Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Atlas Vươn Mình

Atlas Vươn Mình (Atlas Shrugged) mô tả thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước Mỹ khi các nhà công nghiệp và doanh nhân hàng đầu chống sự điều khiển bất công và thô bạo của nhà nước đối với toàn bộ ngành công nghiệp. Nhân vật chính, Dagny Taggart, giám đốc một công ty đường sắt, chứng kiến sự suy sụp của xã hội mà trong đó những người lao động ưu tú, những cá nhân xuất chúng nhất bị gạt ra rìa. Tất cả họ, những người có cả lý trí và lương tri, dưới sự lãnh đạo của một nhân vật bí mật tên là John Galt đã làm "dừng lại động cơ của thế giới". Quyển sách thể hiện rõ ràng những quan niệm của tác giả về thành tựu lao động, về tri thức và tinh thần tự do của con người. Bản dịch tiếng Việt dày 1650 trang cũng chứa đựng toàn bộ những triết lý quan trọng nhất của Ayn Rand. Lúc đang còn ở dạng bản thảo đang viết, nó có tên là "The Strike", nhưng khi được xuất bản (lần đầu vào năm 1957), cuốn sách có tựa là "Atlas Shrugged" (Atlas Vươn Mình). Một trong những lý do khiến độc giả không thể làm ngơ cuốn sách: tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng "Những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20" do độc giả của Modern Library bình chọn năm 1998 (tiểu thuyết "The Fountainhead" - Suối Nguồn cũng của Ayn Rand đứng thứ hai). "Atlas Vươn Mình" được cho là tiểu thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của nhiều độc giả Mỹ, chỉ sau Kinh Thánh (theo cuộc thăm dò của Thư Viện Quốc Hội Mỹ vào năm 1991). Nhiều cuộc tranh luận về cuốn sách xảy ra kể từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu, và liên tục được đào xới lại cho đến tận ngày nay. Sức sống của nó không chỉ ở nước Mỹ mà còn lan ra khắp thế giới. Một tiểu thuyết kinh điển cần đọc! *** Như bao người da trắng khác, tôi đọc cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Ayn Rand “Atlas Vươn mình” khi tôi ở tuổi 18. Và cũng như bao người da trắng khác, cuốn “Atlas Vươn mình” đã khiến tôi thành một kẻ đần độn trong nhiều tháng trời. Ayn Rand (1905-1982) Cuốn “Atlas Vươn mình”, được xuất bản năm 1959 và số lượng ấn bản phát hành chỉ đứng thứ hai sau Kinh Thánh, “Atlas Vươn mình” được dùng như một lời mời gọi bạn đọc đến với triết lý của Ayn Rand, Chủ nghĩa Khách quan, dựa trên ý tưởng rằng sự vị kỷ nên là đức tính hướng dẫn cho toàn bộ nhân loại. (Nếu bạn cho rằng tôi đang nói quá hoặc hiểu sai về thông điệp của bà, thì xin lưu ý là Rand đã công bố một cuốn sách phi hư cấu có tựa đề chính xác là “Phẩm hạnh của sự vị kỷ” |The Virtue of Selfishness| theo đúng nghĩa đen.) Rand khẳng định rằng tính tư lợi là động lực tốt nhất cho kinh tế học, tài chính, chính trị học và về cơ bản cho tất cả những sự mưu cầu của nhân loại. Bà lập luận rằng đặt những người khác lên hàng đầu nghĩa là mọi người đều sẽ về cuối. Sức hấp dẫn của sự vị kỷ Thế giới quan theo Chủ nghĩa Khách quan đơn giản của Rand không thể được thiết kế tốt hơn để thu hút những chàng trai da trắng sống êm ả ở ngoại ô và thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu giống tôi - loại người, mà theo câu nói bất hủ của Barry Switzer, là sinh ra ở tầng lớp thượng lưu song lại cứ tưởng mọi thứ mình có được là nhờ nỗ lực và tài năng cá nhân. Đối với những đứa trẻ như tôi vào thời điểm đó, thông điệp của Rand