Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí Mật Sâu Kín Nhất

Nối tiếp Chỉ thời gian có thể cất lời và Tội lỗi của người cha, Bí mật sâu kín nhất là tập thứ ba trong bộ Biên niên Clifton của Jeffrey Archer. Trong phần 3 – Bí mật sâu kín nhất, mỗi nhân vật chính sẽ xuất hiện với những vai trò mới với những biến cố và thử thách mới. Harry sẽ trở thành một tiểu thuyết gia, Emma cố gắng điều hành công việc kinh doanh của riêng cô, còn Giles bắt đầu tham gia hệ thống chính trị và chạy đua vào nghị viện. Những nhân vật chính sẽ bắt đầu một chương mới của cuộc đời, nhưng liệu rằng con đường của họ sẽ thuận lợi hay nhiều chông gai? Liệu những sóng gió có quật ngã sức sống của họ? Đây không còn là câu chuyện chỉ liên quan đến Harry Clifton. Mối ràng buộc giữa hai nhà Clifton và Barrington ngày càng sâu sắc hơn. Các bí mật xoay quanh thân thế của các nhân vật và những kế hoạch của họ khiến cho số phận các thành viên hai gia đình thay đổi nhanh chóng. Cho đến phút cuối cùng, bí mật sâu kín nhất vẫn chưa được tiết lộ. Liệu còn nhân vật nào sẽ khép lại câu chuyện của mình sau khi bí mật được phơi bày? *** #Review_độc_giả BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT – JEFFREY ARCHER Cuối phần 2 – Tội lỗi của người cha, mình đã nghĩ tác giả có thể kết thúc truyện rồi vì đa số các mâu thuẫn chính đã được giải quyết; Harry và mọi người đều có kết thúc đẹp, kẻ ác thì đã trả giá. Nên mình có đôi chút lo lắng về phần 3, vì nếu cố tình kéo dài truyện thì nhiều khi các phần sau sẽ khiên cưỡng và nhàm chán như rất nhiều tác phẩm trước đây đã gặp phải.  Tuy nhiên, Archer đã không làm mình thất vọng, những nhân vật phản diện vẫn trực chờ cơ hội báo thù Harry, Giles cũng như Emma. Tất nhiên là cậu con trai Sebastian cũng bị cuốn vào; mạch truyện càng về sau càng chuyển dần qua chàng trai mới lớn này. Những thử thách và số phận của cậu hứa hẹn sẽ còn hấp dẫn hơn cả cuộc đời người cha - Harry. Người con gái nuôi của Harry và Emma mà thực chất là con của Hugo cũng hứa hẹn sẽ tạo nên những rắc rối lớn cho sau này, nhưng chắc chúng ta phải đợi tới phần 4 để theo dõi. Tuy nhiên, mình cũng hơi thất vọng một chút về Harry, một người đã trải qua nhiều năm bão táp chiến trường trong Thế chiến thứ 2 mà không thể hiện được nhiều bản lĩnh của mình, có lẽ tác giả muốn dành sân khấu cho lớp trẻ nhiều hơn chăng?? Chỉ có một tình tiết mình khá thích, nếu ai đọc của Archer nhiều thì sẽ nhận thấy các nhân vật chính của ông đều đầy tài năng nhưng không chung thủy, họ dễ bị ngã vào vòng tay của nhưng người mới, tình huống tương tự cũng được Acher xây dựng cho Harry và Emma, kết quả ra sao thì mình sẽ để cho mọi người tự khám phá để tránh spoil. Cá nhân mình thích kết phần 3 hơn kết phần 2 rất nhiều, vì nó hứa hẹn phần 4 sẽ rất đáng mong đợi. Mình đánh giá BÍ MẬT SÂU KÍN NHẤT khoảng 8,5 điểm. Hy vọng chúng ta sẽ sớm được đón nhận phần 4 của series truyện này. Review: Đào Đức Tâm *** Big Ben đổ chuông bốn tiếng. Mặc dù đã kiệt sức bởi những gì diễn ra tối hôm đó, nhưng vẫn còn đủ chất kích thích được bơm đi khắp cơ thể khiến vị Đại Chưởng ấn hầu như không thể ngủ nổi. Ông đã cam đoan với các thành viên Thượng viện sẽ đưa ra một phán quyết cho vụ tranh tụng của Barrington chống lại Clifton về vấn đề thừa kế tước hiệu lâu đời và tài sản khổng lồ của gia tộc. Thêm một lần nữa, ông cân nhắc các sự kiện thực tế, vì ông tin vào chúng, và chỉ có chúng được phép quyết định phán quyết cuối cùng của ông. Khoảng bốn mươi năm về trước, khi ông bắt đầu tập sự, người hướng dẫn đã khuyên ông phải loại bỏ mọi cảm xúc hay thiên kiến cá nhân khi cần đưa ra một phán quyết về thân chủ hay về vụ tranh tụng đang diễn ra trước mắt. Ngành luật không phải là ngành dành cho những kẻ có trái tim yếu đuối hay lãng mạn, sư phụ của ông đã nhấn mạnh như thế. Tuy vậy, sau khi tuân thủ tôn chỉ này trong bốn thập kỷ, ngài Đại Chưởng ấn buộc phải thừa nhận ông chưa bao giờ gặp phải một vụ việc cân bằng đến mức gần như tuyệt đối thế này. Ông chỉ ước gì F. E. Smith⁜vẫn còn sống để ông có thể tìm kiếm lời khuyên từ sư phụ của mình. ← Frederick Edwin Smith, Bá tước thứ nhất của Birkenhead, là một chính trị gia và luật sư bảo thủ người Anh. Một mặt… ông căm ghét những lời lẽ sáo mòn này biết chừng nào. Một mặt, Harry Clifton đã ra đời sớm hơn ba tuần so với người bạn thân nhất của anh ta, Giles Barrington: đó là thực tế. Mặt khác, Giles Barrington, không nghi ngờ gì nữa, là con trai chính thức của Sir Hugo Barrington và người vợ kết hôn hợp pháp của ông ta, Elizabeth: đó là một thực tế nữa. Nhưng điều đó vẫn không làm chàng trai trở thành người con được ra đời sớm nhất của Sir Hugo, và đó là điểm mấu chốt của bản di chúc. Một mặt, Maisie Tancock sinh Harry vào ngày thứ 28 của tháng thứ chín sau khi bà ta thừa nhận đã có quan hệ tình dục với Sir Hugo Barrington khi họ tham gia chuyến dã ngoại dành cho công nhân tới Weston-super-Mare⁜. Thêm một thực tế. Mặt khác, Maisie Tancock đã kết hôn với Arthur Clifton khi Harry ra đời, và giấy khai sinh khẳng định rõ ràng Arthur là bố đứa trẻ. Một thực tế khác. ← Một thị trấn ven biển ở Somerset, Anh. Một mặt… Dòng suy nghĩ của Đại Chưởng ấn quay trở lại những gì đã diễn ra trong phòng họp sau khi Viện cuối cùng cũng thực hiện biểu quyết để quyết định xem Giles Barrington hay Harry Clifton nên được thừa kế tước vị và tất cả những gì đi kèm.