Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

U Mộng Ảnh

Đọc U mộng ảnh với trăng mờ phố núi Tôi lên Buôn Ma Thuột đúng vào đầu mùa trăng. Dù là tiết Trung thu nhưng trăng lại rất mờ, gần như bị khuất sau những lớp mây đen nghịt. Những đồi thông nhấp nhô lặng lẽ dưới cơn mưa chiều, kéo dài theo con đường nhựa từ tỉnh Đăk Nông đến cầu 14, trông đẹp lạ. Bên kia cầu là thành phố Buôn Ma Thuột. Cơn mưa chiều rất nhẹ như muốn kéo bầu trời xuống thấp hơn một chút. Và cái se lạnh êm ả của thành phố cao nguyên làm hồn khách bỗng thấy ấm áp và yên tĩnh lạ thường. Trong túi xách tôi là mấy trang U mộng ảnh của Trương Trào, mà tôi tìm được tình cờ trên Internet. Trương Trào tự Sơn Lai, hiệu Tâm Trai và Trọng Tử, người tỉnh An Huy, sinh năm 1650 (năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh), không rõ năm mất. Ông sáng tác không nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là U mộng ảnh (bóng mờ trong cõi mộng). U mộng ảnh chỉ là một tập sách nhỏ gồm 220 câu cách ngôn của Trương Trào, phác hoạ ra một thế giới thơ mộng được nhìn qua đôi mắt tài hoa của một nghệ sĩ lớn, và nó đã làm say mê nhiều thế hệ văn nhân thi nhân Trung Quốc. Nhiều người đọc những tác phẩm văn ngôn Trung Quốc thường chê lối văn biền ngẫu, vì cho rằng đó là lối văn sáo mòn về hình thức và nhạt nhẽo về nội dung. Điều đó có lẽ chỉ đúng với những tác giả bất tài. Nhiều câu văn biền ngẫu của Trương Trào đọc nghe ý vị lạ lùng, có lẽ vì nội dung hàm súc và tân kỳ của nó. Gần hai tuần trên cao nguyên, sống giữa cảnh thiên nhiên xinh đẹp, xa lìa cái xô bồ náo nhiệt của Sài Gòn, tôi mới có dịp thưởng thức trọn vẹn những câu cách ngôn đầy thi vị trong văn phong bay bướm của Trương Trào. Dù đã thay đổi nhiều nhưng Buôn Ma Thuột vẫn còn bóng dáng của một phố núi. Thiên nhiên vẫn còn đẹp lắm với những bản làng vùng xa và những nhà sàn nhả khói trong bóng sương chiều. Có về lại với thiên nhiên, ta mới cảm nhận được Hoá công quả là một nghệ sĩ vĩ đại khi kiến tạo nên những diệu cảnh của trần gian để ban cho con người làm tặng vật. Và chỉ có người nghệ sĩ mới biết cảm nhận tặng vật đó để biến diệu cảnh trong thiên nhiên thành diệu cảnh trong lòng. Có cảnh sơn thuỷ trên đất, có cảnh sơn thuỷ trên tranh, có cảnh sơn thuỷ trong mộng, có cảnh sơn thuỷ trong lòng. Cảnh sơn thuỷ trên đất đẹp ở gò hang u tịch, cảnh sơn thuỷ trên tranh đẹp ở bút mực lâm ly, cảnh sơn thuỷ trong mộng đẹp ở cảnh tượng biến ảo, cảnh sơn thuỷ trong lòng đẹp ở vị trí tự nhiên. (Hữu địa thượng chi sơn thuỷ, hữu hoạ thượng chi sơn thuỷ, hữu mộng trung chi sơn thuỷ, hữu hung trung chi sơn thuỷ. Địa thượng giả diệu tại khưu hác thâm thuý; hoạ thượng giả diệu tại bút mặc lâm ly; mộng trung giả diệu tại cảnh tượng biến ảo; hung trung giả diệu tại vị trí tự như.) Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý. (Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thuỷ trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã.) U mộng ảnh quả là tác phẩm tuyệt vời của một người nghệ sĩ đem tài hoa vào đời để đi tìm và thưởng ngoạn cái Đẹp. Chỉ những tâm hồn tài hoa chân chính mới biết nâng niu và trân trọng cái Đẹp: Vì trăng mà lo mây, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy. (Vị nguyệt ưu vân; vị thư ưu đố; vị hoa ưu phong vũ; vị tài tử giai nhân ưu mệnh bạc; chân thị Bồ Tát tâm trường.) Chỉ những người như thế mới biết biến trần gian thành một vườn địa đàng thực sự, vì biết dùng: Một chữ tình để duy trì thế giới, một chữ tài để tô điểm càn khôn. (Tình chi nhất tự, sở dĩ duy trì thế giới; tài chi nhất tự, sở dĩ phấn sức kiền khôn.) Đọc U mộng ảnh, lắm phen tôi phải giật mình tự hỏi tại sao chúng ta lại cứ mãi bon chen trong thế giới vật chất để tồn tại mà quên mất ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Rốt cuộc thì cõi đời là một thiên đường để con người hưởng thụ hay chỉ là nơi buộc con người phải lao động khổ sai? Sao chúng ta lại cứ phải suốt đời lao động quần quật để hì hục vun đắp thêm cho cái khối lượng vật chất thường đã vượt quá nhu cầu sống thường ngày, mà không chịu bỏ ra những phút giây nhàn nhã để nhìn lại cuộc sống với muôn ngàn điều kỳ diệu quanh ta? Đứng trên lầu ngắm núi, đứng đầu thành ngắm tuyết, ngồi trước đèn ngắm hoa, ngồi trong thuyền ngắm ráng chiều, dưới trăng ngắm mỹ nhân, mỗi cảnh đều có tình riêng. (Lâu thượng khán sơn; thành đầu khán tuyết; đăng tiền khán hoa; chu trung khán hà; nguyệt hạ khán mỹ nhân; lánh thị nhất phiên tình cảnh.) Ánh nắng của núi, tiếng chảy của nước, màu sắc của trăng, hương thơm của hoa, vẻ nho nhã của văn nhân, dáng yêu kiều của mỹ nhân đều là những thứ không thể dùng tên gọi mà hình dung ra được, không thể nào nắm bắt được, quả đủ để làm ngơ ngẩn mộng hồn, đảo điên thần tứ! (Sơn chi quang; thuỷ chi thanh; nguyệt chi sắc; hoa chi hương; văn nhân chi vận trí; mỹ nhân chi tư thái; giai vô khả danh trạng, vô khả chấp trước. Chân túc dĩ nhiếp chiêu hồn mộng, điên đảo tình tứ!) Chúng ta cứ hợm hĩnh vì những ngôi nhà cao tầng, vì những chiếc xe hơi bóng lộn, vì những bữa ăn trong nhà hàng sang trọng, vì những mối quan hệ giao du với những nhân vật tầm cỡ trong xã hội, như