Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan

Vào thời Vua Louis XIV, các quý tộc có vợ được vì vua chuyên chế để mắt tới là cả một niềm vinh hạnh cho dòng tộc. Cái ngày mà Vị Vua-Mặt Trời này đưa cặp mắt tình đặt lên tấm thân ngọc ngà của nữ Hầu tước De Montespan, giới quý tộc ở Versailles đều chúc mừng sự may mắn của đấng phu quân. Nhưng đấy là họ chưa biết hết tính cách của Louis-Henri Pardailan, Hầu tước De Montespan! Là một người chồng hạnh phúc, yêu vợ đến mê muội, chàng không chịu nổi cảnh vợ mình rơi vào tay con người có quyền lực mạnh nhất toàn cầu hồi ấy. Nơi mà vợ chàng, người đàn bà đẹp nhất nước Pháp bấy giờ đã từng phải thốt lên với chồng : “Versailles là một thế giới khủng khiếp và sẽ chẳng có cái đầu nào không quay cuồng ở đó. Triều đình làm thay đổi cả những con người kiên định nhất”. Ngay từ lúc khám phá ra điều bất hạnh của mình, chàng đã dùng mọi phương tiện, từ cao ngạo, hỗn xược đến ti tiện để chứng tỏ cho nhà vua thấy rằng ông ta chỉ là kẻ đớn hèn, lấy cắp vợ của kẻ khác. Hầu tước đã trở thành trò cười cho thiên hạ khi chàng cho trang trí trên chiếc xe tuyệt mỹ của mình một cặp sừng nguy nga. Chàng từ chối tước hiệu, bổng lộc, những cơ hội đầy hứa hẹn mà nhà vua hứa ban tặng nếu chàng để mắt làm ngơ trước cuộc tình của Vua và vợ mình. Chàng từ chối hết thảy, đơn giản là chàng không rao bán vợ mình. Bất chấp những thủ đoạn đê tiện liên tiếp được Vua tung ra, đến những vu cáo phải đưa ra tòa xét xử, đến những ngày ngồi tù, gia tài đình đốn, suy kiệt, và cả những âm mưu ám sát, chàng vẫn cứ tiếp tục đeo đuổi lòng hận thù đối với con người đầy quyền lực hòng lấy lại vợ mình. Jean Teulé đã đằm mình vào trong quá khứ vinh quang của hoàng gia Pháp, bới tìm tất cả những thói thường diễn ra trong tầng lớp quý tộc. Những trò giả dối, đạo đức giả, lừa gạt tiền, tình… đằng sau những hào nhoáng là chất đầy những trò sa đọa, đàng điếm, con người luôn rình rập những thất thế của người khác để dè bửu, nhạo báng lẫn nhau. Tình cảm, tình thương yêu của con người đều được đem ra tính bằng chức tước bổng lộc. Tình vợ chồng mong manh… Gấp lại cuốn sách, chúng ta phần nào thấy được quá khứ của xã hội Pháp, nhưng phải chăng điều ấy giờ đây vẫn giữ nguyên giá trị của nó. Tác phẩm như một áng thơ ca, ca ngợi tình yêu, tình người bất diệt mà như tạp chí Nouvel Observateur đã viết: thật tài, đó như là một điều kỳ diệu của nền văn học Pháp. Bạn đọc có thể bị xáo trộn tâm hồn, bị đè nén, nhưng lại cười, cười với niềm hy vọng mạnh mẽ nhất. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Công ty CP sách An Tiêm.   Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Nhà Vua đã cho thúc trống dậy Để nhìn tất thẩy các lệnh bà Và người đầu tiên Người nhìn thấy Đã khiến tâm hồn Người ngất ngây. Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Hầu tước, nói đi, ngươi biết người ấy chứ? Lệnh bà xinh đẹp đó là ai? Và Hầu tước đã tiếp lời: «Tâu Bệ hạ, đó chính là vợ tôi…» (Bài hát của Saintonge, thế kỷ XVII) *** Thứ bảy ngày 20 tháng giêng năm 1663, vào quãng mười một giờ khuya, lúc ra khỏi Palais - Royal, nơi Đại công tử - em trai Vua - tổ chức một đêm khiêu vũ rầm rộ, thì hai thanh niên, được sáu người khác theo sau, lao vội vã vào trong phố. Họ mắng chửi nhau trong ánh sáng lóa của lông mũ và đăng ten. - Fils de prêtre! - Cul-vert!* • Tác giả chơi chữ, đồng âm khác nghĩa. Fils de prêtre: đồ con cha xứ (hay cũng có thể hiểu là đồ quạ con, khi thóa mạ nhau).Cul-vert: đồ nô lệ vừa được giải phóng. Một người cao gầy nhỏng, môi loe hếch ngược phô hết cả hàm lợi, trong trang phục sặc sỡ, tô điểm kim cương lấp lánh, xô một tên nhỏ thó bụng phệ đội tóc giả đen làm ra vẻ ta đây to lớn vì đôi giầy của hắn cao hết sức. Đeo đầy nhẫn và vòng tay, tên này vừa đi loạng choạng trên gót giầy, vừa như ngạt thở: - Cul-vert à?! La Frette ư! Ta, hoàng thân xứ Chalais mà mi dám coi ta là nô lệ được giải phóng ư? - Ông hoàng của những kẻ ham tình dục đồng giới thì có, đúng thế, đồ đít xệ! Hệt như Đại công tử, mi thích công tử bột hơn là đàn bà ba hoa. Còn ta, ta ghét cay ghét đắng thói đồi bại Ytalia. Mi hả, mi qua Naples mà không cần dùng cầu*! • Ý chỉ bọn đồng tính luyến ái. (Tất cả chú thích trong truyện là của người dịch). - Ối! Trong suốt cuộc cãi cọ này, cánh cửa phòng khiêu vũ, đã khép lại, vẫn được đèn rọi rất sáng, ồn ã tiếng nhạc, bốc hơi nghi ngút, đầy những động tác cuồng loạn của các vũ công, còn đây, tám người bọn họ, hiện có mặt trong bóng đen băng giá của đường phố. Một tên gù, ngồi chồm hỗm sát một cái cột, cầm một ngọn đèn sáng được đặt trong một cái bong bóng lợn, treo nơi đầu gậy, liền đứng lên ngay, đi về phía họ và gọi gióng từ xa: - Một cây đèn soi đường đưa các ngài về nhà chứ ạ, thưa các Đại công tử?… Bị thọt, hắn đi khập khiễng, người lắc lư. Tóc ép sát tận da đầu, thắt lại sau gáy thành dây giếng, hắn đi vòng quanh họ với chiếc đèn lồng chiếu sáng từng khuôn mặt. Tên Chalais nhỏ bé giang tay tát La Frette, đầu người này lắc mạnh, phả ra một làn bụi phấn đậu tằm. Bị xỉ nhục, tên cao lớn ngậm miệng, mím môi trùm kín hai hàm răng mà hắn đã trang điểm theo lối Hà Lan - quệt bơ vào các lỗ răng sâu, răng cửa và răng nanh, và do vậy mà hắn phải bành miệng, nhe lợi để làm lạnh khối bột sữa nhão ấy, tránh cho nó khỏi chảy ra. Nhưng hiện giờ, đang cơn bực tức cao độ, hắn nghiến chặt môi thành hình đít gà và phồng má trong một mối oán giận nóng bỏng. Khi hắn mở miệng trở lại, ôi thôi lũ răng của hắn trôi đi: «Cậu đã thấy chưa hả, Sain-Aignan? Nó đã tát…» - Mi đã tát anh trai ta hả, cul-vert? Một hiệp sĩ cộc cằn ác độc mười chín tuổi, đội mũ đính nhiều lông dài chĩa tua tủa và một mắt bị chột do đậu mùa, đứng sững trước Chalais. Tên xách đèn lồng, chào hàng dịch vụ chiếu sáng di động cho cả hai bên, biện bạch hành động của mình: - Đêm tối, lũ bất lương, kẻ cướp đường và bọn con trai tồi tệ, thường rình rập khách qua