Ông nhớ lại chính xác những lời của người phụ trách kiểm phiếu khi công bố kết quả trước Thượng viện đông kín. “Đồng ý ở bên phải, hai trăm bảy mươi ba phiếu. Không đồng ý ở bên trái, hai trăm bảy mươi ba phiếu.” Những tiếng xôn xao ồn ã vang lên khắp các băng ghế đỏ⁜. Ông chấp nhận việc kết quả bỏ phiếu cân bằng sẽ buộc ông phải đảm nhận trách nhiệm không hề mong muốn là đưa ra quyết định ai là người được thừa kế tước vị của gia đình Barrington, công ty hàng hải danh tiếng, cũng như mọi tài sản, đất đai, vật sở hữu có giá trị. Giá như không có nhiều thứ đến vậy gắn liền với quyết định của ông khi tính đến tương lai của hai người đàn ông trẻ tuổi. Liệu ông có nên chịu ảnh hưởng bởi thực tế Giles Barrington muốn được thừa kế tước vị còn Harry Clifton thì không? Không, ông không được làm thế. Như Lord Preston đã chỉ ra trong bài diễn thuyết đầy sức thuyết phục của ông ta từ băng ghế phe đối lập, rằng như thế sẽ tạo ra một tiền lệ xấu, cho dù nó thật tiện lợi. ← Ở Quốc hội Anh, các băng ghế tại phòng họp Thượng viện sơn màu đỏ, còn Hạ viện sơn màu xanh. Một mặt, nếu ông thực sự ra phán quyết có lợi cho Harry… cuối cùng ông ngủ thiếp đi, để rồi bị đánh thức bởi một tiếng gõ cửa khe khẽ vào lúc bảy giờ, một thời điểm muộn bất thường. Ông rên lên, đôi mắt vẫn nhắm trong khi đếm từng tiếng chuông của Big Ben. Chỉ còn ba giờ đồng hồ nữa trước khi ông phải đưa ra phán quyết, và ông vẫn chưa đi được tới quyết định. Đại Chưởng ấn rên lên lần thứ hai khi ông đặt chân xuống sàn, xỏ dép vào và đi sang phòng tắm. Thậm chí lúc ngồi trong bồn tắm, ông vẫn tiếp tục đánh vật với vấn đề. Thực tế. Harry Clifton và Giles Barrington đều bị mù màu, giống như Sir Hugo. Thực tế. Bệnh mù màu chỉ có thể di truyền từ mẹ, vậy nên đây chỉ đơn thuần là trùng hợp ngẫu nhiên, và cần được loại bỏ trên đúng cơ sở đó. Ông ra khỏi bồn tắm, lau khô người, khoác lên mình một chiếc áo mặc trong nhà. Sau đó, ông ra khỏi phòng ngủ, đi theo hành lang trải thảm dày tới phòng làm việc của mình. Đại Chưởng ấn cầm một cây bút máy và viết hai cái họ “Barrington” và “Clifton” lên đầu một trang giấy, phía dưới ông bắt đầu liệt kê những ưu thế và yếu thế của từng người. Cho tới khi ông viết kín ba trang giấy với thứ chữ gọn ghẽ như bản khắc đồng của mình, Big Ben đã đánh tám tiếng chuông. Song ông vẫn chẳng sáng suốt được thêm chút nào. Ông đặt bút xuống và miễn cưỡng đi ăn sáng. Đại Chưởng ấn ngồi một mình, lặng lẽ dùng bữa sáng. Thậm chí ông không để mắt tới những số báo ra buổi sáng được xếp ngay ngắn ở bên đầu bàn, cũng không bật máy thu thanh lên, vì ông không muốn một bình luận viên không được thông tin đầy đủ nào đó làm ảnh hưởng đến phán quyết của mình. Những tờ báo nghiêm túc tập trung vào tương lai của nguyên tắc thừa kế thế tập nếu Đại Chưởng ấn phán quyết có lợi cho Harry, trong khi các tờ lá cải dường như chỉ bận tâm đến chuyện liệu Emma có thể kết hôn với người đàn ông cô yêu hay không. Khi ông quay trở lại phòng tắm để đánh răng, cán cân công lý vẫn chưa nghiêng về bên nào. Ngay sau khi Big Ben đánh chuông báo chín giờ, ông quay trở lại phòng làm việc và đọc lại các ghi chép của mình với hy vọng rằng cuối cùng cán cân cũng sẽ nghiêng về bên này hay bên kia, song nó vẫn cân bằng tuyệt đối. Ông tiếp tục nghiền ngẫm các ghi chú khi một tiếng gõ cửa nhắc nhở Đại Chưởng ấn rằng cho dù có hình dung quyền lực của ông lớn đến thế nào, ông vẫn không thể ngăn được thời gian trôi đi. Ông thở dài, xé ba tờ giấy khỏi tập sổ ghi chép, đứng dậy, tiếp tục đọc trong khi bước ra khỏi phòng làm việc và đi xuống hành lang. Khi vào phòng ngủ, ông trông thấy East, người hầu phòng, đang đứng cạnh chân giường, chờ đợi thực hiện phần việc buổi sáng. East bắt đầu bằng việc khéo léo cởi chiếc áo mặc trong nhà bằng lụa ra trước khi giúp ông chủ mặc lên người một chiếc sơ mi trắng vừa là xong vẫn còn ẩm. Tiếp theo, một cái cổ cồn hồ bột, rồi đến một chiếc khăn quàng cổ nhỏ tinh tế có dây buộc. Trong khi Đại Chưởng ấn kéo cái quần dài đen lên, ông tự nhắc nhở mình đã tăng thêm vài cân kể từ khi nhậm chức. Tiếp đó, East giúp ông mặc chiếc áo thụng dài màu đen và vàng trước khi chuyển sự chú ý sang đầu và bàn chân ông chủ. Một bộ tóc giả che kín gáy được đội lên đầu ông trước khi ông xỏ chân vào đôi giày có cài khóa. Chỉ sau khi sợi dây chuyền vàng chức tước từng được ba mươi chín vị Đại Chưởng ấn trước đó đeo đã nằm trên vai, ông mới từ bộ dạng một vai quý bà cáu bẳn trên sân khấu kịch câm chuyển thành quan chức tư pháp có quyền lực lớn nhất ở quốc gia này. Một cái liếc mắt vào gương, và ông cảm thấy đã sẵn sàng để bước lên sân khấu diễn vai của mình trong vở diễn đầy kịch tính đang được công diễn. Chỉ tiếc một điều là ông vẫn chưa biết lời thoại sẽ thế nào. Việc căn thời gian cho Đại Chưởng ấn đi vào và ra khỏi tòa tháp Bắc cung điện Westminster hẳn có thể khiến một thượng sĩ nhất của trung đoàn phải thấy ấn tượng. Vào lúc 9 giờ 40 phút sáng, có một tiếng gõ cửa và David Bartholomew, thư ký của vị đại thần, bước vào phòng. “Chúc buổi sáng tốt lành, thưa ngài,” ông ta mở lời. “Chúc buổi sáng tốt lành, ông Bartholomew,” Đại Chưởng ấn chào lại. “Tôi rất tiếc phải thông báo,” Bartholomew nói, “là Lord Harvey đã qua đời tối qua, trong một chiếc xe cứu thương trên đường tới bệnh viện.” Mời các bạn mượn đọc sách Bí Mật Sâu Kín Nhất của tác giả Jeffrey Archer & Lê Đình Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Gái Thầy Lang - Amy Tan