cho rằng chúng ta kiếm được mỗi phần của cải mà chúng ta được thừa kế là một điều đáng an ủi, và điều này làm hài lòng cái tôi của chúng ta bằng cách tập trung vào chúng ta như những chủ nhân của vũ trụ, những người xứng đáng với vị trí cao. May mắn thay, tôi không mất quá nhiều thời gian để loại bỏ các chủ đề của cuốn “Atlas Vươn mình”. Ngay khi tôi kết bạn với những người không phải là công tử ngoại ô da trắng, và khi tôi hiểu rằng họ phải làm việc chăm chỉ gấp 5 lần để được hưởng một nửa đặc quyền mà tôi được hưởng, tôi nhận ra rằng Rand đang hát một bản anh hùng ca tán dương sự thoải mái. Với việc áp dụng một chút đồng cảm và kinh nghiệm sống, triết lý của bà đã sụp đổ. Nhưng rất nhiều người có quyền lực vẫn tán đồng triết lý của Rand. Cựu Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan đã nói chuyện thường xuyên, và một cách sùng bái, về tác động của Rand đối với cuộc sống của ông ấy. Cựu Cục dự trữ liên bang Alan Greenspan là một người đi theo và ủng hộ Rand, cùng với cả Ron và Rand Paul. Một số người chơi trò chơi quyền lực nhất của Thung lũng Silicon, gồm Peter Thiel và Travis Kalanick, đã ca ngợi Rand. Văn phong của bà cho đến ngày nay cho biết một hình thức đặc biệt độc hại của tư tưởng bảo thủ - theo chủ nghĩa tự do mãnh liệt, hăng hái chống chính phủ, mù quáng ủng hộ việc trao quyền cho các tập đoàn. David Sloan Wilson (1949-) Trong tập “Kinh tế học Pitchfork” của tuần này, Nick Hanauer và David Goldstein trò chuyện với nhà tiến hóa luận nổi tiếng David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ấy, “Atlas Ôm chặt” |Atlas Hugged|. Cuốn “Atlas Ôm chặt” bác bỏ các tuyên bố của “Atlas Vươn mình” bằng cách sử dụng sự hiểu biết phi thường của Sloan về sinh học tiến hóa, cuốn sách này xác định lại con người như một loài động vật hợp tác và có tinh thần cộng đồng chứ không phải như những tác nhân vị kỷ hung bạo. Tính tư lợi đối diện với đại dịch Và đối với một ví dụ được trích từ các tiêu đề về lý do tại sao con người lại hoàn toàn không trở thành những người có thái độ và hành động kịch liệt chống xã hội (sociopathic) như hư cấu của Rand, hãy nhìn xa hơn với đại dịch. Xã hội tự do Galt’s Gulch đã phản ứng như thế nào vào năm ngoái khi COVID-19 lan đến? Trước tiên, không ai trong số những nhân vật chính theo chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc của Rand sẽ chịu nổi việc bắt buộc phải đeo khẩu trang. Họ không ưa mọi quy định của chính phủ, và vì đeo khẩu trang bảo vệ người khác nhiều như bảo vệ chính bản thân người đeo khẩu trang, điều đó vi phạm chỉ thị chính của Rand về tính vị kỷ là trên hết. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các quy tắc giãn cách xã hội 6 bộ Anh (ft) [1 ft = 0,3048 m]. Vì vậy, Galt’s Gulch trông giống như một đĩa petri (đĩa bằng thủy tinh hay nhựa trong suốt để nuôi cấy tế bào) cho vi rút corona. Rand đã hình dung xã hội không tưởng (utopia) của mình là thiên đường cho các CEO |Tổng Giám đốc Điều hành| và chủ tịch của các công ty sản xuất lớn, và độ tuổi trung bình của các CEO ở Mỹ đã tăng lên trong những năm gần đây, là dưới 60 tuổi. Cho rằng 95% tổng số ca tử vong do vi rút corona là ở những người trên 60 tuổi, tỷ lệ sống sót của Galt’s Gulch có vẻ không cao. Lúc này tôi nghe thấy những lời phản đối: “Nhưng chắc chắn những nhà tư bản không bị ràng buộc này sẽ có thể