đường đang hối hả trở về nhà… Tám thanh niên đeo tóc giả*, chia thành hai bang, diện mạo báng bổ, tạo những bộ mặt gớm ghiếc, giằng xé các mảnh vải lụa và ru-băng trên trang phục của nhau. Tên xách đèn lồng nâng cái bong bóng sáng của mình lên: Một trong số họ, người vừa bị rủa: «Flamarens, đồ tồi đàng điếm», có vẻ mặt nhợt nhạt. Hắn đã lấy bút vẽ tự họa những đường ven giả xanh lơ, màu của giới quý tộc và của máu tinh chất. Kẻ xách đèn lồng hạ chùm sáng xuống, những cặp giầy trên nền đường lát đá bắt sáng lấp lóa. Dầu bắt đầu bốc hơi: • Đeo tóc giả là biểu trưng rất thịnh hành của giới quý tộc trong thời Vua Louis XIV tại Pháp. - Năm sol một cuốc đê! Năm sol có là gì khi mà, như các ngài đây, đeo đế giày đỏ của những quý tộc gia chứ? Một lưỡi kiếm hiểm độc bốc mùi bội phản được rút ra lóe sáng, khoắng một nhát lên một khuôn mặt còn đang ngỡ ngàng: «Noirmoutier!» Kẻ bị rách mặt, tay kéo thanh kiếm, muốn xọc thủng Noirmoutier như một con lợn. Kẻ mà hắn gọi là d’Antin - «D’Antin, chớ có dính dáng vào đây nhé!» - dẫu vậy vẫn can thiệp vào trận ẩu đả đang có chiều hướng trở nên trầm trọng: «Ê, này, hãy cư xử cho đúng mực đi!» Tên xách đèn lồng nhẩy ngay theo ý anh ta: - Đúng thế, hãy cư xử cho đúng mực… khu rừng tối tăm nhất và ít người qua lại của Triều đình ở gần Paris là một nơi chắc chắn. La Frette nhổ thẳng đám bơ hơi quện trong những gốc răng sâu của mình vào mặt Chalais: - Đồ ruột rỗng, hẹn ngày mai trên bãi hoang tu viện nhé! D’Antin chết đứng người: - Bãi cỏ ư? Các người điên hết cả rồi! Các chỉ dụ đã… Nhưng tên La Frette cao lớn bị xúc phạm, đứng gần Saint Aignan, ra lệnh: - Arnelieu, Amolly, ta đi thôi. Bốn người đi về phía những ô cửa sổ sáng đèn của khu Tuilerie, bốn kẻ kia đi về hướng đối diện. Còn tên xách đèn lồng thì lỉnh mất, vừa ngúc ngoắc bước đi vừa đung đưa thân thể dọc theo phố Sain-Honoré. Ánh sáng trong cái bong bóng của hắn rọi lên một cái bóng gù và nhẩy nhót trên các bức tường trong khi hắn cố ghi nhớ: - La Frette, Saint-Aignan, Amilly, Arnelieu… và Chalais, Flamarens, d’Antin, Noirmou… ⁎⁎⁎ Vào lúc những tia sáng lờ mờ đầu tiên của buổi bình minh thầm lặng vừa tỏa lên trong lớp sương mù dầy đặc bao trùm hết cả bãi cỏ, và khi d’Antin nghe thấy tiếng giầy gắn khuyên bạc của hiệp sĩ Saint-Aignan bước lạo xạo trên những vũng nước đóng băng, thì anh ta quay sang bảo người đứng cạnh, là Noirmoutier, đưa cho mình lọ độc dược Schaffhouse, nó là chất tuyệt vời cho chứng bất tỉnh nhân sự. Paris yên ắng. Gà trống vẫn còn chưa cất tiếng gáy thì cánh xúc phạm Chalais, xếp thành hàng dài trước một dãy cây dẻ phủ đầy băng giá, phát hiện bóng dáng nhợt nhạt lờ mờ của bọn vô lại thuộc băng bị xúc phạm La Frette ló ra từ một cái kho chứa rơm khô mênh mông. Bọn chúng cũng vậy, gióng thẳng hàng tiến thẳng về phía kẻ thù của mình. Họ chẳng bao lâu nữa sẽ chạm mặt nhau, do cánh đồng cỏ rất nhỏ. Bên phải, những khu nhà sang trọng đang ngủ vùi. Bên trái, tu viện