Diện mạo văn học Mỹ trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 có những thay đổi sâu sắc. Giới nghiên cứu phê bình văn học Mỹ nhất trí với nhau ở một điểm là cần phải thay đổi cái nhìn chính thống trong những nhận định về văn học Mỹ. Vậy điều gì đã làm nên những thay đổi này? Có thể nói đó là sự xuất hiện của các nhà văn da màu, mà đại diện xuất sắc là các nhà văn nữ. Năm 1995, Tony Morrison đạt giải Nobel về văn chương. Nhưng trước đó khá lâu từ những thập niên 70, 80 văn học Mỹ đã có thêm sinh khí mới với những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ da đen như Alice Walker, Maya Angelou, những nhà văn gốc Mỹ la tinh như nhà văn được giải Pulitzer Oscar Hijuelos, Rdolfo Anaya… Cùng lên tiếng với nhóm các nhà văn trên là những nhà văn gốc Châu Á. Vào giữa thập niên 70, Maxine Hong Kingston với Tripmaster Monkey đã đặt một cột mốc cho dòng văn học này, và nối tiếp con đường của bà là Amy Tan với The Joy Luck Club – Phúc lạc hội (1988). Tác phẩm gây nên một tiếng vang lớn buộc độc giả và giới nghiên cứu phê bình phải nhìn lại những tác phẩm của những nhà văn Mỹ gốc Châu Á, Amy Tan với các tác phẩm tiếp theo của bà The Kitchen God's Wife – Phu Nhân Táo Quân (1991), The Hundred Secret Senses – Trăm miền ẩn thức (1995), The Bonesetter's Daughter – Con gái thầy lang (2000), cùng những sáng tác cho thiếu nhi The Moon Lady, tạm dịch là Hằng Nga, và The Chinese Saimese Cat, tạm dịch Con mèo xiêm Trung Quốc, trong vòng hơn một thập kỷ qua đã làm nên một hiện tượng trong văn học Mỹ. Các nhà phê bình đã thống nhất với nhau trong nhận định là cùng với Maxine Hong Kinsgton, Amy Tan đã khai phá một con đường mới, mở ra những giá trị nghệ thuật và nhân bản sâu sắc trong nền văn học đương đại Mỹ. Thêm vào giá trị văn học Mỹ những giá trị của một nền văn hoá phương Đông vốn thâm trầm mà sâu sắc. *** Amy Tan sinh ngày 19 tháng 1 năm 1952 ở Oakland, bang California, là một nhà văn người Mỹ. Tuổi thơ của bà trôi qua chủ yếu ở San Francisco, nhưng bà lại tốt nghiệp phổ thông ở Montreux, Thuỵ Điển và bà nhận được bằng thạc sĩ về ngôn ngữ của San Jose Sate University. Với tác phẩm đầu tay Phúc Lạc Hội, Amy Tan đã nhận được giải thưởng The National Book Award và L.A. Times Book Award năm 1989. Tác phẩm gây nên một tiếng vang lớn buộc độc giả và giới nghiên cứu phê bình phải nhìn lại những tác phẩm của những nhà văn Mỹ gốc Châu Á, Amy Tan với các tác phẩm tiếp theo của bà The Kitchen God s Wife – Phu Nhân Táo Quân (1991), The Hundred Secret Senses – Trăm Miền Ẩn Thức (1995), The Bonesetter s Daughter – Con Gái Thầy Lang (2000), cùng những sáng tác cho thiếu nhi The Moon Lady, tạm dịch là Hằng Nga, và The Chinese Saimese Cat, tạm dịch Con Mèo Xiêm Trung Quốc, trong vòng hơn một thập kỷ qua đã làm nên một hiện tượng trong văn học Mỹ. Các nhà phê bình đã thống nhất với nhau trong nhận định là cùng với Maxine Hong Kinsgton, Amy Tan đã khai phá một con đường mới, mở ra những giá trị nghệ thuật và nhân bản sâu sắc trong nền văn học đương đại Mỹ. Thêm vào giá trị văn học Mỹ những giá trị của một nền văn hoá phương Đông vốn thâm trầm mà sâu sắc. Tác phẩm tiêu biểu: The Joy Luck Club (1989) The Kitchen God's Wife (1991) The Hundred Secret Senses (1995) The Bonesetter's Daughter (2001) Saving Fish from Drowning (2005) The Moon Lady, illustrated by Gretchen Schields (1992) Sagwa, the Chinese Siamese Cat, illustrated by Gretchen Schields (1994) The Opposite of Fate: A Book of Musings (2003) Mid-Life Confidential: The Rock Bottom Remainders Tour America With Three Cords and an Attitude (với Dave Barry, Stephen King, Tabitha King, Barbara Kingsolver) (1994) Mother (với Maya Angelou, Mary Higgins Clark) (1996) The Best American Short Stories 1999 (với Katrina Kenison) (1999) *** Đây là những điều mà tôi biết là thật : Tên tôi là Lưu Linh Young. Tên của các ông chồng tôi là Phan Khải Tĩnh và Edwin Young. Cả hai đều đã yên nghỉ nơi chín suối và mang theo những bí mật của chúng tôi. Con gái tôi là Ruth Luyi Young. Nó cầm tinh là rồng nước còn tôi là rồng lửa. Vì thế mẹ con tôi là một nhưng lại đối lập nhau. Tôi biết tất cả những điều này tuy vậy vẫn có một cái tên tôi không sao nhớ nổi. Nó nằm đâu đó trong cái lớp sâu kín nhất trong bộ nhớ của tôi mà tôi không có cách gì đào xới lên được. Hàng trăm lần tôi nhớ về cái buổi sáng mà dì Báu đã viết cái tên đó ra. Tôi mới chỉ có sáu tuổi nhưng rất thông minh sáng láng. Này nhé, tôi biết đếm, biết đọc. Tôi ghi nhớ tất cả mọi chuyện và đây là những gì nằm lại trong đầu tôi về cái sớm mùa đông năm ấy. Tôi đang ngái ngủ, vẫn còn nằm trên tấm phản xây bằng gạch với dì Báu. Ống dẫn nhiệt trong căn phòng nhỏ của chúng tôi ở xa lò sưởi trong phòng chung nhất cho nên gạch dưới lưng tôi đã lạnh cóng từ lâu. Đôi vai tôi run rẩy. Khi mở mắt, tôi thấy dì Báu viết một cái gì đó lên một mảnh giấy, rồi khoe với tôi những dòng chữ dì vừa viết. “Con chẳng thấy gì,” tôi than vãn, “trời còn tối mờ.” ... Mời các bạn đón đọc Con Gái Thầy Lang của tác giả Amy Tan.
