động Thuỵ Điển. Họ trộm 2 bức tranh nổi tiếng của Monet và Renoir cùng với số tiền chuộc 10 triệu cuaron của viện bảo tàng. Cuộc phiêu lưu của bức tranh, số tiền và băng hưu trí cũng hấp dẫn, ly kỳ không kém một vụ truy đuổi các tên tội phạm trong các tác phẩm trinh thám đâu nhé. Một vụ phạm tội ly kỳ nhưng khá bất thường bởi cùng với nó là các tình huống hài hước phát sinh ngoài dự tính của họ. Hài hước nhưng cũng kém phần xúc động và suy ngẫm. Bà Martha ước ao có một gia đình nhưng tình yêu của đời bà bỏ đi khi con trai bà mới 2 tuổi. Con trai bà cũng ra đi mãi mãi vào một ngày Chủ nhật bên chiếc cầu tàu. Cố mang bầu để có một đứa con khác thì bà lại bị sẩy thai. Cuối cùng vì tuổi tác bà từ bỏ ý định lập gia đình. Sống ở viện dưỡng lão thì người ta tìm cách cắt xén mọi phúc lợi, bà bị cấm đoán mọi thứ, họ đối xử với những người già như những đứa trẻ mẫu giáo, nhiều khi còn không bằng một nhà tù. Không chỉ những tình huống hài hước mà Bà già phá luật cũng để lại những suy nghĩ trăn trở. Chúng ta rồi cũng sẽ già đi nhưng mấy ai hiểu được người già muốn gì và cần gì. Con cái đưa họ vào viện dưỡng lão nhưng có biết họ sống ra sao ở viện dưỡng lão? Trong nơi mà viện dưỡng lão bị biến thành nơi kinh doanh, nơi người ta trục lợi. Cái họ cần là sự quan tâm. Bà thích xem các bộ phim trinh thám gay cấn, đọc những chồng sách về các vụ giết người rùng rợn. Và việc đó quả thật đã giúp ích cho bà rất nhiều trong việc lên kế hoạch và thực hiện những phi vụ phạm tội mà đến cả cảnh sát, mafia cũng bị qua mặt. Đừng đùa với người già nhé. Sau vụ bức tranh và tiền chuộc băng hưu trí đã kịp lên kế hoạch cho những lần tiếp theo. Nghe nói Nhã Nam sắp phát hành 2 quyển nữa trong series Băng Hưu Trí này, mình ngóng chờ sự bất ngờ, táo bạo trong cuộc phiêu lưu tiếp theo của họ. *** Bà lão bé nhỏ nắm chặt tay cầm chiếc khung trợ lực Zimmer, treo gậy chống vào gần chiếc giỏ để đồ và cố phớt tỉnh. Dù gì thì một người phụ nữ bảy mươi chín tuổi chuẩn bị ra tay cướp ngân hàng lần đầu cũng cần phải có thần thái một chút chứ. Bà thẳng lưng lên, kéo sụp mũ xuống trán và đẩy cửa mở ra. Được chiếc khung Zimmer trợ lực, bà bước chậm rãi và cương quyết vào ngân hàng. Còn năm phút nữa là đóng cửa và ba người khách đang xếp hàng chờ phục vụ. Chiếc khung khẽ kêu cọt kẹt. Bà đã bôi trơn nó bằng dầu ô liu, nhưng một bánh đã lung lay kể từ lúc bà va chạm với xe đẩy dọn vệ sinh ở viện dưỡng lão. Tuy nhiên đó không hẳn là vấn đề. Điều tối quan trọng là chiếc khung trợ lực này có chiếc giỏ rộng đủ chỗ để chứa rất nhiều tiền. Martha Andersson – đến từ Södermalm, Stockholm – khòng khòng bước tới, cố tình mặc áo khoác trơn màu nhờ nhờ để tránh bị người ta để ý. Bà nhỏ con, chắc nịch chứ không béo. Bà đi đôi giày tiện dụng tối màu hoàn hảo cho việc chuồn lẹ nếu cần thiết. Đó là giả sử bà có thể tăng tốc để chạy. Đã nhiều năm rồi bà không làm điều đó, bởi vậy có lẽ bà đành hài lòng với việc rảo bước vậy. Hai bàn tay nổi gân chằng chịt của bà được giấu trong đôi găng da đã sờn và mái tóc trắng cắt ngắn được che dưới chiếc