những thằng hề mãi múa may trên sân khấu đời “full of sound and fury”, mà không bao giờ hiểu được rằng dưới con mắt của Hoá công, đó chỉ là cuộc sống dung tục đầy thảm hại. Những người hưởng thụ thế giới đâu phải là những kẻ nhiều tiền lắm của mà chính là những người mang tâm hồn nghệ sĩ và hiểu được triết lý của chữ nhàn. Con người không gì vui cho bằng nhàn. Nhàn đâu phải là không có gì để làm. Có nhàn mới đọc được sách, có nhàn mới du ngoạn được danh lam thắng cảnh, có nhàn mới giao du được với những bạn có ích, có nhàn mới uống được rượu, có nhàn mới viết được sách. Niềm vui trong thiên hạ, còn có gì lớn hơn nó nữa? (Nhân mạc lạc ư nhàn, phi vô sở sự sự chi vị dã. Nhàn tắc năng độc thư, nhàn tắc năng du danh thắng, nhàn tắc năng giao ích hữu, nhàn tắc năng ẩm tửu, nhàn tắc năng trước thư. Thiên hạ chi lạc, thục đại ư thị?) Đã lâu lắm rồi, tại một quán cà phê thung lũng nơi phố núi, tôi mới hưởng được cái thú ngồi uống cà phê một mình giữa cái yên tĩnh của bóng chiều hôm. Cái tĩnh lặng của cảnh vật đã lan toả thành cái tĩnh lặng trong lòng khách. Còn gì thú vị hơn, khi cùng Trương Trào ngắm những tảng đá đặt bên gốc cây để thưởng ngoạn một cảnh vườn u nhã: Đá đặt bên gốc mai nên cổ kính, đá đặt dưới gốc tùng nên thô, đá đặt bên gốc trúc nên gầy, đá đặt trong bồn nên tinh xảo. (Mai biên chi thạch nghi cổ; tùng hạ chi thạch nghi chuyết; trúc bạng chi thạch nghi sấu; bồn nội chi thạch nghi xảo.) Chỉ một cánh bướm vờn hoa trong ánh nắng thoi thóp trên thảm cỏ xanh, nhưng cả khu vườn như rực sáng qua một câu văn tinh tế: Bướm là hoá thân của tài tử, hoa là biệt hiệu của mỹ nhân. (Điệp vi tài tử chi hoá thân, hoa nãi mỹ nhân chi biệt hiệu.) Tiếng chim hót, tiếng côn trùng rả rích đêm thâu, tiếng suối nước róc rách… từ lâu đã chết trong tâm hồn chúng ta, thay vào đó là những thanh âm xô bồ của cuộc sống luôn hỗn loạn vì đồng bạc; hình ảnh vầng trăng mênh mang trên sông nước, hay cảnh mây bay trên rừng núi trong bóng chiều hôm đã bị nhoà đi trong cảnh ngựa xe náo nhiệt. Chúng ta cứ bị cuốn theo cảnh đó mà không cảm nhận được rằng: Mùa xuân nghe tiếng chim hót, mùa hè nghe tiếng ve ngâm, mùa thu nghe tiếng côn trùng rả rích, mùa đông nghe tiếng tuyết rơi, ban ngày nghe tiếng đánh cờ, dưới trăng nghe tiếng tiêu réo rắt, trong núi nghe tiếng gió thổi ngàn thông, bên nước nghe tiếng sóng vỗ, mới không sống uổng phí một đời. (Xuân thính điểu thanh; hạ thính thiền thanh; thu thính trùng thanh; đông thính tuyết thanh; bạch trú thính kỳ thanh; nguyệt hạ thính tiêu thanh; sơn trung thính tùng phong thanh; thuỷ tế thính nội nãi thanh; phương bất hư sinh thử nhĩ.) Dưới thông nghe tiếng đàn cầm, dưới trăng nghe tiếng tiêu, bên khe nghe tiếng thác đổ, trong núi nghe tiếng tụng kinh, tai nghe ra mỗi tiếng đều có ý vị riêng. (Tùng hạ thính cầm; nguyệt hạ thính tiêu; giản biên thính bộc bố; sơn trung thính phạn bối, giác nhĩ trung biệt hữu bất đồng.) Dưới trăng bàn thiền, thú vị càng man mác; dưới trăng luận kiếm, can đảm càng bồng bột; dưới trăng bàn thơ, phong thái càng u nhã; dưới trăng ngắm mỹ nhân, tình ý càng nồng thắm (Nguyệt hạ đàm thiền, chỉ xúc ích viễn; nguyệt hạ thuyết kiếm, can đảm ích chân; nguyệt hạ luận thi, phong trí ích u; nguyệt hạ đối mỹ nhân, tình ý ích đốc.) Đúng là chúng ta đã sống quá lãng phí trước những tặng vật kỳ diệu của Thượng đế. Sống mà mắt như mù, tai như điếc trước thiên nhiên. Càng đọc U mộng ảnh chúng ta càng thấy cuộc sống ta lâu nay thảm hại là ngần nào. Chúng ta mãi bươn chải lao lướt theo cuộc sống, dùng mọi thủ đoạn để tồn tại với đủ mọi thứ tiện nghi vật chất phù phiếm, mà không hề biết cách: Gầy hoa để gọi bướm, chất đá để mời mây, trồng thông để đón gió, chứa nước để gọi bèo; xây đài cao để mời trăng, trồng chuối để đón mưa, trồng liễu để gọi ve. (Nghệ hoa khả dĩ khiêu điệp; luỹ thạch khả dĩ khiêu vân; tài tùng khả dĩ khiêu phong; trữ thuỷ khả dĩ khiêu bình; trúc đài khả dĩ khiêu nguyệt; chủng tiêu khả dĩ khiêu vũ; trí liễu khả dĩ khiêu thiền.) Ngồi một mình giữa thung lũng đọc U mộng ảnh quả là một lạc thú trên đời. Song tôi thắc mắc mãi vì sao tiêu đề lại là U mộng ảnh? Đó là bóng mờ trong cõi mộng hay là chiếc bóng lẻ loi trong cõi mộng u buồn? Phải chăng ta chỉ thưởng ngoạn được vẻ đẹp của thế giới khi nhìn nó qua cõi mộng, như Trang Chu hoá bướm ngày xưa [1] ? Trang Chu mộng thấy mình hoá thành bướm, đó là cái may mắn của Trang Chu; bướm nếu mộng thấy mình hoá thành Trang Chu, thì đó là cái bất hạnh của bướm. (Trang Chu mộng vi hồ điệp, Trang Chu chi hạnh dã; hồ điệp mộng vi Trang Chu, hồ điệp chi bất hạnh dã.) Giữa bóng trăng mờ ảo, lại ngồi một mình nơi quán cóc vắng vẻ ở vùng ngoại ô tĩnh lặng của thành phố cao nguyên, trong bụi cỏ rậm là tiếng côn trùng rả rích, tôi chợt nghiệm ra ý nghiã của chữ “u mộng” và thấy thấm thía biết bao khi đọc: Đêm thanh ngồi cô độc, mời trăng kể lể chuyện buồn; canh khuya ngủ một mình, gọi dế nói niềm sầu hận (Thanh tiêu độc toạ, yêu nguyệt ngôn sầu; lương dạ cô miên, hô cung ngữ hận.) Mà có đêm trăng mờ nào trên cao nguyên lại không gợi lên bao nỗi buồn man mác? Ban Ma Thuột, Trung Thu 2006 Huỳnh Ngọc Chiến *** U mộng ảnh (幽夢影) là tên một tập sách nổi tiếng của nhà văn Trương Trào đời Thanh. Tập sách gồm 220 câu cách ngôn nói về nghệ thuật thưởng thức đời sống, về sau rất được giới văn nhân tài tử ưa chuộng. "Hoa không thể không có bướm, núi không thể không có suối, đá không thể không có rêu, nước không thể không có rong, cây lớn không thể không có dây leo, và người không thể không nghiền một thứ gì" "Hoa không nên thấy rụng, trăng không nên thấy chìm, mỹ nhân không nên thấy chết yểu" "Mỹ nhân hơn hoa ở chỗ biết nói; hoa hơn mỹ nhân ở chỗ tỏa hương. Nếu không được cả hai thì bỏ hương mà lưa biết nói. Thường hoa đẹp thì không thơm, cánh nhiều tầng thì không thành trái" "Răn mình thì nên như cái khí mùa thu, xử thế thì nên như cái khí mùa xuân. "Mưa có thể làm cho ngày ngắn và đêm dài" "Mưa xuân mưa như chiếu vua ban ân, mưa hè như chiếu vua xá tội, mưa thu như tiếng điếu người chết" "Gió xuân như rượu, gió hè như trà, gió thu như khói, gió đông như gừng, cải" "Không có cái gì vui bằng nhàn, nhàn không phải là không làm một việc gì. Có nhàn mới đọc được sách, mới đi coi được những thắng cảnh, mới giao du được những bạn bè có ích, mới uống rượu được, mới viết sách được. Có cái vui nào lớn hơn như vậy nữa" "Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ" Phải thừa nhận một điều rằng, tôi đọc hết cả tác phẩm mà lòng cảm thấy vẫn chưa đủ, cứ muốn tác phẩm này phải là 2200 câu thì mới thoả được lòng mình. Và tôi nhận ra là áng văn tuyệt diệu này kích thích sự ham đọc của tôi lên đến cảnh giới tột độ, kích thích nguồn cảm hứng của tôi trong việc sáng tác, giúp tôi cảm nhận được nhiều hơn về cuộc sống quanh mình. Qua đó, tôi nhận ra rằng cuộc sống của mình quá thiếu thốn và nghèo khổ, nhưng không phải nghèo tiền nghèo bạc mà là nghèo tinh thần. Đọc U mộng ảnh với trăng mờ phố núi: Tôi lên Buôn Ma Thuột đúng vào đầu mùa trăng. Dù là tiết Trung thu nhưng trăng lại rất mờ, gần như bị khuất sau những lớp mây đen nghịt. Những đồi thông nhấp nhô lặng lẽ dưới cơn mưa chiều, kéo dài theo con đường nhựa từ tỉnh Đăk Nông đến cầu 14, trông đẹp lạ. Bên kia cầu là thành phố Buôn Ma Thuột. Cơn mưa chiều rất nhẹ như muốn kéo bầu trời xuống thấp hơn một chút. Và cái se lạnh êm ả của thành phố cao nguyên làm hồn khách bỗng thấy ấm áp và yên tĩnh lạ thường. Trong túi xách tôi là mấy trang U mộng ảnh của Trương Trào, mà tôi tìm được tình cờ trên Internet. Trương Trào tự Sơn Lai, hiệu Tâm Trai và Trọng Tử, người tỉnh An Huy, sinh năm 1650 (năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh), không rõ năm mất. Ông sáng tác không nhiều, trong đó nổi tiếng nhất là U mộng ảnh (bóng mờ trong cõi mộng). U mộng ảnh chỉ là một tập sách nhỏ gồm 220 câu cách ngôn của Trương Trào, phác hoạ ra một thế giới thơ mộng được nhìn qua đôi mắt tài hoa của một nghệ sĩ lớn, và nó đã làm say mê nhiều thế hệ văn nhân thi nhân Trung Quốc. Nhiều người đọc những tác phẩm văn ngôn Trung Quốc thường chê lối văn biền ngẫu, vì cho rằng đó là lối văn sáo mòn về hình thức và nhạt nhẽo về nội dung. Điều đó có lẽ chỉ đúng với những tác giả bất tài. Nhiều câu văn biền ngẫu của Trương Trào đọc nghe ý vị lạ lùng, có lẽ vì nội dung hàm súc và tân kỳ của nó. Gần hai tuần trên cao nguyên, sống giữa cảnh thiên nhiên xinh đẹp, xa lìa cái xô bồ náo nhiệt của Sài Gòn, tôi mới có dịp thưởng thức trọn vẹn những câu cách ngôn đầy thi vị trong văn phong bay bướm của Trương Trào. Dù đã thay đổi nhiều nhưng Buôn Ma Thuột vẫn còn bóng dáng của một phố núi. Thiên nhiên vẫn còn đẹp lắm với những bản làng vùng xa và những nhà sàn nhả khói trong bóng sương chiều. Có về lại với thiên nhiên, ta mới cảm nhận được Hoá công quả là một nghệ sĩ vĩ đại khi kiến tạo nên những diệu cảnh của trần gian để ban cho con người làm tặng vật. Và chỉ có người nghệ sĩ mới biết cảm nhận tặng vật đó để biến diệu cảnh trong thiên nhiên thành diệu cảnh trong lòng. Có cảnh sơn thuỷ trên đất, có cảnh sơn thuỷ trên tranh, có cảnh sơn thuỷ trong mộng, có cảnh sơn thuỷ trong lòng. Cảnh sơn thuỷ trên đất đẹp ở gò hang u tịch, cảnh sơn thuỷ trên tranh đẹp ở bút mực lâm ly, cảnh sơn thuỷ trong mộng đẹp ở cảnh tượng biến ảo, cảnh sơn thuỷ trong lòng đẹp ở vị trí tự nhiên. (Hữu địa thượng chi sơn thuỷ, hữu hoạ thượng chi sơn thuỷ, hữu mộng trung chi sơn thuỷ, hữu hung trung chi sơn thuỷ. Địa thượng giả diệu tại khưu hác thâm thuý; hoạ thượng giả diệu tại bút mặc lâm ly; mộng trung giả diệu tại cảnh tượng biến ảo; hung trung giả diệu tại vị trí tự như). Bóng sông núi trong vừng trăng là địa lý trong thiên văn, hình tượng trăng sao trên sông nước là thiên văn trong địa lý. (Nguyệt trung sơn hà chi ảnh, thiên văn trung địa lý dã; thuỷ trung tinh nguyệt chi tượng, địa lý trung thiên văn dã). U mộng ảnh quả là tác phẩm tuyệt vời của một người nghệ sĩ đem tài hoa vào đời để đi tìm và thưởng ngoạn cái Đẹp. Chỉ những tâm hồn tài hoa chân chính mới biết nâng niu và trân trọng cái Đẹp *** Trương Triều (张潮) tên chữ Sơn Lai (山来), hiệu Tâm Trai (心斋), người tỉnh An Huy (安徽), sinh năm 1650 vào năm Thuận Trị thứ tám, đời Thanh, không rõ năm mất. Tiểu sử của ông rất ít, hậu thế biết đến ông nhờ tác phẩm để lại. Ông là một nhà