Cô Gái Thành Rome - Alberto Moravia
Khi đọc xong cuốn “Cô gái thành Rome”, tôi đã viết một cái “note” như thế này: “Đọc nó, mình nhận thấy rất rõ những con người được tác giả miêu tả giống như mình đang xem một bộ phim truyền hình vậy. Những suy nghĩ đa đạng diễn ra trong Adriana khiến mình hiểu phần nào những gì phức tạp nhất trong tâm hồn mỗi con người. Có khi nó thật giản dị, thánh thiện, nó làm cho con người tốt hơn. Có khi nó lạnh lùng, băng giá nhưng khiến mình không còn cảm thấy sợ hãi nữa. Và còn cả những mặt tối tăm trong đó, khi bản năng chiến thắng mọi tình cảm và lý trí, con người bỗng trở nên thích thú với sự ngông cuồng, độc ác. Mình không biết rõ những điều ấy có thực sự diễn ra trong cuộc đời của tất cả mọi người hay không. Nhưng mình thấy nó có trong con người mình. Đôi khi mình có suy nghĩ giống như cách Adriana suy nghĩ. Có thể đang trong tột cùng của lo lắng, phiền muộn cũng có thể trở nên vui vẻ, lạc quan như không có chuyện gì xảy ra, thậm chí còn thấy thích thú với nó, mong những điều tồi tệ nhất sẽ đến, ngay lúc ấy. Hay ngược lại, nỗi sợ hãi bất chợt đến và không thể xua đi ngay được. Diễn biến tâm trạng phức tạp trong từng sự việc đã được diễn tả một cách tỉ mỉ, sâu sắc và rõ ràng như chính những suy nghĩ đang diễn ra trong đầu mình, chỉ có mình mình biết. Mình cũng thích những điều tác giả viết về tình yêu của Adriana. Tình yêu dường như quyết định tất cả mọi hành động của cô. Và thật sự, cô luôn luôn hành động dựa trên tình cảm. Cái này thì không giống mình lắm, nhưng mình đang nói về Adriana. Vì tình yêu, cô không chạy theo cám dỗ. Vì tình yêu, cô tự đẩy mình vào con đường lầm lạc. Vì tình yêu, cô thay đổi bản thân cho tốt hơn. Cô luôn giữ được tình thương và lòng vị tha của mình. Chi tiết đẹp nhất là chi tiết kể về lúc cô biết mình có con. Nó đã lột tả hết vẻ đẹp của tâm hồn cô. Cô có sự yêu thương và niềm hi vọng. Vì thế mà cô không bao giờ gục ngã. Câu chuyện kết thúc trong nỗi buồn về cái chết của Giacomo, nhưng vẫn còn lại tình yêu anh thổ lộ với Adriana sau bao cố gắng phủ nhận, giấu giếm nó. Và còn lại niềm tin vào tương lai tươi sáng của đứa con chưa chào đời.” Tình cảm, tâm trạng của Adriana đã chi phối tâm trạng, cảm xúc của tôi trong suốt khoảng thời gian tôi đọc cuốn sách. Đặc biệt là cảm xúc nhớ người yêu. Một nỗi nhớ da diết, không khi nào ngừng lại, và chỉ muốn gặp anh ngay lúc đó. Rồi sau khi đã đọc xong, tôi nghĩ về cuốn sách cả ngày, bất kể là lúc đó tôi làm gì, khi quét dọn nhà cửa, khi nấu ăn, khi tắm… Tôi nghĩ về nhân vật người mẹ của Adriana, nghĩ về Giacomo, và cả những nhân vật khác. Tôi nhận thấy những mâu thuẫn bên trong mỗi suy nghĩ, hành động của họ. Tôi nghĩ, à, hóa ra ai cũng thế, luôn tự mâu thuẫn với chính bản thân mình. Có thể chính bản thân họ không nhận ra, nhưng dường như tất cả đều nằm trong sự mâu thuẫn. Bản thân tôi vẫn thấy sự mâu thuẫn bên trong mình (tôi thì có thể nhận ra nó). Với tôi, điều đó đôi khi nặng nề, đôi khi dễ chấp nhận. Nếu như tôi có thể giống như những nhân vật trong “Cô gái thành Rome”, không nhận ra sự mâu thuẫn đó, có lẽ tâm hồn sẽ thấy thoải mái, nhẹ nhàng hơn. Song nghĩ kỹ, như vậy cũng thật đau khổ, như Giacomo chẳng hạn, đến cuối cùng vẫn không biết mình thật sự muốn làm gì, muốn trở thành con người như thế nào, vẫn không biết cái gì là quan trọng nhất với mình…  Ninh Lê *** Alberto Moravia tên thật là Alberto Pincherle sinh ngày 22-11-1907 tại Rome, trong một gia đình gốc xứ Morava, cha là kiến trúc sư. Năm lên chín tuổi ông mắc bệnh lao xương, phải bỏ học, nằm trong nhà thương chữa bệnh liền trong tám năm. Tuổi thơ trôi qua trên giường bệnh đã để lại nhiều dấu vết trong văn ông. Ông nói: "Thật là khó khăn cho tôi khi ra viện không được nhìn cuộc đời bằng con mắt người bệnh". Ông trau dồi kiến thức bằng tự học. "Tôi sinh ra như một nông dân, qua tật bệnh, tôi đã hấp thu được chủ nghĩa suy đồi, văn hóa châu u và trở thành trí thức". Năm 1929 ông nổi tiếng ngay ở cuốn tiểu thuyết đầu tay Những kẻ thờ ơ. Suốt nửa thế kỷ, ông sáng tác đều đặn. Cuốn mới nhất của ông là Người đàn ông nhìn, xuất bản khi ông vừa bước vào tuổi tám mươi. Trong Đại chiến thế giới II, A. Moravia cùng vợ là nữ văn sĩ Elsa Moran hoạt động bí mật trong lực lượng chống Mussolini. Ông đi thăm Liên Xô năm 1958 và viết cuốn Một tháng ở Liên Xô. Ông cũng từng thăm và viết về Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều nước châu Phi. Tên tuổi của Alberto Moravia gắn liền với nhiều vụ sôi động của văn học Ý. Mỗi tác phẩm của ông là một sự kích thích và khiêu khích đối với các giá trị đạo lý tư sản, một nền đạo lý phụ thuộc vào tiền tài và bất lực trước tình dục. Các nhân vật của Alberto Moravia thường thất bại trong tình yêu và trốn vào tình dục với tất cả cái chán chường, cái vô nghĩa của đời sống nhưng không sao thoát ra được. Năm 1952, giáo hội La Mã đã cấm đọc các sách của ông. Nhưng đến nay ông được coi là nhà văn có cái nhìn sâu sắc vào bậc nhất của nửa đầu thế kỷ văn học Ý. Ông nhìn xã hội Ý đầy những thành kiến đáng nguyền rủa. Ông nhìn thành phố Rome với những sa đọa đáng kinh ngạc. Và nhất là khi ông nhìn người đàn bà mà ông hằng ngưỡng mộ. Ông là người quan sát tâm lý phụ nữ rất tài ba. Nhân vật nữ của ông thường được thể hiện tinh tế và chân thật như vốn có trong cuộc đời. Ở mỗi dòng là một khám phá, một thám hiểm vào tâm linh u uẩn của người đàn bà. Trên tạp chí văn học Pháp (Magarine littéraire) số tháng 