mua hoặc sản xuất máy thở để giữ cho những CEO bị nhiễm bệnh đó sống sót?” Có lẽ là không. Nếu bạn nhớ lại, máy thở có nhu cầu cao trong những ngày đầu của đại dịch, và lúc bấy giờ Tổng thống Trump đã sử dụng quyền hạn của chính phủ để buộc hãng General Motors sản xuất chúng - một sự vi phạm nghiêm trọng triết lý của Rand. Và chuỗi cung ứng toàn cầu đã hoàn toàn bị phá vỡ trong những ngày đầu tiên đó, nghĩa là toàn bộ tiền bạc trên thế giới không thể mua máy thở hoặc các bộ phận sản xuất máy thở cho Galt’s Gulch kịp thời để giải cứu những nhà khách quan chủ nghĩa đáng thương đang bị bệnh hiểm nghèo. Sau đó, hãy cân nhắc thực tế là Galt’s Gulch có khả năng không có cơ sở y tế công cộng để thông báo cho dân chúng về các hành vi rủi ro và dữ liệu nhân khẩu học, không có cách nào để chỉ đạo doanh nghiệp tư nhân theo những cách có lợi cho phúc lợi tập thể |public good| mà không bị khoét giá lớn và không có tiền thuế để hỗ trợ những người thất nghiệp vì đại dịch, và xã hội không tưởng của John Galt đang bắt đầu giống xã hội trong bộ phim “Đấu trường sinh tử” |The Hunger Games|. Khoa học viễn tưởng về chủ nghĩa cá nhân Có một lý do tại sao những người theo chủ nghĩa tự do vô chính phủ lại quá im lặng kể từ khi COVID lan đến các bờ biển của chúng ta cách đây một năm, và tại sao những người theo chủ nghĩa bảo thủ cực đoan của Đảng Cộng hòa lại thất vọng về Tiến sĩ Seuss khi đảng Dân chủ thông qua một gói cứu trợ đại dịch cực kỳ được lòng dân. Paul Constant Đại dịch là chứng cứ cho một sự thật không thể tránh được mà phá hủy triết lý của Ayn Rand: Chúng ta đang sống trong một xã hội, và không ai thực sự là một người làm chủ tự tạo ra vận mệnh của chính mình. Chúng ta càng sớm hiểu lý tưởng của người Mỹ về chủ nghĩa cá nhân tối thượng là một thứ khoa học viễn tưởng |science-fiction| bao nhiêu, thì chúng ta càng nhanh chóng có thể bắt tay vào xây đắp một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người bấy nhiêu. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Paul Constant là một cây bút của Civic Ventures và là đồng chủ biên của podcast “Pitchfork Economics” cùng với Nick Hanauer và David Goldstein. Trong tập mới nhất, họ đã nói chuyện với nhà tiến hóa luận David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết của ông, “Atlas Ôm chặt”. Wilson cho rằng đại dịch đã làm phá sản triết lý của Ayn Rand rằng tính tư lợi sẽ lấn át các nhu cầu xã hội. Hồ Thị Thu Hiền dịch Nguyễn Việt Anh hiệu đính *** Ayn Rand (1905 – 1982) là một tiểu thuyết gia, triết gia người Mỹ sinh ra ở Nga. Bà nổi tiếng là người đã phát triển học thuyết “Chủ nghĩa khách quan” thông qua hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Atlas vươn mình),  For the new Intellectual,… Bà sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái và bắt đầu niềm đam mê với nghệ thuật từ rất sớm. Năm 8 tuổi bắt đầu viết kịch, 10 tuổi viết tiểu thuyết. Sau thành công của Cách mạng Nga, các trường đại học bắt đầu mở cửa cho nữ sinh, Ayn Rand nhanh chóng gia nhập tầng lớp trí thức, bắt đầu nghiên cứu về lĩnh vực xã hội và lịch sử. Bà bắt đầu say mê các tác phẩm của Aristotle và Plato, những tác phẩm ảnh hưởng rất lớn đến bà sau này. Tiểu thuyết đầu tiên của Rand, hư cấu dựa trên tiểu sử của bà We the Living, được xuất bản năm 1936. Bối cảnh ở Liên bang Xô Viết, tiểu thuyết tập trung vào cuộc đấu tranh giữa cá nhân và chính quyền. Bà rời khỏi Nga vào năm 1926 và đến Mỹ. Ayn Rand ở nhà một người họ hàng tại Chicago rồi sau đó tới New York để theo đuổi ước mơ làm biên kịch. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, The Fountainhead (Suối nguồn) xuất bản năm 1943 đã mang tên tuổi Ayn Rand đến độc giả trên toàn thế giới. Thu nhập từ tác quyền và phiên bản điện ảnh đã mang lại cho bà danh vọng và sự ổn định về tài chính. Tác phẩm đã từng bị từ chối bởi 12 nhà xuất bản trước khi được chấp thuận bởi Bobbs-Merrill Company. Các tác phẩm của bà đã bán 25 triệu bản trên toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời của mình, Rand đã trở thành một nhân vật nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ngoài việc là một tác giả có sách bán chạy, bà cũng mang thông điệp của mình đến với các lớp đại học, đến Hollywood, với Quốc hội, với các trang xã luận, các buổi tọa đàm, chương trình phát thanh. Ngày nay , sách của bà đã bán được hàng triệu bản, và bà là chủ đề của một bộ phim tài liệu được đề cử Oscar, một con tem bưu chính Hoa Kỳ, các khóa học đại học, và một môn học xã hội triết học dành cho các nghiên cứu về tư tưởng của bà . Mời các bạn đón đọc Atlas Vươn Mình của tác giả Ayn Rand.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Forrest Gump (Tiếng Việt)
Tiểu thuyết Forrest Gump của Winston Groom in năm 1986 thoạt tiên không phải là cuốn sách ăn khách cho đến khi bộ phim chuyển thể ra đời năm 1994 với ngôi sao Tom Hanks. Theo một thống kê, trước khi có bộ phim này thì cuốn sách đã được bán 30.000 bản, và khi Forrest Gump qua mặt rất nhiều bộ phim xuất sắc cùng năm để giành giải Oscar phim hay nhất, đã có 1,7 triệu bản sách được bán trên khắp thế giới. Còn bộ phim đã xếp thứ tư trong các bộ phim có doanh thu lớn nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Năm 2011, Thư viện Quốc hội Mỹ đã chọn Forrest Gump vào danh sách bảo tồn của Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và mỹ học."  Winston Groom là một cựu binh thời chiến tranh ở Việt Nam, sau khi trở về, ông làm phóng viên và chuyển sang viết tiểu thuyết năm 32 tuổi và đã gặt hái được nhiều thành công. Cuốn tiểu thuyết Conversations with the Enemy (1982). [Trò chuyện với kẻ thù] với chủ đề cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã lọt vào chung kết giải Pulitzer năm 1983. Năm 1985, Groom quay về Mobile và bắt đầu viết Forrest Gump. Cuốn sách đã trở thành dấu mốc cho sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật Forrest Gump đã được Groom xây dựng như một người "tự kỷ bác học'", đã có những thay đổi khi được chuyển thể trên màn ảnh Hollywood. Sự khác biệt ở hình tượng Forrest Gump giữa truyện và phim dường như là nhà văn chủ ý xây dựng một nhân vật phản anh hùng, trong khi các nhà làm phim Hollywood thực hiện theo hướng ngược lại, người hùng kiểu mới có kết cục thành công có màu sắc Giấc mơ Mỹ. Truyện và phim đều đã gây nên những cuộc tranh luận về khía cạnh chính trị và tính biểu tượng của nhân vật Gump cũng như mối quan hệ với xã hội của chàng ngốc có chỉ số IQ (chỉ số thông minh) chỉ có 75 nhưng đã đi khắp nơi và gặp đủ loại người. Cuộc phiêu lưu của Forrest Gump suốt ba thập niên bao trùm lịch sử sau thế chiến II đã vẽ nên chân dung một nước Mỹ: Gump đã gặp 2 tổng thống Mỹ, lên tàu vũ trụ, đóng phim ở Hollywood, sang Trung Quốc và tham chiến ở Việt Nam mà không hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì.  