của dòng thánh Bru-nô với dãy hành lang và các am thầy tu mà có lẽ chẳng nên đánh động khi hét toáng những lời thóa mạ vô ích làm gì. Kiểu gì đi nữa thì cũng chẳng còn gì để nói với nhau. Họ không còn ở đoạn đó nữa rồi. Chuyện giờ liên quan đến một trận đấu tay đôi cho đến khi có kẻ hồn lìa khỏi xác đầu tiên và D’Antin cảm thấy không được khỏe dưới mái tóc giả xoăn tít nặng trịch trên đầu. Áo khoác hồng điều buông trên vai và mũ đen đội hếch lên kiểu catalogne, dẫu vậy anh ta vẫn chọn đứng trong tư thế đỏm dáng, tiến một chân lên và đặt tay cạnh sườn. Nhưng những ngón tay anh ta run lẩy bẩy. Kể từ lúc tuyên bố trận đấu tay đôi ban nãy, thì cặp mí mắt anh ta đã sưng mọng lên, một màu đỏ tấy thành quầng đã mọc trên trán, tai anh ta toát mồ hôi, một mụn ghẻ xuất hiện sau đầu, những chốc vẩy đụn lên ở cằm và dưới nách trái, khiến anh ta ngứa ngáy. Sự ngẫu nhiên đã xếp đặt cho tuổi trẻ chuyên sống trong sơn son thiếp vàng. La Frette sẽ đối đầu Chalais. Amilly sẽ được dành cho Flamarens. Noirmoutier sẽ đấu với Arnelieu, còn D’Antin nhìn thấy hiệp sĩ Saint-Aignan tiến thẳng về phía mình. Tóc xoăn kiểu Hy lạp, con người hình chim này, với những chiếc lông vũ dài và cặp mắt chột do lây bệnh từ lũ điếm trong các nhà thổ, ngắm nhìn đối thủ của mình từ trên xuống dưới, trong lớp sương mù mà không hề giảm bước, với một khuôn mặt tự tin không biểu lộ chút sợ hãi. Anh ta có vẻ thoải mái với cây kiếm trong tay sẵn sàng rửa danh dự cho anh mình. Anh ta tiến nhanh và chưng ra ánh thép của lưỡi kiếm. D’Antin tự hỏi khi nào thì hắn ta sẽ dừng lại, tập trung chú ý, nhưng kẻ kia tiếp tục tiến như thể hắn sẽ băng qua cả hàng cây dẻ. Tóc! D’Antin cảm thấy xương trên trán mình nát vụn do lưỡi kiếm xuyên thấu toàn bộ đầu mình, kéo theo đằng sau hộp sọ mớ tóc giả mà anh cố tóm lại, ngố thật… thật ngu khi chết như thế trong một buổi sáng giá lạnh và rớt thẳng lưng xuống trong chiếc quần bó màu xám ngọc trai, và bên dưới bằng lụa đỏ đã được người ta gắn chặt bằng nịt, khi mà tất cả xung quanh bạn, đã chuyển thành một cuộc tàn sát. Bên phải, ba người cùng cạ của anh rên rỉ trên cỏ ướt. Đám đối thủ bỏ đi. Tên Chalais nhỏ bé gượng đứng lên và bị sai mắt cá chân do cặp đế giầy quá cao. Hắn áp một tay lên bụng, nơi máu đang đổ xối xả. Flamarens vừa lê sau mình một chân dính máu, vừa nhẩy loi choi về phía cái bóng nhợt nhạt của một cỗ xe. Noirmoutier, vai rách nát, chạy về phía một con tuấn mã ở hướng ngược lại. Mời các bạn đón đọc Chuyện Tình Của Hầu Tước Montespan của tác giả Jean Teulé.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngồi Khóc Trên Cây - Nguyễn Nhật Ánh