mũ nâu rộng vành. Bà đã quấn một chiếc khăn màu neon quanh cổ, bởi vậy nếu bà bị chụp ảnh, thì bức ảnh sẽ bị dư sáng và đường nét khuôn mặt bà sẽ biến mất. Chiếc khăn đó về cơ bản chỉ mang tính cẩn tắc vô áy náy, bởi vì miệng và mũi bà đã được chiếc mũ che khuất. Nhưng càng già thì bà càng phải khôn ngoan mới được. Chi nhánh ngân hàng nhỏ ở Götgatan trông giống như hầu hết các ngân hàng khác ở Thụy Điển ngày nay. Có đúng một giao dịch viên đứng đằng sau quầy dịch vụ duy nhất; những bức tường phẳng buồn tẻ; sàn nhà siêu bóng và một chiếc bàn nhỏ đặt đầy những tập quảng cáo về các gói vay ưu đãi và những lời khuyên đầu tư. Quý vị viết quảng cáo thân mến, Martha nghĩ, tôi biết cách kiếm được bộn tiền hơn nhiều! Martha định sẽ cười suốt quãng đường tới quầy và suốt cả quãng đường trở ra nữa. Bà ngồi xuống băng ghế dành cho khách hàng và giả vờ xem những tờ quảng cáo về các khoản tiết kiệm nhưng nhận thấy thật khó giữ tay mình khỏi run. Bà kín đáo luồn một tay vào túi áo tìm kẹo thơm trái cây. Một trong những thứ kẹo không tốt cho sức khỏe mà các bác sĩ đã cảnh báo bà tránh xa còn các nha sĩ thì ngấm ngầm ưa thích. Bà đã cố gắng sống lành mạnh; bà đã cố gắng để không bị đồ ngọt khuất phục. Nhưng nếu bà đang cố gắng trở thành kẻ nổi loạn, thì hôm nay là ngày bà cần làm điều đó. Bà hẳn phải được hưởng một thú vui tội lỗi chứ? Số thứ tự xếp hàng thay đổi cùng với một tiếng “tẹt” và một người đàn ông chừng tứ tuần vội bước lên quầy. Giao dịch của anh ta được xử lý nhanh chóng và rồi một thiếu nữ cũng được phục vụ nhanh chóng như vậy. Tuy thế, ở cuối hàng đợi là một ông lão và mất thời gian lâu hơn nhiều vì ông ta nói năng thì lúng búng còn xử lý giấy tờ thì luống cuống. Martha bắt đầu sốt ruột. Bà không được phép ở trong ngân hàng quá lâu. Có thể sẽ có ai đó nhận ra ngôn ngữ cơ thể của bà hoặc những chi tiết khác có thể làm bà bị lộ tẩy. Bởi thế bà cố hết sức để làm bộ giống như một quý bà đang chuẩn bị rút tiền. Mỉa mai thay, bà sắp sửa làm đúng như thế thật, dù giao dịch viên sẽ sốc vì số tiền bà rút và thực tế rằng số tiền đó không nhất thiết là tiền của bà. Nhưng ba cái chi tiết vụn vặt… Martha lần tìm mẩu báo được cắt ra để trong túi áo khoác. Bà đã lưu lại một bài báo viết về thiệt hại của các ngân hàng từ những vụ cướp. Bài báo có tiêu đề: “Cướp đây!” và trên thực tế, chúng chính là những từ đã thúc đẩy bà. Ông già ở quầy giao dịch đã gần xong, Martha chực đứng dậy khỏi sofa, cố thẳng lưng hết cỡ. Từ trước đến giờ, bà vẫn luôn là kiểu người trung thực, đáng tin cậy khiến mọi người đặt trọn niềm tin – hồi trung học bà thậm chí từng là lớp trưởng. Bây giờ bà chuẩn bị trở thành tội phạm. Nhưng nhìn vào thực tế mà xem, bà đâu còn cách nào khác để sống sót qua tuổi già? Bà cần tiền để trả cho một chỗ ở tử tế chút cho bản thân – và cho bạn bè mình. Lúc này đơn giản là bà chẳng thể quay đầu được nữa. Bà và các bạn hữu lâu năm ở dàn đồng ca của mình sẽ phải có một cái dốc bên kia đời xán lạn. Nói một cách đơn giản, một chút vui thú trong mùa thu của cuộc đời. Bà sẽ đảm bảo điều đó. Quý