Forrest Gump đề cập vấn đề muôn thuở của kiếp nhân sinh: chúng ta từ đâu tới, chúng ta làm gì và chúng ta đi về đâu? Thừa hưởng cái tên của ông tướng thời nội chiến đẻ ra phong trào phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan,Forrest Gump sinh ra với chỉ số thông minh của "thằng đần" nhưng mẹ cậu bé luôn đấu tranh cho con mình có được nền giáo dục công bằng nhất. Người mẹ tuyệt vời này luôn dạy con khi cậu bé bị chúng bạn trêu chọc "con không có gì khác biệt hết". Và hễ ai cật vấn "sao mày ngu vậy?" thì Gump có câu trả lời mẹ dặn: "Người ta chỉ ngu khi làm trò ngu".  Bằng giọng văn hài hước, châm biếm, gây cười nhưng cũng để lại dư vị cay đắng, những trang sách dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nội tâm với cái nhìn ngây thơ mà không hề giản đơn của một kẻ đần. Cuộc phiêu lưu dị thường mà Gump đã trải qua, vẽ nên chân dung nước Mỹ sau thế chiến II - một đế quốc đã phát động cuộc chiến phi nghĩa với Việt Nam và phải trả giá.  Đó là sự mất mát niềm tin của thế hệ trẻ, hàng nghìn người chết, các cuộc biểu tình. Forrest Gump tham gia cuộc chiến mà không hề hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì, “sao chuyện này lại xảy ra?”. Sáng lên trên cảnh nền tăm tối, hỗn loạn đó là ước mơ về hạnh phúc, về hòa bình qua hình ảnh một chiếc thuyền câu tôm, một đầm nuôi tôm.  Mỗi số phận trong tác phẩm là một câu trả lời về sự tồn tại, tin ở các giáo lý, luật lệ, mệnh lệnh hay chính mình. Trên lộ trình đưa ra các đáp án, tác phẩm cũng kịp lấy ngay những câu chuyện thời cuộc để nói về "chúng ta làm gì" của những thanh niên Mỹ khi phải tham chiến. Người bạn Bubba trước khi chết trên chiến trường Việt Nam đã đau xót hỏi Gump: "Tại sao chuyện này lại xảy ra?". Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phim được khắc họa đậm nét hơn so với tiểu thuyết phần nào cho thấy cuộc chiến hằn dấu ấn đậm nét trong truyền thông nước Mỹ, đến mức nhà làm phim đã gạt bớt các chuyện phiêu lưu khác như bay vào vũ trụ, đóng phim, đấu vật, tranh cử nghị viện... trong truyện để dành đất cho Gump và các bạn của chàng ta đối diện câu hỏi "đi về đâu?". Ðây chính là sự khác biệt lớn giữa phim và truyện khi nhà văn để nhân vật tiếp tục phiêu lưu.  Các nhân vật của phim có vẻ hành động logic với hiện thực hơn nhưng cũng buông xuôi theo thời hơn. Phim vừa có vẻ khẳng định thắng lợi của triết lý Tin Lành Max Weber (Gump phải đổ máu, mất mát và lao động cật lực để giàu có), vừa có màu sắc hư vô (cuộc đời như một hộp kẹo, bạn không thể biết mình sẽ chọn được cái nào). Truyện làm rõ hơn tinh thần không thúc thủ trước hoàn cảnh của Gump và bè bạn của chàng ta, hết keo này đến keo khác khiến người đọc phải mê say và nghĩ "ờ, cuộc đời này quả không đến nỗi tồi để sống".  Cả phim và truyện đều giữ một hình ảnh Forrest Gump khờ nhưng nhân hậu, luôn đối xử tốt với mọi người xung quanh mà không toan tính. Bút pháp cường điệu hài hước của hai tác phẩm đã khiến chàng khờ Gump không còn là thằng ngốc - nạn nhân kiểu nhân vật của Dostoyevsky, mà là người còn lại sau rốt để thanh thản kể câu chuyện đời mình, đầy nụ cười và niềm phấn khích bất tận. Mời các bạn đón đọc Forrest Gump của tác giả Winston Groom & Ngọc Trà (dịch).