thơ, nhà văn, nổi tiếng với tập "U mộng ảnh" (幽夢影), và "Ngu sơ tân chí" (虞初新志). “U mộng ảnh” là một tập sách gồm 220 câu cách ngôn nói về nghệ thuật thưởng thức đời sống, về sau rất được giới văn nhân tài tử ưa chuộng. Lâm Ngữ Đường nhận xét: "Cuốn "U mộng ảnh" của ông chứa nhiều câu cách ngôn cũng như nhiều tác phẩm khác của Trung Hoa, nhưng không cuốn nào bằng cuốn của ông. Cách ngôn của ông so với ngạn ngữ thì không khác chi truyện của Andersen so với truyện thần tiên của Anh, hoặc những khúc ca của Schubert so với các khúc dân ca. Cuốn đó được văn nhân Trung Hoa rất thích đọc và nhiều nhà đọc xong, ghi thêm ít lời phê bình trang nhã." Tại Việt Nam, “U mộng ảnh” đã được dịch giả Huỳnh Ngọc Chiến biên dịch và chú thích 215 câu (Nxb Văn hóa Thông tin, 2007). Cuốn ebook này được thực hiện bởi yeuchip, theo ấn bản điện tử của http://codatu.wordpress.com, giới thiệu 200 câu trích từ bản của Huỳnh Ngọc Chiến. U mộng ảnh 1. Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần được chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì nhiều ý lạ; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái. 讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ;讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。 Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã. 2. Kinh truyện[1] nên đọc một mình, mà sử giám[2] nên đọc cùng bạn. 經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。 Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc. 3. Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật. 無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。 Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật. 4. Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Đào Uyên Minh[3] làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh[4] làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do[5] làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê[6] làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng[7] làm tri kỷ, chuối lấy Hoài Tố[8] làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình[9]làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông[10] làm tri kỷ, ngỗng lấy Hữu Quân[11] làm tri kỷ, đào lấy những người trốn vua Tần[12] làm tri kỷ, hạnh lấy Đổng Phụng[13] làm tri kỷ, đá lấy Mễ Điên[14] làm tri kỷ, quả vải lấy Thái Chân[15] làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng[16], Lục Vũ[17]làm tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân[18] làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành[19] làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi[20] làm tri kỷ, … Một khi đã gắn bó thì ngàn thu không đổi. Còn thông đối với Tần Thủy Hoàng[21], hạc đối với Vệ Ý Công[22] thì đúng là không có duyên vậy. 天 下 有 一 人 知 己, 可 以 不 恨。不 獨 人 也, 物 亦 有 之。如 菊 以 淵 明 為 知 己;梅 以 和 靖 為 知 己; 竹 以 子 猷 為 知 己; 蓮 以 濂 溪 為 知 己; 桃 以 避 秦 人 為 知 己; 杏以 董 奉 為 知 己; 石 以 米 顛 為 知 己; 荔 枝 以 太 真 為 知 己; 茶 以 盧 仝, 陸 羽 為 知己; 香 草 以 靈 均 為 知 己; 莼 鱸 以 季 鷹 為 知 己; 蕉 以 懷 素 為 知 己; 瓜 以 邵 平 為 知己; 雞 以 處 宗 為 知 己; 鵝 以 右 軍 為 知 己; 鼓 以 祢 衡為 知 己; 琵 琶 以 明 妃 為 知 己... 一 與 之 訂, 千 秋 不 移。若 松 之 於 秦 始; 鶴 之 於 衛 懿; 正 所 謂 不 可 與 作 緣 者也。 Thiên hạ hữu nhất nhân tri kỷ, khả dĩ bất hận. Bất độc nhân dã, vật diệc hữu chi. Như cúc dĩ Uyên Minh vi tri kỷ; mai dĩ Hòa Tĩnh vi tri kỷ; trúc dĩ Tử Do vi tri kỷ; liên dĩ Liêm Khê vi tri kỷ; đào dĩ tỵ Tần nhân vi tri kỷ; hạnh dĩ Đổng Phụng vi tri kỷ; thạch dĩ Mễ Điên vi tri kỷ; lệ chi dĩ Thái Chân vi tri kỷ; trà dĩ Lô Đồng, Lục Vũ vi tri kỷ; hương thảo dĩ Linh Quân vi tri kỷ; thuần lư dĩ Quý Ưng vi tri kỷ; tiêu dĩ Hoài Tố vi tri kỷ; qua dĩ Thiệu Bình vi tri kỷ; kê dĩ Xử Tông vi tri kỷ; nga dĩ Hữu Quân vi tri kỷ; cổ dĩ Nễ Hoành vi tri kỷ; tỳ bà dĩ Minh Phi vi tri kỷ … nhất dữ chi đính, thiên thu bất di. Nhược tùng chi ư Tần Thủy; hạc chi ư Vệ Ý; chính sở vị bất khả dữ tác duyên giả dã. 5. Vì trăng mà lo mây che, vì sách mà lo mối mọt, vì hoa mà lo gió mưa, vì tài tử giai nhân mà lo mệnh bạc, đó thực là tấm lòng Bồ Tát vậy. 為 月 憂 雲, 為 書 憂 蠹, 為 花 憂 風 雨, 為 才 子 佳 人 憂 命 薄, 真 是 菩 薩 心腸。   Mời các bạn đón đọc U Mộng Ảnh của tác giả Trương Trào & Huỳnh Ngọc Chiến (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Phía Sau Một Cô Gái - Ploy Ngọc Bích
Từ những bước chân dọc biển ấy, tôi bắt đầu hành trình tìm kiếm những gì ở phía sau một cô gái, từ các cô gái sống quanh tôi. Đa phần những câu truyện trong Phía sau một cô gái bắt nguồn từ chất liệu cuộc sống thật thà. Vì: Cuộc sống trong nhân dáng và tâm tính của một cô gái hiện đại tuy vất vả nhưng độc đáo. Sự dịu dàng, đằm thắm, yêu ghét khó phân minh và hay suy nghĩ chất đầy trong tâm tính. Đồng thời, cái mạnh mẽ, thông minh và tham vọng cũng chi phối nhiều mặt cuộc sống. Chính những kéo co của trái tim và khối óc trong một cô gái tự thân đã cho nhiều cái hay, lạ làm xuất phát điểm của những câu chuyện. Phía sau một cô gái, dù ngọt hay đắng, dù ghét hay thương, thì nếu quay đầu lại cũng nên dành cho quá khứ cái chớp mắt biết ơn. Vì bước ra khỏi những ngày ấy, mới có được cô gái của thời hiện tại. Phía sau một cô gái là những cái kết mở, vì truyện cũng như sống, hiếm khi kết bằng một dấu chấm tròn trĩnh, vẹn toàn. Chia tay