4-1986 khi một phóng viên hỏi: "Đến nay một người đàn bà có còn là mẫu quan sát tuyệt vời của ông nữa không. Ông đã trả lời: "Tôi không chối rằng tôi có một mối thích thú đặc biệt đối với người đàn bà vì dù sao đó cũng là một nửa của nhân loại". Trong tiểu thuyết chúng ta đang đọc đây nhân vật chính cũng là người đàn bà, một cô gái điếm, Adriana. Chỉ với một tiểu thuyết này, qua một nhân vật này cũng đủ thấy cái tài phát hiện và diễn đạt những biến động tinh tế trong tâm hồn con người, đặc biệt là người đàn bà, và giải thích có lý về những sự kiện không giải thích nổi của Alberto Moravia. Alberto Moravia viết cuốn Cô gái thành Rome ở tuổi bốn mươi. Cuốn truyện là lời kể mộc mạc của nhân vật chính về cuộc đời mình. Ngôn ngữ, suy nghĩ, lập luận của tác giả đều bị nhân vật quy định. Chỉ bằng từ vựng ít ỏi vả khả năng quan sát khiêm tốn của Adriana, Moravia vẫn đủ sức làm cho làm sáng rõ những biến động tâm lý, những thay đổi tính cách trong nhiều nhân vật. Bằng những hiện tượng dễ thấy, Moravia bộc lộ được bản chất sâu kín nhất của xã hôi ông đang sồng. Ông cắt nghĩa sự sa đọa của một tâm hồn trong sáng và lý giải sự sáng trong của những cuộc đời sa đọa một cách chân thực đến kinh ngạc. Chất liệu trong cuốn tiểu thuyết này đều không có chỗ nào là cường điệu hay cố ý. Mọi sự đều diễn ra tự nhiên, hợp lý và rất đời thường. Ấy thế mà một cô gái trong trắng, thùy mị như Adriana bị đẩy vào trụy lạc. Ngay chính nhân vật cũng bàng hoàng trước sự sa đọa khủng khiếp của đời mình khi mọi sự lại vẫn cứ như không có gì xảy ra: cô vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn xinh tươi, nắng vẫn chiếu trên vỉa hè. Có lúc cô phải kêu lên: "Mình là một con đĩ", để thấy cái tác động của những đổi thay đó đến lòng mình. Tài năng của Moravia là dựng lại được cái vẻ đời thường đó của tội ác. Ông cảnh tỉnh xã hội và cảnh tỉnh mỗi con người: trong đời thường cái ranh giới xấu tốt, thiện ác có khi chỉ là một sợi tóc, mong manh đến nỗi ngỡ như không có và chúng ta cũng như toàn xã hội đi qua nó lúc nào không biết. Mãi dâm là một vết đê nhục trong đời sống nhân loại. Khi con người bị đẩy xuống hàng công cụ sẽ xuất hiện một thế giới phi nhân tính, mọi quan hệ tình cảm đều bị biến dạng. Người ta kinh ngạc tự hỏi: vậy những cô gái trong nghề đó vui buồn ra sao? Vì sao họ trở thành như vậy? Gần như có một bức màn bí ẩn bao phủ cái "nghề nghiệp" kỳ quặc ấy. Chẳng thế mà anh sinh viên Giacomo trong buổi trò chuyện đầu tiên với Adriana đã bất đồ bẻ ngoéo một ngón tay cô, để xem cô có biết đau như người thường không? A. Moravia không làm điều tra xã hội học (như Vũ Trọng Phụng ở ta trong cuốn Làm Đĩ), ông chỉ nghiên cứu tâm lý. Ở một bối cảnh tha hóa nhân tính như thế, những gì còn lại ở tính người? Chất người tốt đẹp còn hiện diện ở những đâu? Đọc A. Moravia, nên đọc vào từng nhân vật. Bà mẹ Adriana là người đầu tiên đẩy Adriana vào trụy lạc, nhưng bà không tự biết hay nói đúng hơn là bà không nghĩ, không muốn nghĩ, không dám nghĩ tới các hậu quả của nó. Bà chỉ muốn thoát ra khỏi cảnh khốn cùng. Bà thương con gái, bà không muốn con bà phải lặp lại cuộc đời khốn khổ như bả. Muốn thế chỉ còn cách coi sắc đẹp trời phú của Adriana như một thứ tài sản, một cái vốn để sinh lợi. Từ thực tiễn đến thực dụng, bà mẹ đã ấp ủ cái ý định mà chính bà cũng không dám nhìn thẳng vào nó, sử dụng thân xác con gái như một món hàng. Nhưng bà là bà mẹ. Cái chất mẹ ấy đã âm ỉ cắn rứt lương tâm bà, có lúc làm bà kinh hãi. Ngòi bút giải phẫu của Moravia rất sâu sắc trong việc thể hiện tính cách phức tạp như vậy. gt là nguyên nhân trực tiếp đẩy Adriana vào sa ngã. Đây là nhân vật có tính cách đê mạt nhất trong cuốn truyện, nhưng đấy lại là người lý tưởng của cô gái Adriana khi cô còn trong trắng. Mỗi một hành động của gt, ngay cả khi được nhìn bằng ánh mắt tôn thờ của Adriana vẫn hàm chứa sự giả dối đến đê tiện. Khi mừng vui cũng như khi lo âu, nhân vật này luôn luôn bộc lộ bản chất "thằng" của hắn. Chính hắn mới là kẻ bán mình đúng nghĩa. Hắn biết thể hiện một cách tuyệt vời những tình cảm mà hắn không hề rung động. Tính cách ấy không chỉ tác hại trong tình yêu, hắn có thể trở thành chính khách lưu manh, nhà văn bồi bút... Cô bạn gái Gisella như một cái kích cuối cùng đẩy Adriana xuống vực, bắt đầu từ chuyến đi Viterbo. Gisella muốn biến Adriana thành giống mình để tước đi cái quyền phê phán của cô. Gisella hại bạn hồn nhiên như một trò đùa, nhưng đằng sau cái trò đùa ấy là đặc tính của kẻ ác: kẻ ác không muốn cho ai hạnh phúc hơn mình. Adriana thì lại quá ngây thơ, đa cảm và rất mực dịu dàng. Cô dễ rớt lệ chỉ vì một câu nói thô bạo. Cô chợt thấm thía nỗi cô đơn của thời con gái khi nghe tiếng nhạc từ công viên vọng tới căn nhà tồi tàn của hai mẹ con cô. Cô không biết đố kỵ, không biết hằn thù. Tâm hồn cô luôn tràn đầy tình cảm trìu mến, biết ơn và nhân hậu. Ngay sau này khi phải điêu đứng khổ sở vì những kẻ xấu, cô cũng không cảm thấy oán trách hay căm thù họ. Cô cay đắng nhận ra sự ngây thơ của mình chỉ gây xúc động cho một số ít người,còn với đa số, nó là trò cười và đẩy họ đến những hành vi đê tiện. Có thể nói với Adriana, phẩm chất tạo nên sự bất hạnh. Giá cô ích kỷ một chút, quyết liệt một chút, cuộc đời cô có thể sẽ khác đi. Bạn đọc Việt Nam hẳn có lúc đã phải bực mình về thái độ chịu đựng của Adriana, nhất là với câu chuyện ở Viterbo. Nhưng đây là một cô gái của thành Rome, của xã hội Ý. Moravia đã để sự ngây thơ đối diện với