ông lớn tuổi ở bàn thanh toán đứng đó đã lâu, nhưng cuối cùng tiếng loa cũng vang lên và số của bà xuất hiện phía trên màn hình nơi giao dịch viên đứng. Chậm rãi, nhưng đường hoàng, bà bước lại quầy giao dịch. Bà sắp sửa hủy hoại danh tiếng gây dựng cả đời trong một khoảnh khắc. Nhưng còn có thể làm gì khác trong cái xã hội hiện đại đối xử bạc bẽo thế này với những thành viên lớn tuổi của nó chứ? Đành lòng chấp nhận nó và chịu thua, hoặc thích ứng với hoàn cảnh. Bà là kiểu người biết thích ứng với hoàn cảnh. Bà cất những bước cuối cùng tới cửa sổ quầy giao dịch, quan sát kỹ xung quanh căn phòng rồi mới dừng lại. Đoạn, gật đầu thân thiện với cô giao dịch viên, bà chìa ra mảnh báo được cắt rời: CƯỚP ĐÂY! Cô giao dịch viên đọc tít báo và mỉm cười ngẩng lên. “Vậy cháu có thể giúp gì bà ạ?” “Ba triệu – nhanh lên!” Martha hét to. Cô giao dịch viên cười tươi hơn. “Bà muốn rút tiền ạ?” “Không, cô sẽ rút tiền cho tôi, ngay lập tức!” “Cháu hiểu rồi. Nhưng tiền trợ cấp hôm nay chưa đến ạ. Phải đến giữa tháng mới có tiền trợ cấp mà bà.” Martha đã mất phần nhiều động lực. Mọi thứ đang không diễn ra như bà hình dung. Tốt nhất là phải hành động thật nhanh. Bà nhấc chiếc gậy chống lên và chọc nó qua khoảng trống dưới cửa sổ, khua mạnh hết mức có thể. “Nhanh lên! Ba triệu của tôi ngay lập tức!” “Nhưng tiền trợ cấp chưa…” “Làm như tôi nói! Ba triệu! Bỏ vào giỏ – ngay lập tức!” Đến lúc này cô gái đã chịu đựng quá đủ. Đã đến giờ đóng cửa và cô muốn về nhà. Martha dõi theo khi cô đứng dậy gọi hai đồng nghiệp nam. Cả hai trông đều đẹp trai như nhau và cười nhã nhặn. Người gần bà nhất trông giống Gregory Peck – hay là Cary Grant nhỉ? Anh ta nói: “Chúng cháu sẽ giải quyết tiền trợ cấp của bác, bác đừng lo. Và đồng nghiệp của cháu đây sẽ gọi taxi đưa bác về nhà.” Martha nhìn chăm chăm qua vách kính. Bà có thể thấy cô gái đó ở phòng trong, đang nhấc điện thoại lên. “Ồ, vậy có lẽ tôi sẽ phải cướp các vị vào lúc khác vậy,” Martha chịu thua. Bà nhanh chóng thu cây gậy chống về và nắm gọn mẩu báo trong lòng bàn tay. Tất cả bọn họ đều cười một cách ngọt ngào và giúp bà ra khỏi cửa rồi vào taxi. Họ thậm chí còn gập chiếc khung trợ lực giúp bà. “Viện dưỡng lão Nhà Kim Cương – cước ưu đãi cho người cao tuổi,” Martha vừa nói với tài xế vừa vẫy tay chào các nhân viên ngân hàng. Bà cẩn thận đút mẩu báo vào túi áo. Mọi việc đã diễn ra theo đúng kế hoạch. Một bà lão nhỏ bé mang khung trợ lực có thể làm rất nhiều điều mà nhiều người khác không làm được. Bà lại thọc tay vào túi áo khoác tìm chiếc kẹo thơm trái cây nữa và khoái chí lẩm nhẩm một mình. Để kế hoạch của bà thành công, lúc này bà chỉ cần sự giúp đỡ của bạn bè ở dàn đồng ca. Đó là những người bạn gần gũi và thân thiết nhất; những người bà đã quen biết và hát cùng suốt hơn hai mươi năm. Tất nhiên bà chẳng thể hỏi thẳng rằng họ có muốn trở thành tội phạm không. Bà sẽ phải thuyết phục bọn họ bằng nhiều phương cách tế nhị. Nhưng sau đó – và bà khá chắc chắn với điều này – họ sẽ cảm ơn bà vì đã khiến cuộc đời họ thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Martha