đấy, có khi mai gặp lại. Bên nhau đấy, có khi mai rời xa. Cười và khóc, vui và buồn - cái ranh giới ấy rất mong manh... *** Giáng Sinh Về Nhà. Hayden gọi chỉ vài tiếng sau khi tôi gửi thư trả lời. Chúng tôi hẹn nhau trong một cái nhà sách. Chúng tôi tường thuật lại những sự vụ đã khiến khoảng cách giữa hai lần gặp là sáu năm. Chúng tôi cùng cười. Rồi cứ mỗi cuối tuần, rồi bất cứ khi nào rảnh … Chúng tôi cùng nhau ngắm hoàng hôn trong một quán cà phê kiểu Pháp. Chúng tôi đi xem phim. Chúng tôi cùng săm soi một chiếc bánh, cố tìm xem có sợi tóc nào dính vào hay không. Chúng tôi cùng đi shopping. Tóm lại, chúng tôi hẹn hò. Giáng sinh đến ngày một gần. — Hai đêm trước giáng sinh, tôi và Hayden tay trong tay thả bộ trên những con phố trung tâm lấp lánh đèn. Tôi tựa vào vai anh, hít nhẹ mùi nước hoa rất lạ. Những ngày chờ đợi giáng sinh thật tuyệt. Trong không gian như có tiếng tíc tắc của một quả bom hẹn giờ đang nô nức chờ nổ: Vài chục cú nhích kim đồng hồ nữa thôi thì sẽ tưng bừng một niềm hạnh phúc, một sự đẹp đẽ lớn lao. Chúng tôi cứ thế bước đi trong làn hương giáng sinh thơm phưng phức. Hết con phố này sang con phố khác. Tôi trực giác rằng Hayden muốn nói với mình một chuyện, nhưng cứ lần lữa mãi. Dường như anh đang tự nhủ hãy để yên cảm giác lãng mạn này thêm một chút, thêm một chút, rồi lại thêm một chút. Tôi bên anh, im lặng chờ đợi. Trên con phố cuối cùng của lộ trình đi bộ hôm ấy, anh siết tay tôi một cái: - Nga, ngày mai anh phải quay lại Đức. Cha anh bệnh. Ông lại đã ly dị lần nữa. Anh e giáng sinh này ông chỉ một mình. Giáng sinh một mình, anh biết nó … - Giáng sinh là để về nhà. – Tôi vẫn tựa đầu vào vai anh, nhẹ nhàng cắt lời. — Đồng hồ gần 11 giờ đêm. Trên chuyến bay Hồ Chí Minh – Berlin, Hayden một tay nâng lon coca, một tay cầm chiếc bánh bông lan lạnh. Lòng anh hồi hộp ngóng đợi. Đã mười lăm cái giáng sinh anh vắng nhà. “Giáng sinh là để về nhà” – Nga đã lặp lại câu này khi tiễn anh ở sân bay. Chất giọng trầm và lạnh của cô bỗng trở nên ấm áp như một que diêm bật sáng giữa trời đông khi nói câu này. Và nó khiến anh muốn về nhà, thật sự là muốn về nhà. Hayden nâng cao lon coca hơn một chút: “Merry Christmas, em yêu!” — Tôi áp má vào tấm kiếng cửa sổ mát lạnh, nhìn dòng người hoan hỉ ngoài phố. Em trai, em gái đã cùng bạn bè hòa vào biển người đó ngay sau buổi tiệc gia đình. Chỉ mình tôi ở nhà cùng cha mẹ. Tôi quay đầu, nhìn về phía cái tivi đang oang oang. Trên ghế sô-pha, cha mẹ đang tranh nhau bấm liên tục cái điều khiển để chuyển kênh. Cha đòi xem chương trình ca nhạc giáng sinh. Mẹ lại đòi kênh đang chiếu phim The Holiday. Người già giống như trẻ con. Tôi mỉm cười, lòng dễ chịu như trong lồng ngực đang có một que diêm sưởi ấm. Hayden không biết giờ này đang làm gì. Nhưng chắc chắn là anh, sau rất nhiều năm, đã có cho mình một giáng sinh đúng nghĩa – Giáng sinh về nhà. Bận rộn, hiểu lầm, bất hòa, dù xảy ra chuyện gì đi nữa thì giáng sinh vẫn là ngày để về nhà. ... Mời các bạn đón đọc Phía Sau Một Cô Gái của tác giả Ploy Ngọc Bích.
Những Ngày Xanh - Archibald Joseph Cronin
 Archibald Joseph Cronin sinh tại Tô Cách Lan năm 1896.  Ông học Y khoa ở đại học Glasgow.  1916, thế chiến thứ nhất ông tình nguyện gia nhập hải quân với cấp bậc Trung úy Y sĩ.    Chiến tranh kết thúc, ông trở lại tiếp tục học Y khoa.  Rồi ông tập sự bốn năm trong những khu vực hầm mỏ phía nam vùng Wales.    Thời gian này ông thu thập được rất nhiều tài liệu về đời sống cơ cực của dân lao động nghèo, nhất là đời sống của thợ thuyền trong hầm mỏ.  Sau đó, ông chuyển hẳn về Luân Đôn và mở phòng mạch tại khu vực phía Tây khá nhiều năm.  Kế đến, vì sức khỏe kém ông buộc phải ngừng làm việc để dưỡng bệnh.    Là bác sĩ, A. J. Cronin có nhiều dịp tiếp xúc với đủ hạng người, đầu óc tinh nhạy không chỉ trong lĩnh vực nghề nghiệp nên ông hiểu rõ tâm tình, cá tính, mặt tốt cũng như mặt xấu của từng người. Nhờ vậy, ông đã tích lũy được số vốn lớn, rất quý cho việc trước tác về sau, khi phải bỏ nghề y, vào năm 1930.    Văn nghiệp của ông bắt đầu… và vừa đặt bút, ông thành công ngay ở tác phẩm thứ nhất: “Lâu đài người bán nón” (1931). Những tác phẩm khác kế tiếp ra đời cũng đều được đón tiếp nồng nhiệt, không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.    Tại Việt Nam, chúng ta được đọc khá nhiều sách ông qua các bản dịch, tiêu biểu nhất, ngoài “Lâu đài người bán nón” còn có “Thành trì”, “Gươm công lý”, “Số phận của Robert Shannon” v.v…  Ông có lối viết giản dị, chân thật, chính xác, đầy hấp lực. Từ kẻ hung bạo, vô lương, thâm độc đến người thuần phác, đôn hậu, vị tha, qua ngòi bút tinh sắc của ông họ đều như sống thật, đi lại, nói năng, hành động… Cá tính họ nổi bật rất tự nhiên, không chút gượng ép. Văn ông giàu tình tiết, hết sức lôi cuốn mà không sa đà. Ông tả hạng người thế nào thì phong cách biểu hiện đúng như thế. Điều đáng kể nhất là tác phẩm ông chan chứa lòng nhân mà không hề có giọng dạy đời, công thức.  Hiển nhiên, chúng tôi không xác quyết là văn ông hay nhất. Tuy vậy, có một điều quan trọng để người thưởng ngoạn đánh giá tác phẩm, ấy là sau khi đọc xong ta cảm thấy yêu đời hơn lên, muốn phấn đấu chớ không nản lòng, bỏ cuộc.    