lừa lọc, dịu dàng đối diện với ác độc. Adriana thua cuộc vì xã hội ấy chưa cho phép đức hạnh chiến thắng. Thật xót xa khi thấy cái trong trắng nhất lại bị vùi trong bùn đen nhơ bẩn nhất. Giống như nàng Kiều ở ta, khi tỉnh rượu lúc tàn canh, Adriana tự hỏi thế này là thế nào? Cô không nhận ra mình nữa, vừa mới đây thôi cô còn ao ước một hạn phúc gia đình êm ấm bé nhỏ, thế mà giờ đây... Adriana thấy mình chơi vơi giữa một khoảng không rỗng tuyếch, không nơi nào bấu víu, không cách định hướng. hình như Adriana một thân một mình và Adriana giữa mọi người là hai người khác nhau. Nhưng đâu là Adriana thật, đâu là Adriana đang sống? Ở những trang độc thoại nội tâm của Adriana, ngòi bút tiểu thuyết của Moravia tinh tế tột độ trong một sự dịu dàng tàn nhẫn. Ông không né tránh thực tế tàn nhẫn với tất cả những dục vọng thấp hèn của nó. Nhưng lòng ông đầy trắc ẩn trước cái trong trắng bị nhuốm bùn và khao khát vô vọng được trắng trong trở lại. Nhiều nhà phê bình cho rằng A.Moravia có con mắt của kẻ rình mò, ông quan sát tinh tường những diễn biến trong lòng người và những quy luật chi phối những diễn biến đó. Rất khác với Victor Hugo, ông không hề chiều chuộng những ý muốn lãng mạn khi xây dựng các nhân vật. Chính trong chiều hướng tôn trọng hiện thực vốn có của đời sống, Adriana không thể là vô tội trong sự sa đọa của mình. Cô ham muốn khoái lạc trong tình yêu. Khi tình yêu mất rồi thì ham muốn đó vẫn còn. Cô cũng sợ túng thiếu vất vả. Những đoạn Moravia phân tích cảm giác của Adriana khi cô nhận tiền là những phát hiện kinh ngạc về tâm lý. Adriana rơi vào nghề làm điếm, nhưng cô lại là người biết yêu, say đắm và chung thủy, muốn được hy sinh cho người mình yêu. Những phẩm chất ấy là nghịch lý với nghề nghiệp của cô. Cái bi đát của đời cô cũng là ở đấy. Mối tình đơn phương của cô đối với anh sinh viên Giacomo thật là đẹp. Ngòi bút tế nhị của Moravia đã phân tích rất khéo đâu là tình yêu, đâu chỉ là sự kiếm sống. Việc nọ lồng vào việc kia nhưng rất khác biệt. Tâm trạng Adriana xáo động một cách tội nghiệp trong tình trạng xáo động và chua xót ấy. Moravia ít đưa ra những tính huống gay cấn về sự kiện, nhưng ông lại rất quan tâm tới nhưng đổi thay cảm xúc đột ngột của nhân vật. Ông diễn đạt, lý giải những biến động ấy bằng một sự thấu hiểu kỳ lạ. Sức hấp dẫn lớn nhất của cuốn truyện chính là ở sự khám phá đó. Nhân vật nào của Moravia cũng có một sức sống linh động, ám ảnh tâm trí người đọc. Astarita, Giacomo, Sonzogno, ba người đàn ông liên quan nhiều tới quãng đời giang hồ của Adriana là cả ba thế giới khác biệt. Ở Astarita, tình yêu chung sống với sự tàn nhẫn, cái nọ truyền say mê cho cái kia. Là một quan chức cảnh sát hắn có một thích thú kỳ lạ là hỏi Adriana chuyện làm tình tỉ mỉ như hỏi cung. Và ở sở cảnh sát mỗi khi phạm nhân phải thú tội, hắn lại có một khoái cảm thể xác như khi chiếm được một người đàn bà. Hắn thích lợi dụng chỗ yếu của phạm nhân để vô hiệu hóa họ suốt đời, và chỗ thất thế của người đàn bà để cưỡng đoạt họ. Thế nhưng hắn lại là kẻ si tình. Hắn yêu Adriana thành kính, cố nhiên thành kính kiểu cảnh sát. Hắn không có hạnh phúc, suốt đời hắn thiếu hạnh phúc không phải do hoàn cảnh bên ngoài, mà do chính bản thân tính cách của hắn. Chàng thanh niên Giacomo muốn thành một nhà cách mạng nhưng không có bản lĩnh cách mạng, sống như một kẻ đóng vai cao thượng. Adriana đã yêu cái vai hắn đóng nên không được yêu lại. Khi không đóng vai nữa, thì lại lao vào Adriana như thú vật. Con người này không thể sống được vì những mâu thuẫn gay gắt giữa cái ước mơ cao cả và cái thực tại thấp hèn trong bản thân hắn. Hắn là con người đáng thương hơn đáng ghét: khinh bỉ cái tầm thường nhưng lại không đủ sức để cao thượng, hắn đã chọn cái chết để đoạn tuyệt cái thấp hèn. Và đến lúc chết, gương mặt hắn mới có cái vẻ bình thản của kẻ tìm thấy mình. Sonzogno, tên sát nhân tàn bạo, sức lực vô biên nhưng lại thèm được yêu thương. Moravia rất chú ý đến phép biện chứng của tâm hồn, nhân vật nào của ông cũng phong phú trong tính cách và đầy bất ngờ trong hành vi, nhưng bao giờ cũng hợp lý.   *** Tiểu thuyết Cô gái thành Rome được thể hiện qua lời kể của một cô gái điếm, nó khó tránh khỏi những chi tiết có tính chất nghề nghiệp của cô, nhất là tác giả muốn từ đó để phân tích thấu đáo về tâm lý, kể cả tâm lý tình dục. Điều chúng ta quan tâm là lòng thương yêu độ lượng và những chiêm nghiệm việc đời sâu sắc của tác giả. A, Moravia đề nghị với chúng ta cách nhìn nhận, lý giải cái cao cả lẫn cái thấp hèn của con người. Ông đã ký thác vào Adriana những suy nghĩ của ông về xã hội tư bản. "Cuối cùng, sau khi suy nghĩ một hồi lâu, tôi đi đến kết luận: toàn bộ lỗi là do cặp đùi, bộ ngực, hông của tôi, sắc đẹp của tôi, tất cả những gì mẹ tôi đã tự hào, tất cả những gì không mang dấu vết của tội ác, những gì mà thiên nhiên đã sáng tạo ra... Vì vậy tôi nhận thấy không ai có lỗi cả, mà mọi chuyện đã xảy ra như đã phải xảy ra, tuy rất khủng khiếp và nếu có phải tìm người có lỗi thì tất cả đều có lỗi, mà vô tội thì ai cũng vô tội như nhau". Đọc A. Moravia là một cách tiếp xúc với nghệ thuật văn học Ý hiện đại. Ở A. Moravia, những cốt cách của tiểu thuyết cổ điển các thế kỷ trước vẫn được tôn trọng, đồng thời khám phá xã hội mà con người đã tiến một bước dài trong cách tái hiện chân thực, không tô vẽ, không cắt xén nhưng đầy lôi cuốn. 3-7-1987 VŨ QUẦN PHƯƠNG Mời các bạn đón đọc Cô Gái Thành Rome của tác giả Alberto Moravia.