Với tác phẩm mới nhất của tác giả Nguyễn Nhật Ánh - Ngồi Khóc Trên Cây, bạn sẽ gặp, sau những câu thơ lãng mạn của chính tác giả làm đề từ, là cuộc sống trong một ngôi làng thơ mộng ven sông, kỳ nghỉ hè với nhân vật là những đứa trẻ mới lớn có vô vàn trò chơi đơn sơ hấp dẫn ghi dấu mãi trong lòng. Câu chuyện của cô bé Rùa và chàng sinh viên vốn ở quê chuyển ra thành phố có giống như bạn từng có thời đi học? Và cái cách họ thinh thích, rồi thương nhau giấu giếm, sợ làm nhau buồn, mong mỏi gặp nhau đến mất ngủ... có phải là mối tình đầu giống như của bạn?                                       " Dài nhanh lên với                                         Tóc xõa ngang mày                                         Lớn nhanh lên với                                         Bé bỏng chiều nay" Bạn sẽ được tác giả dẫn đi liền một mạch trong một thứ cảm xúc rưng rưng của tình yêu thương. Bạn sẽ thấy may mắn vì đang đuợc sống trong cuộc sống này, thấy yêu thế những tấm tình người... tất cả đều đẹp hồn hậu một cách giản dị. Với cuốn sách mới này, một lần nữa người đọc lại được Nguyễn Nhật Ánh tặng món quà quý giá: lòng tin rằng điều tốt có thật trên đời. Sách Ngồi Khóc Trên Cây trình bày đẹp, trên giấy ngoại màu ngà với 30 tranh minh họa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường. Mỗi mở đầu chương đều có những câu thơ lãng mạn của chính tác giả làm đề từ. *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Từ ngày vào lại Sài Gòn, tôi phát mệt vì con nhỏ Bích Lan. Ngoài thời gian đến lớp và đi chơi với bạn trai, lúc nào nó cũng lẽo đẽo bám theo tôi. Tôi không thể giãy nó khỏi tôi được nên rốt cuộc tôi mặc cho nó làm cái đuôi của tôi. Hai đứa tôi thường ngồi quán cà phê vào buổi chiều lúc Bích Lan đi học ra. Đó cũng là cách tôi tránh mặt mẹ tôi. Tôi gần như không thể chịu đựng nổi mỗi khi nhìn vào mặt bà. Tất nhiên mẹ tôi luôn động viên tôi, bà luôn nói với tôi về khả năng mầu nhiệm của y học, về vận may của con người nhưng bao giờ mẹ tôi cũng nói những lời phấn khởi đó bằng cái giọng khiến người nghe buộc phải hiểu ngược lại. Những lúc đó tôi phải ôm choàng lấy mẹ tôi và cố nói những lời bông đùa để không phải nhìn vào vẻ mặt xót xa của bà nhưng sau những lần như vậy vai áo của tôi thường ướt đẫm. Về sau này tôi chọn cách đi ra khỏi nhà bất cứ lúc nào có thể được. Tôi làm như vậy không phải vì tôi mà vì mẹ tôi. Khi không nhìn thấy tôi, đầu óc bà sẽ được trám đầy bằng những thứ khác, nhờ vậy bà sẽ lãng đi căn bệnh của tôi cho đến khi tôi trở về nhà vào bữa ăn tối. Ngồi với Bích Lan tôi cũng chẳng thấy hứng thú gì. Trước đây thấy nó nói năng ngổ ngáo tôi cứ nghĩ nó là con nhỏ vô tâm hời hợt nhưng bây giờ tôi phát hiện ra nó là đứa sầu muộn và cả lo hơn tôi tưởng. Trong khi tôi đang cần một đứa ăn nói bông phèng bạt mạng ngồi cạnh để thấy đời như là mơ thì nó cứ đeo bộ mặt dàu dàu và giương đôi mắt đỏ hoe ra nhìn tôi làm tôi nhận ra càng ngày nó càng giống mẹ tôi và điều đó khiến tôi ngán ngẩm kinh khủng. ... Mời các bạn đón đọc Ngồi Khóc Trên Cây của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Nữ Sinh - Nguyễn Nhật Ánh