bị đánh thức bởi tiếng “vù vù” từ phía xa xa, theo sau là một tiếng “tinh” đanh sắc. Bà thức dậy, mở mắt và cố xác định xem mình đang ở đâu. Phải rồi, đương nhiên là bà đang ở trong viện dưỡng lão. Và cũng đương nhiên đó là Rake – cái tên mà mọi người dùng để gọi ông bạn Bertil Engström của bà. Ông luôn thức dậy lúc nửa đêm để ăn vặt. Ồng có thói quen bỏ thức ăn vào trong lò vi sóng xong rồi quên biến. Martha ra khỏi giường và vào bếp với sự giúp đỡ của khung trợ lực. Vừa lẩm bẩm một mình, bà vừa mở lò vi sóng và lấy ra một chiếc đĩa phủ màng bọc thực phẩm, có mì ống và thịt viên trộn xốt cà chua. Bà mơ màng nhìn những tòa nhà phía bên kia đường. Một vài ngọn đèn tỏa sáng trong đêm. Ở phía bên kia đường hẳn các ngôi nhà vẫn còn nhà bếp tử tế, bà nghĩ. Ớ đây, trong viện dưỡng lão này, trước kia họ đã từng có nhà bếp tiện nghi, nhưng để tiết kiệm tiền và nhân lực, những người chủ mới đã cắt béng bộ phận cấp dưỡng. Trước khi Nhà Kim Cương tiếp quản viện dưỡng lão này, các bữa ăn từng là tâm điểm của mỗi ngày và hương vị thức ăn ngào ngạt bay khắp khu sinh hoạt chung. Còn bây giờ ấy à? Martha ngáp và dựa vào bồn rửa bát. Hầu như mọi thứ đều trở nên tồi tệ hơn và tồi tệ tới nỗi bà thường trốn vào những giấc mơ. Và bà vừa bị đánh thức dậy khỏi một giấc mơ tuyệt đẹp. Cảm giác cứ như thể bà đã thật sự ở trong ngân hàng đó vậy, cứ như thể tiềm thức của bà đã trỗi dậy và cố gắng nói với bà điều gì đó. Hồi còn đi học bà luôn chống lại những thứ mà bà cho là bất công. Thậm chí trong thời gian làm giáo viên, bà luôn đấu tranh chống những quy định không hợp lý và những cải cách ngớ ngẩn. Vậy mà thật lạ, ở đây trong viện dưỡng lão này, bà chỉ nhắm mắt đưa chân. Sao bà có thể dễ bảo và lờ phờ đến thế chứ? Dân chúng không thích những kẻ thống trị ở đất nước mình thì họ phát động cách mạng. Ở đây họ cũng có thể làm điều đó một cách ngon nghẻ nếu như bà có sự hậu thuẫn của bạn bè. Nhưng cướp ngân hàng, điều đó có vẻ là hơi quá đà, phải không nhỉ? Bà khẽ cười lo lắng. Bởi vì đây mới là điều đáng sợ – những giấc mơ của bà hầu như luôn trở thành sự thật. Mời các bạn đón đọc Bà Già Phá Luật của tác giả Catharina Ingelman-Sundberg.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trúng Số Độc Đắc - Vũ Trọng Phụng
Trúng số độc đắc là một biến cố, thường đem đến cho con người những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát. Trúng số độc đắc đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến một anh ký viết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta.  Thất nghiệp, Nguyễn Văn Phúc bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra, nói vào, chửa Phúc là ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ Tây ném đơn xuống đất...  Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số mọi thứ đều thay đổi. Gia đình thì thấy anh Phúc biến ra đại quý, còn người đời thì cung kính vô cùng. Cái số độc đắc không chỉ sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những bi kịch ghê gớm. Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý để ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời.  Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của chỉ một nhân vật. Ông có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhậy cảm thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác từ lâu sống dậy.  Với cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng lên án thế gian và người đời nghiêm khác, thế nhưng giọng kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ và có dịp là không quên hài hước.  Đây là tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh này thực sự là một tuyệt tác về nhiều phương diện. *** Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đặc biệt ông nổi tiếng với những bài phóng sự và được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Những tác phẩm của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám chịu nhiều chìm nổi. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên, nhưng được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo, lại mồ côi cha mẹ từ lúc mới 7 tháng tuổi, mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi đỗ bằng tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát. ***  Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa Paul Beri[1]. Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me, trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào anh: “Cậu chơi!” để cho Phúc vui vẻ đáp: “Không dám! Ấy kìa bác…”. Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào. Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc sách, người phu lại vác chổi ra đi. Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi anh là “cậu áo trắng dài” chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài. Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm, hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân… ... Mời các bạn đón đọc Trúng Số Độc Đắc của tác giả Vũ Trọng Phụng
Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Phía Sau Một Cô Gái - Ploy Ngọc Bích
Từ những bước chân dọc biển ấy, tôi bắt đầu hành trình tìm kiếm những gì ở phía sau một cô gái, từ các cô gái sống quanh tôi. Đa phần những câu truyện trong Phía sau một cô gái bắt nguồn từ chất liệu cuộc sống thật thà. Vì: Cuộc sống trong nhân dáng và tâm tính của một cô gái hiện đại tuy vất vả nhưng độc đáo. Sự dịu dàng, đằm thắm, yêu ghét khó phân minh và hay suy nghĩ chất đầy trong tâm tính. Đồng thời, cái mạnh mẽ, thông minh và tham vọng cũng chi phối nhiều mặt cuộc sống. Chính những kéo co của trái tim và khối óc trong một cô gái tự thân đã cho nhiều cái hay, lạ làm xuất phát điểm của những câu chuyện. Phía sau một cô gái, dù ngọt hay đắng, dù ghét hay thương, thì nếu quay đầu lại cũng nên dành cho quá khứ cái chớp mắt biết ơn. Vì bước ra khỏi những ngày ấy, mới có được cô gái của thời hiện tại. Phía sau một cô gái là những cái kết mở, vì truyện cũng như sống, hiếm khi kết bằng một dấu chấm tròn trĩnh, vẹn toàn. Chia tay đấy, có khi mai gặp lại. Bên nhau đấy, có khi mai rời xa. Cười và khóc, vui và buồn - cái ranh giới ấy rất mong manh... *** Giáng