Cái Đầm Ma - George Sand
George Sand, tên thật là Amantine Aurore Lucile Dupin, sinh ngày 1/7/1804, mất ngày 8/6/1876. Bà là tiểu thuyết gia nổi tiếng người Pháp. Trong hơn bảy mươi năm cuộc đời mình, nữ văn sĩ thiên tài đã sống một cuộc sống mãnh liệt, hết sức phóng túng nhưng cũng đầy sáng tạo. Bà là một ngoại lệ của văn học Pháp thế kỉ 19, một cá tính hấp dẫn khiến ngưới ta khó lòng cưỡng nổi. Cha của George Sand, Maurice Dupin là một người thuộc dòng dõi quý tộc, còn mẹ của bà, Sophie-Victoire Delaborde xuất thân từ tầng lớp bình dân. Cha mất sớm, George Sand sống với bà, rồi sau đó vào tu viện. Năm 1821, ở tuổi 17, bà kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant và có hai con là Maurice (1823–1889) và Solange (1828–1899). Năm 1835, cuộc hôn nhân này tan vỡ và George Sand có nhiều mối tình khác với không ít các nhân vật nổi tiếng, trong đó có Alfred de Musset, nhà thơ lớn của Pháp và Frédéric Chopin, nhạc sĩ thiên tài Ba Lan. Bà cũng là bạn thân của nhà văn Gustave Flaubert. Tác giả của Bà Bovary từng nhận xét: "Phải quen nàng như ta đã từng quen mới biết được hết thảy những gì là nữ tính trong trái tim con người vĩ đại này." George Sand mất tại Nohant ngày 8 tháng 6 năm 1876. Tưởng nhớ đến bà, Victor Hugo viết: Ta khóc thương một người phụ nữ mất đi, ta suy tôn một nữ thánh bất tử. *** Mặt đẫm mồ hôi, ngươi kiếm sống; Đời người khốn khổ, chẳng ra chi. Lao động, mỏi mòn, như thế mãi, Đến ngày thần chết gọi ngươi đi. Đoạn thơ bốn câu bằng tiếng Pháp cổ đó, đặt bên dưới một bức tranh của Holbein, thật là mộc mạc, mà lại buồn thấm thía. Bức tranh miêu tả một người thợ cày đang cày giữa một cánh đồng. Một vùng quê rộng lớn trải ra xa xa, người ta trông thấy ở đó những túp lều tồi tàn; mặt trời đang lặn sau đồi. Đây là vào cuối một ngày làm việc nặng nhọc. Người nông dân đã già, thấp béo, quần áo rách rưới. Cỗ ngựa bốn con, ông đang đẩy về phía trước, vừa gầy, vừa kiệt sức, lưỡi cày ngập sâu xuống một thứ đất gồ ghề, khó làm. Trong cảnh này chỉ có một sinh vật vui vẻ và nhanh nhẹn. Đó là một nhân vật quái dị, một bộ xương, được vũ trang bằng một cái roi, coi như làm thợ phụ cho ông lão thợ cày, đang chạy trong luống cày, bên cạnh mấy con ngựa đang khiếp sợ, và đuổi đánh chúng. Tôi vừa xem bức tranh ấy một lúc lâu và thấy buồn thấm thía, rồi tôi ra đồng đi dạo, lan man nghĩ đến đời sống nơi đồng ruộng và số phận người thợ cày. Chắc chắn là vất vả rồi, khi phải tiêu hao sức lực và ngày tháng của mình vào việc cày xới mảnh đất ác nghiệt ấy, mà phần thưởng duy nhất và lợi lộc duy nhất nhận được cuối một ngày làm việc nặng nhọc như thế, chỉ là một mẩu bánh mì loại đen nhất và tồi nhất. Những tài nguyên bao phủ mặt đất kia, những thóc lúa gặt về kia, những hoa quả kia, những con vật kiêu hãnh được nuôi béo trong đám cỏ cao kia, là tài sản của một vài người và là công cụ làm mệt mỏi và nô dịch số người đông nhất. Kẻ nhàn rỗi nói chung đâu có yêu những cánh đồng, đồng cỏ, cảnh sắc thiên nhiên, những con vật đẹp, mà tất cả những cái đó phải được đổi ra những đồng tiền vàng để người ấy tiêu dùng. ... Mời các bạn đón đọc Cái Đầm Ma của tác giả George Sand.
Bóng Ma Giữa Trưa - Alberto Moravia
Ricardo Molteni là một người chồng trẻ hạnh phúc. Anh yêu vợ và được vợ yêu một cách nồng nàn. Tình yêu của họ đơn giản, trong sáng, hồn nhiên như hơi thở của họ. Tuy nhiên, một chuỗi những ngộ nhận, như một phần của Định Mệnh, với những trò đùa tinh vi và tai ác của nó, đã dần đẩy họ ngày càng xa nhau. Ricardo càng tìm cách để chinh phục lại tình yêu của chính vợ mình càng như vấp phải bức tường của những ngờ vực, định kiến của một người vợ càng nồng nàn trong tình yêu lại càng sắt đá và bướng bỉnh trong lòng căm hờn. Những tâm trạng mà Ricardo trải qua, từ thảng thốt, ngờ vực, đến hoang mang, tuyệt vọng, đã đi đến tận cùng của giới hạn, của những thống khổ của một kiếp con người. Sự xuất hiện của kẻ thứ ba trong cuộc tình, Battista với những lợi thế về tiền bạc,, vật chất của hắn, chỉ là một nhân tố xúc tác để đẩy mau những diễn biến của màn kịch, cho trò chơi của Định Mệnh mau chóng đi đến hồi chung cuộc. Khi Ricardo phát hiện ra những sai lầm của mình thì mọi chuyện đã trở nên quá muộn, để từ đó càng tuyệt vọng trong mơ ước khắc khoải được yêu, được sống lại trong cái thế giới bình yên của hạnh phúc. Cái chết của Emilia chỉ như là một kết thúc buồn thảm nhưng tất yếu, có lẽ, đã hoá giải được tấn bi kịch muôn thưở của tình yêu và hơn nữa làm cho phép mầu tình yêu được nhóm lêng trong tim ta ngọn lửa ấm áp… Chủ đề của tác phẩm là những diễn biến tâm lý phức tạp của bốn nhân vật đầy cá tính đối đầu nhau trong bủa vây của tình yêu cũng như của công việc trong đời sống. Chuyển biến của những xúc cảm, hành vi của các nhân vật, tác động bởi một xã hội chuẩn mực vật chất, vai chính trở nên như một con rối trong tay người diễn trò. Giá trị của tác phẩm Alberto Moravia càng nâng cao hơn ở những phân tích tâm lý sâu sắc, đưa người đọc sống cùng với nhân vật, chia sẻ với nhân vật từng tâm trạng, từ hân hoan, vui sướng cho đến buồn thảm, tuyệt vọng, làm người đọc cảm thấy thấm thía cho thân phận nhỏ nhoi yếu ớt của con người trong oái oăm của trò trốn bắt của hạnh phúc, của bi kịch. Về mặt văn học, với Bóng ma Giữa trưa, A. Moravia đã tạo nên một kiệt tác cổ điển lãng mạn