Với niềm tin ấy, chúng tôi gửi đến bạn đọc quyển sách nhỏ này.                                                    MINH QUÂN – MỸ LAN *** Nhiều năm kế tiếp trôi qua... Mấy cây anh đào trước nhà xum xuê hơn trước. Buổi chiều tháng 4 năm 1910, tôi rời trường, lòng vui vẻ, hãnh diện. Mặt trời hồng rực rỡ lặn sau ngọn Ben. Chiều nay tôi cảm thấy tôi chính là tôi, bởi đôi lúc tôi ngờ ngợ như mình là kẻ nào khác, vâng! Đôi lúc tôi xa lạ với chính tôi. Sáng hôm kia ở hiệu Baxter ra, tôi chợt nhìn trong tủ kính, giật mình vì hình ảnh phản chiếu cho tôi thấy một thiếu niên 15 xanh xao, gầy ốm, tay chân dài ngoằng, nét mặt u trầm, buồn bã... Tôi đã giật mình tự hỏi: mình đó sao, trời? Nhưng hôm nay thì tôi hết sức phấn khởi, sung sướng vì câu chuyện thầy Reid nói với tôi lúc tôi ra về. Số là chúng tôi sắp được nghỉ lễ Phục Sinh, trước khi tan học thầy đã giữ tôi lại (thầy còn trẻ, khoảng 30, dáng cao lớn, khỏe mạnh, một cái sẹo dài nằm vắt ngang ở môi trên và vì nó, chiếc mũi thầy hơi thấp xuống, khiến người ta thấy đôi mắt xanh thầy to hơn, lộ hơn dưới mái tóc óng ả vàng hoe. Da thầy trắng và hơi nhờn. Râu luôn luôn được cạo nhẵn, hình như ông không cần che giấu vết sẹo trên môi). Thầy ôn tồn bảo tôi: - Robert Shannon! Trò không giống như các bạn cho nên... – ông gõ gõ tay lên bàn trong khi tôi nhìn chăm chú vào ông – ta muốn đề nghị với trò một điều này... Trở về đến nhà, tôi vẫn còn bàng hoàng xúc động vì câu chuyện thầy nói với tôi. Tôi muốn được một mình nghiền ngẫm bí mật này. Song ông tôi đã chờ tôi trước cửa sổ mở rộng, bàn cờ "dame" trước mặt. Giọng nóng nảy, ông hỏi: - Sao con về trễ thế? Có gì hở? -Thưa ông, không có gì. Ít lâu nay tôi trở nên khép kín đối với ông, vả chăng ông khôngcòn là bậc anh hùng đối với tôi và bí mật quý báu này tôi không muốn chia sẻ với ông. Phải công bình mà nhận rằng ông ít thay đổi hơn tôi: vẫn còn khỏe mạnh, tuy râu ông ngả bạc và chiếc áo ghi lê càng ngày càng nhiều vết bẩn hơn. Gần đây, bạn ông, ông Peter-Dickie đã vào Viện dưỡng lão. Song về phần ông, ông rất ghét nghe ai nói đến chết chóc cũng như nhắc đến tuổi tác đè nặng người ông. Càng lúc ông càng tỏ ra yêu đời, vui vẻ nhất là trong lúc này, theo lệ thường, bà cố tôi đã đi Kilmarnoch. Ông không vui vì cảm thấy tôi không hăng say chơi cờ với mình, cái thú ông vẫn say mê: - Robert, con làm sao vậy? Y như ngồi trên lửa... Tôi nén lòng đến ngồi trước mặt ông, ông cúi đầu nhíu mày nhìn bàn cờ, chú chú chăm chăm tính nước và ông giăng bẫy tôi bằng cách đi một nước cờ với vẻ hết sức lơ đãng, tay còn gõ gõ ống điếu nữa chớ. Còn tôi, tôi đầu óc đâu mà nghĩ đến trò chơi: tôi đang bị ám ảnh về cái đề nghị tốt đẹp của thầy Reid. Trước mắt tôi tương lai rộng mở. Như tất cả các bạn đồng học, tôi hết sức lo lắng, bối rối khi sắp rời trường để chọn nghề. Tôi có tham vọng, muốn trở thành một nhân vật đặc biệt, nhưng hoàn cảnh tôi chỉ cho tôi rất ít hy vọng để trở thành mẫu người tôi ao ước. Ở trung học tôi luôn luôn nhất lớp và các giáo sư đều tiên đoán tôi sẽ tiến xa. Song chưa một vị giáo sư nào, trừ thầy Reid để ý đến tôi đặc biệt. Thầy là người chú ý đến năng khiếu tôi, đứa học trò say mê sinh vật có cái gì khác hơn là sự giải trí suông. Tóm lại, thầy có biệt nhãn đối với tôi. Tôi còn nhớ rõ... Một hôm vào mùa hè, một đôi bướm xanh loại thông thường nhất bay qua khung cửa sổ mở rộng, vào lớp. Cả lớp đều ngẩng lên, nhìn. Giọng mơ màng như là đặt câu hỏi cho chính mình chứ không phải cho bọn môn sinh, thầy Reid nói: - Tại sao chúng bay thành cặp, nhỉ? Im lặng giây lâu và rồi, tôi rụt rè đáp: - Thưa thầy, vì bây giờ là mùa chúng ghép đôi. Thầy nhìn tôi hỏi thêm: - Có phải trò nghĩ rằng bướm cũng biết yêu nhau không? - Thưa thầy, vâng! Chúng nhận ra nhau cách xa hàng dặm nhờ một mùi thơm do chúng tiết ra. - Chuyện khá lý thú đấy! – Thầy tiếp, vẻ nghi ngờ về sự hiểu biết của tôi – Này, Robert! Trả lời tôi câu nữa: làm sao chúng nhận ra mùi của nhau? - Thưa, nhờ những gai thịt ở đầu mấy sợi râu... Thấy thầy nhìn tôi, mỉm cười có vẻ tán thưởng và khuyến khích, tôi thêm: - Thưa thầy, điều này cũng chưa có gì là mới lạ, so với loại Amrial pourpre, giống này ngửi bằng cẳng kia... Bạn học tôi cười lên như phá, nhưng chúng bị thầy cắt ngang: - Im đi, lũ ngu! Ít nhất trò ấy còn khá hơn các trò. Này, Robert! – Ông tiếp tục hỏi tôi. – Trò có thể cho biết chúng có thể nhận ra nhau không, nếu không có cái mùi đặc biệt kể trên? - Thưa thầy, mắt của loài bướm lạ lắm: nó gồm khoảng ba ngàn phần tử, mỗi phần gồm có đủ giác mô, võng mô, thủy tinh thể, nhưng dù chúng có tài phân biệt màu sắc, chúng chỉ có thể thấy rất gần, không quá một thước hai. Khi tôi dứt lời, nét mặt thầy rạng rỡ hẳn lên song thầy không hỏi tiếp gì nữa. Cuối giờ học, trong khi sắp hàng, thầy mỉm cười với tôi. (Ôi chao! Làm sao quên được cái cười thân mật đó!). Kể từ ấy, không những khuyến khích tôi tiếp tục học thêm về Sinh vật học, thầy còn dạy tôi Vật lý, trình độ cao hơn các bạn tôi. Vài tháng kế đó, thầy dắt tôi vào phòng thí nghiệm, hướng dẫn tôi thêm. Nhờ vậy, tôi thường rất cô đơn, trở nên mến phục thầy rất mau và những