Sinh Về Nhà. Hayden gọi chỉ vài tiếng sau khi tôi gửi thư trả lời. Chúng tôi hẹn nhau trong một cái nhà sách. Chúng tôi tường thuật lại những sự vụ đã khiến khoảng cách giữa hai lần gặp là sáu năm. Chúng tôi cùng cười. Rồi cứ mỗi cuối tuần, rồi bất cứ khi nào rảnh … Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn trong một quán cà phê kiểu Pháp. Chúng tôi đi xem phim. Chúng tôi cùng săm soi một chiếc bánh, cố tìm xem có sợi tóc nào dính vào hay không. Chúng tôi cùng đi shopping. Tóm lại, chúng tôi hẹn hò. Giáng sinh đến ngày một gần. — Hai đêm trước giáng sinh, tôi và Hayden tay trong tay thả bộ trên những con phố trung tâm lấp lánh đèn. Tôi tựa vào vai anh, hít nhẹ mùi nước hoa rất lạ. Những ngày chờ đợi giáng sinh thật tuyệt. Trong không gian như có tiếng tíc tắc của một quả bom hẹn giờ đang nô nức chờ nổ: Vài chục cú nhích kim đồng hồ nữa thôi thì sẽ tưng bừng một niềm hạnh phúc, một sự đẹp đẽ lớn lao. Chúng tôi cứ thế bước đi trong làn hương giáng sinh thơm phưng phức. Hết con phố này sang con phố khác. Tôi trực giác rằng Hayden muốn nói với mình một chuyện, nhưng cứ lần lữa mãi. Dường như anh đang tự nhủ hãy để yên cảm giác lãng mạn này thêm một chút, thêm một chút, rồi lại thêm một chút. Tôi bên anh, im lặng chờ đợi. Trên con phố cuối cùng của lộ trình đi bộ hôm ấy, anh siết tay tôi một cái: - Nga, ngày mai anh phải quay lại Đức. Cha anh bệnh. Ông lại đã ly dị lần nữa. Anh e giáng sinh này ông chỉ một mình. Giáng sinh một mình, anh biết nó … - Giáng sinh là để về nhà. – Tôi vẫn tựa đầu vào vai anh, nhẹ nhàng cắt lời. — Đồng hồ gần 11 giờ đêm. Trên chuyến bay Hồ Chí Minh – Berlin, Hayden một tay nâng lon coca, một tay cầm chiếc bánh bông lan lạnh. Lòng anh hồi hộp ngóng đợi. Đã mười lăm cái giáng sinh anh vắng nhà. “Giáng sinh là để về nhà” – Nga đã lặp lại câu này khi tiễn anh ở sân bay. Chất giọng trầm và lạnh của cô bỗng trở nên ấm áp như một que diêm bật sáng giữa trời đông khi nói câu này. Và nó khiến anh muốn về nhà, thật sự là muốn về nhà. Hayden nâng cao lon coca hơn một chút: “Merry Christmas, em yêu!” — Tôi áp má vào tấm kiếng cửa sổ mát lạnh, nhìn dòng người hoan hỉ ngoài phố. Em trai, em gái đã cùng bạn bè hòa vào biển người đó ngay sau buổi tiệc gia đình. Chỉ mình tôi ở nhà cùng cha mẹ. Tôi quay đầu, nhìn về phía cái tivi đang oang oang. Trên ghế sô-pha, cha mẹ đang tranh nhau bấm liên tục cái điều khiển để chuyển kênh. Cha đòi xem chương trình ca nhạc giáng sinh. Mẹ lại đòi kênh đang chiếu phim The Holiday. Người già giống như trẻ con. Tôi mỉm cười, lòng dễ chịu như trong lồng ngực đang có một que diêm sưởi ấm. Hayden không biết giờ này đang làm gì. Nhưng chắc chắn là anh, sau rất nhiều năm, đã có cho mình một giáng sinh đúng nghĩa – Giáng sinh về nhà. Bận rộn, hiểu lầm, bất hòa, dù xảy ra chuyện gì đi nữa thì giáng sinh vẫn là ngày để về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Phía Sau Một Cô Gái của tác giả Ploy Ngọc Bích.
Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin
 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.