đúng nghĩa, vừa tinh tế, vừa mạnh mẽ, vừa đam mê, vừa cuồng nhiệt trong tình yêu và ảo ảnh cuộc đời. Alberto Moravia là một trong những nhà văn Ý có lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Ông sinh năm 1907 ở Rome. Thời niên thiếu ông hay ốm đau, bệnh tật nên học hành dang dở, và chuyển sang viết văn từ rất sớm. Ông xuất bản cuốn tỉêu thuyết đầu tay vào năm 1925, khi vừa mười tám tuổi. Văn tài của ông sớm bộc lộ, đưa ông trở thành đại diện ưu tú nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong trào lưu văn học Ý hiện đại. Những tác phẩm của ông tiêu biểu là "Những kẻ lãnh đạm", "Bệnh truyền nhiễm", "Aghostino", "Cô gái thành Rome", chứng tỏ tài năng lớn của A.Moravia trong hiểu biết thấu đáo về đời sống, phng tục, ngôn ngữ, tư duy, và nhất là tình yêu của người dân Ý nói chung và của người dân Rome nói riêng. Ông có một cai nhìn nhân hậu, đầy thông cảm với người nghèo, "con người nhỏ bé", luôn bị thua thiệt trong xã hội tư bản. Trong những năm đầu của chế độ phát xít, sách của ông bị cấm và bản thân nhà văn phải đi lánh nạn. Biệt tài dẫn nhập người đọc vào trong thế giới của các nhân vật khiến Moravia trở nên một trong những nhà văn có sức hấp dẫn đặc biệt. Người dịch mong muốn giới thiệu với độc giả một tác phẩm hay trong văn học hiện thực đương đaị, để bổ sung vào tủ sách Văn học nước ngoài, trong đó nền văn học Ý có một vị trí quan trọng nhất định. Mặt khác, chúng tôi cũng mong muốn chuỷên đến người đọc tấn thảm kịcyh của nhân vật chính mà không ít lần trong cuộc sống đời thường, chúng ta đã ngậm ngùi chứng kiến. Biết đâu có thể là một bài học cho những ai quá vô tư với hạnh phúc, để làm sao tránh khỏi phải gặp tình trạng đến khi hạnh phúc mất đi mới biết được giá trị đích thực của nó thì đã quá muộn màng. Trương Xuân Huy *** Chuyến trở về của tôi rất chậm chạp, từng lúc, tôi ngưng chèo và ngồi yên, hai tay nắm chặt đôi mái dầm, mắt nhìn sững xuống mặt biển xanh, sáng ngời. Rõ ràng tôi đã trải qua một ảo giác. Như lần cách đây hai hôm, khi Emilia nằm dài trần truồng phơi nắng và tôi đã tưởng tượng ra mình đã cúi xuống và hôn nàng, trong khi thật ra, tôi vẫn ở nguyên tại chỗ, thậm chí, không hề đến sát bên nàng. Lần này, ảo giác chính xác và rõ nét hơn, nhưng để chứng minh đó chỉ là một ảo giác không hơn không kém, tôi nghĩ có lẽ không cần chứng cứ nào khác hơn là cuộc trò chuyện mà tôi đã tưởng tượng trao đổi với bóng ma của Emilia – một cuộc trò chuyện trong đó, tôi đã cho Emilia nói những gì tôi ao ước nàng nói, và có những thái độ tôi ao ước nàng co. Mọi điều bắt đầu và chấm dứt ngay nơi tôi. Điều khác biệt duy nhất trong những trường hợp như thế này là tôi đã không tự giới hạn trong phạm vi chỉ tưởng tượng ra những gì tôi ao ước xảy ra, nhưng từ nguồn cảm xúc tràn ngập thôi t húc trong lòng, tôi đã tự đánh lừa mình bằng cách xem những điều mong ước ấy đã thật sự xảy ra. Điều lạ lùng là tôi không lấy làm ngạc nhiên chút nào vì đã có một ảo giác không những kỳ dị, mà có lẽ chưa từng có với bất kỳ ai. Như thế là ảo giác còn tiếp diễn, tôi không để ý đến tính hư vô của nó mà chỉ quan tâm đến những chi tiết, lần lượt tạo dựng lại từng chi tiết một, dừng lại một cách khoái trá ở những tình huống làm tôi sung sướng nhất. Emilia xinh đẹp biết bao khi ngồi ở đuôi thuyền, không thù nghịch, nhưng tình tứ biết bao, những lời nói của nàng ngọt ngào, và những cảm xúc của tôi mãnh liệt biết bao khi tôi ngỏ lời muốn làm tình với nàng và nàng khẽ gật đầu đồng ý. Giống một kẻ vừa trải qua một giấc mơ đầy khóai lạc và sống động, đến khi thức dậy còn vương vấn một cách thú vị với cảnh tượnmg và cảm xúc trong mơ, tôi thật tình còn sống trong ảo giác, tin vào nó, và vui sướng được sống lại với nó trong hồi ức, tôi không bận tâm lắm về vấn đề đó chỉ là ảo giác, vì tôi đã trải qua những cảm giác thật, như người ta cảm thấy được trước một sự việc có xảy ra thật. Vẫn lưu luyến với những chi tiết của ảo ảnh, tôi chợt nảy ra ý tưởng đối chiếu lại một lần nữa thời gian khi tôi rời Piccola Marina bằng thuyền với thời điểm tôi ra khỏi Hang Đỏ, và tôi sửng sốt nhận ra tôi đã ở lại lâu đến thế trên bãi ngầm trong hang ấy. Trừ đi chừng bốn mươi lăm phút là thời gian tôi đi từ Piccola Marina đến Hang Đỏ, thời gian tôi ở trong hang phải lâu hơn một giờ đồng hồ. Như đã nói ở trên, tôi đã cho thời gian ấy là thời gian tôi ngất đi, hoặc ít ra, thiếp đi. Bây giờ đây, xét lại ảo giác của tôi, xét vì nó kéo dài một cách đầy đủ và đáp ứng một cách thoả đáng những ước nguyện sâu xa nhất của tôi, tôi tự hỏi phải chăng tôi đã nằm mơ hết toàn bộ sự việc. Phải chăng tôi đã lên thuyền một mình từ ở bãi tắm với chẳng một con ma nào trên thuyền, và đã chui vào hang một mình, nằm dài ra bãi và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ - nếu đúng như thế - tôi đã nằm mơ thấy tôi bắt đầu lên thuyền cùng với Emilia ngồi gần ở cuối thuyền, tôi đã nói chuyện với nàng, nàng đã trả lời tôi, tôi đã ngỏ ý muốn làm tình với nàng và cả hai chúng tôi đã vào hang. Rồi thì tôi cũng đã mơ thấy tôi đã đưa tay để đỡ nàng nhảy ra khỏi thuyền, tôi đã tìm nàng mà không thấy, tôi đã hoảng sợ, tôi đã nghĩ rằng tôi đã đi chung thuyền với một bóng ma, tôi đã nằm phục xuống bãi cát và ngất đi. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Ma Giữa Trưa của tác giả Alberto Moravia.