Phi Trường Tập 2
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 2 của tác giả Arthur Hailey.
Phi Trường Tập 1
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 1 của tác giả Arthur Hailey.
Chuộc Tội
Vương Hải Yến (dịch) Truyện hấp dẫn, bố cục thực sự lạ lẫm với việc tập hợp các các đoạn "hồi ký". _NQK Emily, Sae, Maki, Akiko, Yuka – năm cô bé cùng nhau đến trường chơi bóng chuyền song chỉ có bốn về được nhà, với tư cách là bốn nhân chứng của một vụ giết người tàn nhẫn gây chấn động. Nhưng trở về an toàn không có nghĩa là bình an sống tiếp. Trước bốn lời khai như một: “không nhớ rõ mặt hung thủ”, người mẹ mất con gái đã phẫn nộ gieo vào đầu bốn cô bé lời nguyền rủa độc địa – bước ngoặt lái bốn số phận mới chớm thành hình vào bốn ngã rẽ bất hạnh khác nhau: “Hãy tìm ra hung thủ trước khi quá thời hạn khởi tố. Nếu không làm được điều đó, hãy tìm ra cách chuộc tội khiến tao có thể chấp nhận. Còn nếu không làm được một trong hai điều trên tao sẽ trả thù chúng mày.” “Căng thẳng từng chữ, đồng thời cũng lay động từng dòng… Minato đã khéo léo viết nên một câu chuyện ớn lạnh của bi kịch, tội lỗi và sự chuộc tội.”       - Publishers Weekly *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Gửi cô Asako, Cảm ơn cô vì hôm trước đã tới dự đám cưới của cháu. Suốt buổi lễ, cháu đã luôn lo rằng khi nhìn những người họ hàng cháu rồng rắn kéo nhau từ thị trấn thôn quê đó lên, cô sẽ nhớ lại sự việc khi ấy để rồi cảm thấy không thoải mái. Bởi đám người đó chẳng hề nhận ra cử chỉ và hành động của mình thiếu tế nhị tới chừng nào. Không khí trong lành. Lần đầu tiên cháu nhận ra rằng, ngoại trừ điều đó, thị trấn ấy chẳng còn gì đáng kể là vào khoảng bảy năm trước, khi cháu tốt nghiệp cấp ba và lên Tokyo theo học trường đại học nữ sinh. Bốn năm trời cháu sống trong ký túc xá của trường. Lúc cháu nói với bố mẹ rằng mình muốn lên Tokyo học đại học, bố mẹ cháu đều đồng thanh phản đối. Lỡ con bị kẻ xấu lừa, bắt làm công việc bán thân thì phải làm sao? Rồi bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập thì phải làm thế nào? Bố mẹ biết làm gì nếu con bị người ta sát hại? Một người sinh trưởng nơi đô thành như cô Asako đọc đến đây chắc sẽ phì cười mà nghĩ, rốt cuộc bố mẹ cháu nghe thông tin ở đâu mà lại có những lo lắng kỳ cục như vậy nhỉ. Cháu đã mang chương trình yêu thích của bố mẹ ra mà cãi lại, rằng, “Đấy là tại bố mẹ xem chương trình Hai tư giờ ở đô thị lớn nhiều quá đó thôi”, dù thực ra cháu cũng nhiều lần tưởng tượng tới những chuyện đáng sợ như thế rồi. Dẫu vậy, cháu vẫn rất khát khao được lên Tokyo học. “Trên Tokyo có gì hay đâu? Ngành mà con muốn theo