Một sự bất ngờ, Gia được cử về làm giáo viên chủ nhiệm lớp Xuyến, Thục, Cúc Hương. Ba cô hoảng hồn vì thời gian qua đã “hành hạ” Gia bằng đủ trò nghịch ngợm của mình. Hùng quăn không dám đến lớp vì đã có lần đón đường ném đá Gia gây thương tích. Không chịu nổi người dượng ghẻ. Hùng bỏ nhà ra đi. Với tấm lòng cao thượng. Gia đón Hùng về nhà ở chung với mình. Cuối cùng ba cô bạn cũng tìm ra chỗ ở của Gia. Họ sôi nổi bàn chuyện đi cắm trại và xem phim cho cả lớp. *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Vâng, khi vừa xuất hiện trước sân cờ anh đã trông thấy ba cô học trò của anh. Và họ, họ cũng ngay lập tức nhận ra anh và anh nhìn thấy vẻ kinh ngạc sững sờ hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Anh vội vã mỉm cười với các cô gái, cố tạo ra một dáng vẻ bình thường nhưng sự cố gắng của anh hình như không đạt được kết quả. Ba cô gái đều cố tránh nhìn về phía anh, họ ngó lơ chỗ khác, kể cả Xuyến, cô lớp trưởng tinh quái và ngang ngạnh. Có lẽ họ áy náy về những trò nghịch ngợm của họ đối với anh. Nhưng, anh nghĩ, dù sao mọi chuyện cũng sẽ nhanh chóng trôi qua và mối quan hệ giữa anh và các cô gái sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Anh cũng không nghĩ mình sẽ được phân công làm chủ nhiệm lớp của Xuyến, Thục và Cúc Hương. Đối với anh, điều đó quả thật bất ngờ. Năm ngoái, sau khi ra trường, hầu hết bạn bè cùng lớp anh đều được phân công đi các tỉnh. Chỉ có hai người, trong đó có anh, nhận nhiệm sở tại thành phố. Nhưng thời gian điều động, bố trí công tác không hiểu sao mất rất nhiều thời giờ. Đến khi anh xuống tới trường, học kỳ một đã sắp kết thúc. Anh đành phải chờ nhận lớp và đầu học kỳ hai. Trong thời gian đó, buổi chiều anh vào trường để giúp đỡ bộ phận văn phòng sắp xếp sổ sách đồng thời làm quen với môi trường mới. Buổi sáng, anh được nghỉ. Nhưng là một sinh viên trẻ mới ra trường, trong lòng đầy ắp nhiệt tình và hoài bão, anh muốn tận dụng các buổi sáng rảnh rỗi để tiếp xúc và tìm hiểu học trò theo cách riêng của mình. Vì vậy mà anh thường đến quán cây Sứ. Chính ở đó, anh đã gặp bọn Thục. ... Mời các bạn đón đọc Nữ Sinh của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Mắt Biếc - Nguyễn Nhật Ánh
Mắt biếc là một tác phẩm của tác giả Nguyễn Nhật Ánh trong loạt truyện viết về tình yêu của thanh thiếu niên của tác giả này cùng với Thằng quỷ nhỏ, Cô gái đến từ hôm qua... Đây được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu về Nguyễn Nhật Ánh, từng được dịch để giới thiệu với độc giả Nhật Bản. Mắt biếc kể về cuộc đời của nhân vật chính tên Ngạn. Ngạn sinh ra và lớn lên ở một ngôi làng tên là làng Đo Đo (thuộc xã Bình Quế - huyện Thăng Bình - tỉnh Quảng Nam - cũng là nguyên quán của tác giả). Lớn lên cùng với Ngạn là cô bạn hàng xóm có đôi mắt tuyệt đẹp tên là Hà Lan. Tuổi thơ của Ngạn và Hà Lan gắn bó với bao nhiêu kỉ niệm cùng đồi sim, đánh trống trường... Tình bạn trẻ thơ dần dần biến thành tình yêu thầm lặng của Ngạn dành cho Hà Lan. Đến khi lớn hơn một chút, cả hai phải rời làng ra thành phố để tiếp tục học. Khi tấm lòng của Ngạn luôn hướng về Hà Lan