lời thầy dạy trong lớp, tôi xem ngang như Kinh Thánh. Gavin đã theo lời cha vào trường nội trú Larchfield năm ngoái. Điều này làm tôi đau đớn không ít. Đó là một trường Trung học trưởng giả nổi tiếng, học phí rất đắt, khó có con nhà trung lưu nào học nổi. Tôi chỉ còn một điều an ủi là: tuy Gavin được cảm tình của nhiều bạn mới, nó vẫn quý mến nhất có mình tôi không thay đổi. Mỗi trưa hè, mượn xe đạp thầy Reid, tôi vượt 15 dặm đến để xem bạn tranh giải cho trường. Thoạt thấy tôi, tức thì Gavin bỏ hết đám bạn vây quanh, can đảm chạy lại với tôi. Tôi, kẻ phá đám, khép nép đứng chờ bạn ở một góc sân thể thao, cái sân sang trọng, Gavin, áo thun sọc, quần nỉ mềm trắng, buông mình xuống cỏ cạnh tôi, bứt cọng cỏ đưa lên miệng, hỏi: - Sao? Ở Lenvenford có gì lạ không? Và nhìn sâu vào mắt nhau, chúng tôi biết rằng không gì chia rẽ được chúng tôi, trừ cái chết, nhưng chúng tôi còn trẻ quá, lo gì? Song dù tình bạn chúng tôi khăng khít, mãnh liệt, dù suốt ngày nghỉ nào cũng có mặt bên nhau, chúng tôi vẫn cam chịu xa nhau hàng tháng dài vì bận học. Phần tôi, đáng lẽ thay vì bằng lòng với một thằng bạn kém hơn Gavin đôi chút, tôi thà cô độc thui thủi một mình. Một mình, tôi rong ruổi khắp các vùng quanh tỉnh, tôi quen thuộc từng tổ chim, từng phiến đá, từng lối mòn trên các ngọn đồi Winton. Cho đến nỗi mấy bác gác rừng quen mặt và cho phép tôi tự do đi lại, đó là một đặc ân hiếm có. Bộ sưu tập của tôi tăng dần. Tôi có cả những loại sâu bọ hiếm nhất, như con chuồn chuồn đặc biệt thuộc loại Pantala flavescens, theo tôi biết thì chưa bao giờ được thấy ở Tô Cách Lan này, trước đây. Nhờ tìm tòi thám hiểm, tôi không hề ao ước "nghỉ hè trên bãi bể" như các bạn. Trí tưởng tượng mang tôi ra xa hơn mấy bờ bể nhỏ. Đồng hoang đối với tôi trở thành rừng hoang vu, nơi tôi mạo hiểm xông pha với nhiều thận trọng. Nhưng thưa các bạn, đừng ngỡ là ngoài giờ học tôi được tự do theo đuổi đàn bướm suốt ngày đâu. Ba tôi luôn luôn trông coi cho giờ rảnh rỗi của tôi trở thành hữu ích. Từ lúc ông cho là tôi đã đến tuổi có thể làm việc được, ông kiếm việc cho tôi ngay. Hiện nay, sáng sáng tôi phải đến lò bánh mì Baxter, lấy xe ba bánh đạp đi giao bánh nóng cho thành phố đang còn ngái ngủ. Số tiền kiếm được, ba tôi cất hết, viện lý do chính đáng: để trang trải một phần phí tổn nuôi tôi. Ông không ngừng thúc bách mẹ tôi giảm chi, dù bà đã giảm chi đến mức tối đa. Thời gian gần đây, ba tôi đích thân thanh toán mọi chi phí trong tháng, ông luôn luôn đòi bớt, bớt, bớt cho đến nỗi người bán phát khùng lên; mua bất cứ vật gì ông cũng cò kè lâu lắc. Mỗi khi nghe bán đấu giá, bán xôn một vật gì xem ra có ích (theo ý ông) ông liền quyết định đi mua. Nhưng tính hà tiện của ông thường thắng: trở về với hai tay không, ông vui vẻ reo lên rằng tiền vẫn còn nguyên! Một tiếng kêu thích thú làm tôi chợt tỉnh, tiếng kêu của ông tôi. Đầu óc bay bổng đâu đâu nên tôi đã thua nốt hai con cờ chót. Ông tôi cười hả hê: - Ta thắng được con rồi, thấy chưa? Thắng cậu học trò thông minh nhất tỉnh đâu phải chuyện chơi? Tôi vội vàng rời ông ngay, chỉ nơm nớp sợ ông giữ lại bày ván nữa. ... Mời các bạn đón đọc Những Ngày Xanh của tác giả Archibald Joseph Cronin.
Những Năm Ảo Mộng - Archibald Joseph Cronin
ARCHIBALD JOSEPH CRONIN sinh năm 1896 ở Cardross (Scotland), làm y sĩ ở một khu kỹ nghệ xứ Galles rồi làm thanh tra mỏ (1924). Ông đã trình một luận án có giá trị về y khoa tại Đại học Glasgow (1925). Sau đó, ông đến hành nghề ở Londres, phòng mạch rất đông khách. Rồi vì quá lao lực, ông bắt buộc phải nghỉ việc. Để giải trí, ông viết cuốn: Người thợ làm nón và lâu đài của ông ta (1931), quyển truyện đã tạo được một thành công đáng kể. Tiếp theo, thành công đã được lập lại với các tiểu thuyết Thành trì (tác phẩm phần lớn như một tự thuật), Chìa khóa mở thiên đường, Những năm tóc còn xanh… Trở thành một nhà viết truyện nổi tiếng trên thế giới, A.J. Cronin bắt đầu chia thời gian cho việc viết văn và du lịch. Cho tới nay, ông đã xuất bản hơn hai mươi tác phẩm. Bạn đọc Việt Nam đã từng làm quen với tác phẩm Thành trì và Thanh gươm công lý; nay chúng tôi xin giới thiệu Những năm ảo mộng (The valorous years) nhằm giúp cho các bạn trẻ yêu thích văn học hiểu biết thêm về một tác giả lớn của văn học Anh hiện đại. *** Xuất thân từ một gia đình lao động nghèo ở Levenford, Duncan Stirling, nhân vật chính của tác phẩm có thể được xem là từ nhân dân mà ra, và với nghị lực, đôi bàn tay trắng, tài ba trời cho của mình, anh đã vượt qua bao thử thách, trở lực để giành lấy học bổng trường Y và cuối cùng trở thành bác sĩ. Nhưng cũng chính vào lúc đó, anh đứng trước một sự lưa chọn: ở lại làm một chuyên gia tại thành phố lớn, tìm ra các phát minh mới, nổi danh và giàu có nhưng xa cách bệnh nhân, không dùng đến trí tuệ mình mà chỉ dựa vào máy móc hiện đại, hay trở về nông thôn hẻo lánh làm một thầy thuốc khiêm nhường cả về chức vị lẫn tiền bạc, phương tiện y khoa chỉ gồm thuốc men và dụng cụ cổ lỗ sĩ, nhưng lại rất gần người bệnh, lại ấm tình người, chăm sóc bệnh nhân đến phút cuối. Tác phẩm đã lý giải một cách thỏa đáng đầy xúc động về sự lựa chọn của Duncan. Đây có lẽ cũng là câu