học, mấy trường đại học trong tỉnh mình cũng có. Nếu là các trường đó, thì tuy không thể đi về trong ngày, nhưng giá nhà trọ rẻ, gặp chuyện gì cũng có thể về nhà ngay được. Như vậy cả con và bố mẹ đều an tâm.” Bố cháu đã thuyết phục cháu như vậy. “Sao bố mẹ có thể an tâm được? Không phải bố mẹ chính là những người hiểu rõ nhất, rằng khoảng tám năm trở lại đây, con đã sống trong sợ hãi ở thị trấn này như thế nào hay sao?” Thấy cháu nói vậy, bố mẹ không phản đối nữa. Nhưng bố mẹ cháu ra một điều kiện là, khi lên đó thay vì sống một mình ở phòng trọ hay căn hộ chung cư, cháu phải vào sống trong ký túc xá dành cho sinh viên. Cháu không có ý kiến gì về việc đó. Tokyo trong lần đầu tiên cháu tới thăm giống như một thế giới khác. Bên trong nhà ga nơi cháu bước từ tàu điện cao tốc xuống nhìn đâu cũng thấy toàn người với người, đến mức cháu nghĩ số người bên trong nhà ga này có khi còn nhiều hơn cả dân số của thị trấn quê cháu nữa. Điều làm cháu ngạc nhiên hơn nữa là, dù có nhiều người đến vậy, nhưng mọi người vẫn có thể đi lại bình thường mà không hề đụng vào nhau. Ngay cả cháu lúc đó dù đi loạng quạng do mải nhìn bảng hướng dẫn điện tử để lên tàu điện ngầm mà vẫn không đụng phải ai, vẫn có thể suôn sẻ tới được nơi mình muốn tới. Lên được tàu điện ngầm rồi, lại có một chuyện khiến cháu ngạc nhiên hơn nữa. Đó là, những người quanh cháu dù có vẻ đều đi cùng ai đó, nhưng hầu như không ai nói chuyện với ai cả. Thỉnh thoảng cháu có nghe thấy tiếng cười hay tiếng nói chuyện lớn, nhưng đa phần những âm thanh đó đều do người ngoại quốc gây ra. Cho đến hết cấp hai cháu vẫn đi bộ đi học, lên cấp ba thì đi xe đạp nên cho tới lúc đó một năm cháu chỉ đi tàu điện vài lần, ví như những lần tới các trung tâm mua sắm ở thị trấn khác cùng gia đình hay bạn bè. Và trong khoảng một tiếng trên tàu điện trước khi tới nơi ấy, cháu và mọi người trò chuyện không dứt. Chúng mình mua gì bây giờ nhỉ. À tháng sau có một cái sinh nhật đấy, hay mình mua sẵn quà luôn cho tiện. Trưa nay mọi người muốn ăn ở McDonald’s hay KFC?… Cháu tuyệt nhiên không nghĩ mình làm như vậy là thiếu ý thức. Bởi tiếng nói cười vang lên ở khắp mọi nơi trên tàu, và không ai cau mày khó chịu vì chuyện đó cả, nên cháu đã nghĩ cư xử như thế khi ở trên tàu là bình thường. Đột nhiên cháu nghĩ, phải chăng người Tokyo không nhìn thấy những người xung quanh mình? Phải chăng họ không quan tâm gì đến người khác. Miễn là bản thân không thấy phiền, thì người bên cạnh muốn làm gì cũng được? Phải chăng họ không muốn biết tiêu đề cuốn sách mà người ngồi ở ghế đối diện đang đọc? Phải chăng họ không buồn để ý dẫu cho người đứng trước mặt họ có