và về làng, thì Hà Lan không cưỡng lại được cám dỗ của cuộc sống xa hoa nơi đô thị và ngã vào vòng tay của Dũng. Việc Hà Lan ngã vào vòng tay Dũng - một thanh niên nhà giàu, sành điệu, giỏi võ nhưng rất thiếu đứng đắn - đã làm cho Ngạn đau khổ rất nhiều, nhưng điều Ngạn cần là hạnh phúc của Hà Lan. Mỗi khi Dũng làm Hà Lan tổn thương cô lại tìm Ngạn để nói lên bầu tâm sự, điều đó lại càng làm cho Ngạn buồn thêm. Có lần Ngạn đã đánh nhau với Dũng vì Hà Lan và kết quả tất nhiên là Ngạn thua nhưng nó đã làm cho Ngạn bớt đi tính anh hùng, sẵng sàn đánh nhau mỗi khi Hà Lan bị bắt nạt. Và cũng từ đó những cảm xúc mỗi khi Hà Lan tìm đến Ngạn để giải bầy niềm tâm sự giảm đi. Hà Lan mang thai, nhưng bị Dũng ruồng bỏ. Cô đành gửi con về cho bà ngoại chăm sóc và đặt tên là Trà Long. Tuy hiểu rõ tình yêu của Ngạn dành cho mình, Hà Lan vẫn không đáp lại vì cô hiểu rõ mình muốn sống theo một lối sống hoàn toàn khác với Ngạn. Bằng tình yêu của mình dành cho Hà Lan, Ngạn hết lòng yêu thương và chăm sóc cho Trà Long. Trà Long lớn lên trở thành cô giáo trường làng, và vô cùng yêu quý Ngạn. Trong khi ai cũng nghĩ rằng Trà Long sẽ là sự nối tiếp những gì mà Hà Lan đã bỏ dở trong đời Ngạn, thì Ngạn quyết định ra đi vì anh nhận ra rằng Trà Long chỉ là cái bóng của Hà Lan mà thôi. *** "Giọng văn trong Mắt biếc rất hay và nhẹ nhàng. Câu chuyện tình cảm trong sáng. Sau khi đọc truyện này, tôi bỗng muốn đi Việt Nam". - Nhà thơ TAKATSUKI FUMIKO (Nhật Bản) "Tôi rất đồng cảm với nội tâm của nhân vật Ngạn trong tác phẩm Mắt biếc. Tôi đã rơi nước mắt trước tâm hồn vô tư và sự hy sinh của Trà Long, qua đó tôi suy nghĩ nhiều về bối cảnh xã hội Việt Nam". - Nhà văn INAZAWA JUNKO (Nhật Bản) *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... *** Những ngày sau đó là những ngày nặng nề. Tôi đã kịp trấn tĩnh để hiểu rằng những lời nói của Hà Lan là những phán quyết khắt khe của định mệnh. Những phán quyết đó, tôi không mong gì thay đổi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi biết Hà Lan hẳn đã hiểu rõ lòng tôi từ lâu. Nó cũng biết tình tôi dành cho nó không bến không bờ. Nhưng nó thích xa đi, tôi thích quay về, hai người hai thiên hướng khác nhau, đời chia hai ngả, gần hai mươi năm qua khổ ai nấy chịu. Hà Lan đã tự chọn lấy con đường riêng cho mình, con đường đó không có tôi. Bây giờ, sau hai lần gãy đổ, mộng ước không thành, chút duyên lỡ nó không nỡ dành cho tình tôi vằng vặc. Hèn gì đôi mắt nó đêm nào nhìn tôi chan chứa. Nhìn một lần rồi mãi mãi quay lưng. Tình bạn thuở thiếu thời bao năm qua vẫn chỉ là tình bạn, lòng tôi cứ hoài trinh bạch quạnh hiu. Tôi nhớ Hàn Mặc Tử: Người đi một nửa hồn tôi mất Một nửa hồn kia bỗng dại khờ Một thời gian dài, tôi tưởng tôi đã chết. Nhưng tôi không chết được. Trà Long đã học xong lớp chín, chuẩn bị ra thành phố, tôi cố nén buồn thương để lo cho nó. ... Mời các bạn đón đọc Mắt Biếc của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.