hỏi dành cho các bạn trẻ khi sắp rời mái trường Y, đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời. *** Thứ sáu. Duncan ra khỏi bệnh viện sau một ngày thật bận rộn. Ngay sáng, anh đã nộp đơn ứng cử vào chức viện trưởng, và bây giờ tâm trí đầy ắp dự tính, anh đi ngược đường Công Chúa để về nhà. Anh chợt dừng lại. Một bóng dáng quen thuộc đi về phía anh. - Hamish! - Vâng, chào bác sĩ, chính tôi đây! Họ bắt tay nhau thật chặt. Rõ ràng là Hamish có vẻ không được tự nhiên trong bộ quần áo diện ngày chủ nhật màu sậm, mặt đỏ au lên vì cái cổ cồn cao trắng. Anh ta rụt rè nhận xét: - Thưa bác sĩ, đã lâu rồi tôi không gặp bác sĩ. Nhân dịp ghé qua Edimbourg, tôi định sẽ qua thăm bác sĩ một lát. Bây giờ, bác sĩ đã là người thành danh, chắc bác sĩ không còn thì giờ tiếp những người như bọn tôi. - Thật là vớ vẩn, Hamish ạ! Ông bạn già ôi, mình thật mừng gặp lại cậu. Hãy vào phòng tôi đi, mình sẽ cụng ly. Chỉ lát sau, Hamish đã ngồi ở trong phòng Duncan, mũ kết trên gối và một ly whisky cầm ở tay. - Xin chúc sức khỏe bác sĩ! - Mình cũng chúc sức khỏe cậu, Hamish ạ! Có gì lạ không? Cậu lên Edimbourg làm gì thế? - À …ờ mà! Tôi phải lên mua mấy thứ. Thuốc men, vài thứ vặt vãnh… Duncan ngạc nhiên: - Tôi tưởng dưới nhà mua thuốc ở Saint Andrews chớ? - Vâng, hồi xưa. Nhưng bây giờ mua ở một tiệm khác, rẻ hơn. - À ra thế! Duncan chợt thẳng người lại. - Vả lại… (anh chàng cao lớn này có vẻ lúng túng) tôi không chỉ đến Edimbourg vì mỗi việc ấy, tôi đi bán vài quyển sách cũ của bác sĩ Murdoch. - Lại có chuyện đó nữa cơ à? Duncan nhìn sững người khách đến thăm. Rồi với lấy cái tẩu để trên mặt lò sưởi, anh bắt đầu nhồi thuốc. - Tôi mong rằng mọi việc đều tiếp tục tốt đẹp ở Strath Linton chứ? - Vâng, vâng, Hamish vội trả lời, mọi việc cũng chạy vậy thôi. Hiển nhiên là cụ chủ không được khỏe lắm từ ít lâu nay. Chao ôi, bảy chục chứ ít gì, cũng phải mệt chứ! - Đáng lý cụ phải có một phụ tá. - Phụ tá! Hamish nhắc lại, môi bĩu ra dè bỉu, cụ đã thay bốn bác sĩ phụ tá chỉ trong có sáu tháng! - Sao thế? Hamish e dè mỉm cười: - Họ làm mọi việc đều trái khoáy hết cả. Họ không chịu đi khám nếu có bệnh nhân gọi lúc ban đêm, họ nhầm thuốc. Chao ôi! Họ làm cụ chủ gần phát điên lên, vì vậy cụ đã tống họ ra cửa hết người này đến người khác. (Anh ta dừng lại giây lát) Có thể nói là chẳng gặp ai ra hồn cả, ngoại trừ bác sĩ, bác sĩ ạ. Duncan quẹt mạnh một que diêm: - Chắc chắn ta có thể tìm ra một người tốt. Tôi biết khối bác sĩ trẻ rất có khả năng. Tôi sẽ gửi về một người. Rượu Whisky đã làm Hamish hoạt bát hẳn lên: - Không cần nữa đâu bác sĩ ạ. Bây giờ thì số khách không còn nhiều đủ để phải có một phụ tá. Duncan quay lại và bắt đầu đi tới đi lui. - Trời đất! Sao lại thế? - Thế này, bác sĩ ạ, ở nhà đang có sự cạnh tranh. Có một bác sĩ, ông Bailey, do đích thân Overton mang tới. Ông ta nhận lệnh của tên cướp có giọng đường mật đó và đáp lại, ông ta được một ngàn hai trăm công nhân của nhà máy đúc nhôm và nhà máy thủy điện. Họ bắt buộc phải đến phòng khám của ông ta, dù họ ưng hay không. Vì đó là người của công ty! Bác sĩ cũng biết là cụ chủ không bắt trả tiền mặt. Cụ chỉ nhận ít tiền qua các phiếu bảo hiểm xã hội đem lại. Thế mà bậy giờ cụ chỉ còn khoảng nửa tá phiếu, chỉ đủ chi tiêu theo kiểu giật gấu vá vai thôi, chật vật lắm! Bác sĩ cứ tin tôi đi. Duncan thảng thốt hình dung ra tình cảnh túng quẫn của ông thầy thuốc già. - Ôi dào! Rồi cũng có lối thoát chứ! Hamish tiếp thêm đầy vẻ lạc quan. Dẫu sao tôi cũng rất mừng gặp lại bác sĩ. Cô Jeanne dặn tôi nhắn với bác sĩ là bác sĩ luôn luôn là vị khách quý của nhà nếu có khi nào bác sĩ có dịp ghé thăm cái nơi chó ăn đá gà ăn muối của chúng tôi. Khi nghe nhắc đến Jeanne, Duncan cứng người lại. Anh mường tượng thấy cô đấu tranh chống lại thù nghịch, làm việc vất vả với lòng can đảm bình thản và vui vẻ biết chừng nào! Anh hiểu ra là anh chưa bao giờ hết yêu cô, và anh cũng lại nhớ ra một điều khác. - Tôi tưởng cô ấy thường gặp cậu Aigle. - Đúng vậy! Alex vẫn lảng vảng đến nhà. Cậu ấy nghĩ rất tốt về cô. Hai tháng sau này, cậu ấy ở Canada. Nhưng chúng tôi chờ cậu ấy trở về vào cuối năm nay. - Có lẽ khi ấy mọi việc sẽ được dàn xếp cho bác Murdoch. Và cho cả cô Jeanne. - Là cái chắc rồi! (Hamish mỉm cười đầy ngụ ý) Alex muốn lấy cô, bác sĩ biết chứ! Sau khi Hamish ra về, Duncan ngồi thừ ra nhìn những món quà đạm bạc mà gia đình Mac Kebre gửi tặng anh. Anh nhớ lại thật rõ căn nhà nghèo nàn của người gác rừng trong đêm tối đầy tuyết với người phụ nữ đang hấp hối, người phụ nữ mà anh đã cứu sống. Đêm đó mới thật sự có ý nghĩa, thật sự tuyệt vời. Anh thả mình vào suy tư “Trời ơi! Tôi đã thật sự làm được điều gì có ích chưa kể từ thời kỳ đó tới giờ?” Nhưng bây giờ, tấn bi kịch trong tuyết đó có nghĩa lý gì? Những rủi ro của một vị thầy thuốc nông thôn già nua và tầm thường liên quan gì đến anh? Đã từ lâu, anh gột bỏ ngoài đời mình mọi xúc cảm. Tương lai và sự nghiệp của anh tùy thuộc vào sự gột bỏ cảm xúc ấy. Vả lại cuộc hôn nhân giàu có sắp tới sẽ xóa đi rất nhanh những lo âu phiền muộn của gia đình Murdoch. ... Mời các bạn đón đọc Những Năm Ảo Mộng của tác giả Archibald Joseph Cronin.