mang một cái túi xách hàng hiệu cao cấp đến đâu? Lúc nhận ra thì cháu đã đang rơi nước mắt rồi. Nhìn một con bé quê mùa với cái túi hành lý lớn đang khóc, hẳn mọi người sẽ hiểu lầm cháu nhớ nhà nên mới vậy. Hơi xấu hổ, cháu vừa quệt nước mắt vừa nhìn quanh, nhưng chẳng có người nào đang nhìn cháu cả. Cháu cảm động vì nơi đây tuyệt vời hơn cả trong tưởng tượng của mình. Lý do cháu muốn đến Tokyo không phải là vì nơi đây có nhiều cửa hàng tráng lệ, hay nhiều chỗ để đi chơi. Cháu chỉ muốn hòa vào đám đông những người không biết về quá khứ của cháu, để xóa đi hình ảnh của mình. Nói chính xác hơn, cháu muốn trốn khỏi đôi mắt của kẻ sát nhân trong vụ án mà cháu là nhân chứng giờ này vẫn đang ung dung ngoài kia. Cháu ở phòng ký túc bốn người. Mọi người đều là dân tỉnh lẻ, ngày đầu tiên tới ở mọi người tự giới thiệu bản thân và thi nhau khoe về những điều đáng tự hào của quê hương mình. Nào là quê họ có món mì Udon ngon, có suối nước nóng, rồi nhà gần nhà tuyển thủ bóng chày nổi tiếng… Ba người còn lại tuy nói là dân tỉnh lẻ, nhưng tên thành phố, thị trấn quê họ thì cháu đều đã nghe qua. Cháu có nói ra tên thị trấn quê cháu, nhưng cả ba người đều không biết nó nằm ở tỉnh nào. Họ hỏi nơi ấy là nơi như thế nào, cháu trả lời, không khí ở đó rất trong lành. Cháu nghĩ nếu là cô Asako, hẳn cô sẽ hiểu rằng, chẳng phải vì nơi đó không có gì đáng tự hào nên cháu mới miễn cưỡng nói một câu chung chung như vậy. Sinh ra và lớn lên ở thị trấn đó, hằng ngày cháu đều hít thở không khí nơi ấy như một lẽ đương nhiên. Cháu nhận ra không khí nơi đó thật trong lành, vào một ngày khi cháu mới lên lớp bốn, mùa xuân năm vụ án đó xảy ra. Trong giờ học môn xã hội, thầy Sawada giáo viên chủ nhiệm đã nói thế này: “Các em đang sống ở vùng quê có khí hậu trong lành nhất Nhật Bản. Các em có biết tại sao thầy có thể nói như vậy không? Những máy móc chính xác được dùng trong các bệnh viện và phòng nghiên cứu phải được chế tạo ở môi trường mà không khí không lẫn bụi bẩn. Vì thế, nhà máy sản xuất những máy móc ấy cũng phải được xây dựng ở nơi có không khí trong lành. Và trong năm nay, nhà máy mới của công ty chế tạo máy Adachi đã được xây dựng ngay tại thị trấn này. Việc nhà máy của công ty sản xuất thiết bị chính xác hàng đầu Nhật Bản được xây dựng ở nơi này chứng tỏ nơi đây đã được chọn là nơi có không khí trong lành nhất Nhật Bản. Các em hãy tự hào vì mình đang được sống trên một vùng đất tuyệt vời như thế nhé.” Sau buổi học, chúng cháu đã hỏi Emily xem điều thầy giáo nói có đúng không. “Tớ cũng từng nghe bố tớ nói như thế.” Mời bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Minato Kanae.