Kamanita: Kẻ Hành Hương - Gjellerup Karl
Câu chuyện về mối tình ngang trái giữa chàng thương nhân Kamanita tài hoa và nàng Vasitthi xinh đẹp diễn ra trên đất Ấn thời Đức Phật còn tại thế. 45 phần truyện là dòng chảy cuộc đời từ hiện tại đến quá khứ, từ quá khứ đến khởi thuỷ kiếp luân hồi của nhân vật; là sự đan xen chuyện kể đời thường với những câu chuyện ngụ ngôn, những ẩn dụ triết học trong đối thoại hay thuyết pháp của Đức Phật. Dòng chảy này tạo nên một ranh giới mơ hồ giữa truyền thuyết và sáng tạo tiểu thuyết; giữa câu chuyện Đức Phật kể về những người đã được Ngài giác ngộ và câu chuyện những người được giác ngộ kể về Ngài. Cái vẻ hư thực đó của tác phẩm trở thành điểm tựa để người đọc tìm thấy niềm tin, rằng triết lý đạo Phật có thể tìm thấy trong những sự kiện của đời người, rằng mỗi người sẽ là tia sáng dẫn đường của chính mình, là chỗ dựa của chính mình và rằng cái để suy ngẫm là những gì vĩnh cửu chứ không phải là cái chỉ tồn tại một mai. Do đó, dẫu là truyền thuyết hay tiểu thuyết, tác phẩm vẫn có sức ám ảnh lớn, ghi tạc vào tâm thức con người, rằng: Con đường giải thoát mở ra cho tất cả mọi người, cả những người không theo Đạo. Những người không theo Đạo - trong số đó có chúng ta. Vậy nên nếu đọc Kamanita, kẻ hành hương, hãy trầm tư lắng nghe câu chuyện này, biết đâu sẽ giác ngộ được một chân lý nào đó cho chính mình. *** Karl Adolph Gjellerup là nhà văn, nhà thơ Đan Mạch được trao giải Nobel Văn học năm 1917 cùng với Henrik Pontoppidan, cũng là nhà văn Đan Mạch. Karl Gjellerup xuất thân trong một gia đình mục sư. Ba tuổi cha mất, ông đến Copenhagen ở với bác họ đằng mẹ. Gjellerup sáng tác từ rất sớm, vừa tốt nghiệp trung học ông đã viết hai vở kịch Spicio Africanus và Arminius nhưng đều không được in. Năm 1874, ông vào học Đại học Copenhagen, khoa Thần học, nhưng về sau lại trở thành người vô thần: điều này thể hiện qua các tác phẩm như Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878, ký bút danh Epigon), Antigonos (1880) v.v. Tác phẩm: Spicio Africanus (1875), kịch Arminius (1875-1876), kịch Ein Idealist (Người lý tưởng, 1878), tiểu thuyết Antigonos (1880), tiểu thuyết Arvelighed og moral (Truyền thống đạo lý, 1881) Rödtjörn (Cây sơn tra, 1881), tập thơ Germanernes laerling (Cậu học trò của những người Đức, 1882), tiểu thuyết G-dur (Gam sol trưởng, 1883), truyện Romulus (1883), tiểu thuyết En klassisk maaned (Tháng cổ điển, 1884) Brynhild (1884), bi kịch Saint Just (Thánh Just, 1885), kịch Thamyris (1887), kịch thơ Hagbard og Signe (Hagbard và Signe, 1889), bi kịch văn xuôi và thơ Min kaerligheds bog (Cuốn sách tình yêu của tôi, 1889), tập thơ Minna (1889), tiểu thuyết Herman Vandel (1891), kịch Kong Hjarne (Vua Hjarne, 1892), kịch Wuthhorn (1893), kịch Hans Excellence (Đức Ngài, 1893), kịch Pastor Mors (Mục sư Mors, 1894), tiểu thuyết Möllen (Chiếc cối xay, 1896), tiểu thuyết Ved graensen (Tại vùng biên giới, 1897), tiểu thuyết Tankelaeserinden (Nhà tiên tri, 1901), tiểu thuyết Die opferfeuer (Ngọn lửa hiến tế, 1903), kịch Pilgrimen Kamanita (Kamanita, người hành hương, 1906), tiểu thuyết Die weltwanderer (Những kẻ hành hương vĩnh cửu, 1910), tiểu thuyết Reif für das leben (Đến tuổi trưởng thành, 1913), tiểu thuyết Guds venner (Những người bạn của Chúa trời, 1916), tiểu thuyết Der goldene zweig (Cành vàng, 1917), tiểu thuyết Mời các bạn đón đọc Kamanita: Kẻ Hành Hương của tác giả Gjellerup Karl.