Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bồ Công Anh Nở Muộn

Cậu ấy, đối với tôi, như một đoá hoa bồ công anh nở muộn! ... Độ tuổi thích hợp: 16-22. Đây là bộ truyện ONGOING, không có thời gian ra chap. Mọi người cân nhắc kỹ trước khi nhảy hố. Truyện viết riêng cho lứa tuổi thanh thiếu niên, truyện về tình yêu, đam mê và những hoài bão tuổi trẻ.   Thể loại: Thanh thiếu niên. Tác giả: Lan Rùa P/S: Lan Rua's story ~ Porcupine & Duck Family *** Có lẽ mỗi người trong số chúng ta đều có cho mình một thần tượng, là ca sĩ, là diễn viên, là nhà văn, hoặc cũng có thể họ không phải người nổi tiếng, chỉ đơn giản là người mà mình mến mộ. Đi qua tuổi thanh xuân ẩm ương nhiều xúc cảm, luôn có một người mang danh "crush" chiếm trọn lấy trái tim. Và xen lẫn với tình yêu còn nhiều ngây thơ vụng dại đầu đời, là người tri kỉ mà ta cùng nhau lớn lên, cùng chứng kiến nhau trưởng thành, cùng nhìn năm tháng vùn vụt qua đi mà đôi tay vẫn chẳng muốn xa rời. Nhưng nếu tất cả những điều thuộc về thanh xuân tươi đẹp ấy, cả thần tượng, người yêu lẫn tri kỉ đều ám chỉ một người thì sao?    Cùng lấy bối cảnh thanh xuân vườn trường, nhưng "Bồ Công Anh Nở Muộn" dường như đã tưới mát tâm hồn tôi bằng một màu sắc tươi mới. Cách kể chuyện độc đáo đan xen giữa cùng một ngôi kể nhưng ở hai thời điểm khác nhau, một còn thơ ngây, một đã trưởng thành, nhưng lại hài hòa một cách kì lạ. Quả thật là trong số ít truyện mà tôi từng đọc của Lan Rùa thì ấn tượng với bộ này nhất, cách hành văn của chị đã thực sự trưởng thành rất nhiều so với những bộ trước. Nút thắt được buộc từ những chap đầu cho đến chap gần cuối mới được giải đáp, điều đó cho thấy chị đã chuẩn bị rất kĩ càng cho những nút thắt này, đây là điều tôi cần học hỏi rất nhiều ở Nhím.   Những cuộc gặp gỡ tình cờ mà nên duyên.   Trên đại lộ Champs Élysées ngày mùa đông giá rét, một người đang cuộc trốn chạy gặp được kẻ nhảy múa nơi góc phố, họ không quen biết nhau từ trước, nhưng tình "đồng bào" được thể hiện ngay câu đầu tiên mà cậu bé Nguyên Anh nói: "Bạn này cũng là người Việt Nam mình nè ba." Có lẽ chính điều ấy khiến hai đứa trẻ gắn bó với nhau hơn nơi đất khách quê người. Họ chia nhau cái bánh, cùng chơi đùa. Và chính thời khắc nắm tay nhau chạy dọc đại lộ Champs Élysées xem pháo hoa, trái tim non nớt nguyên sơ của họ đã bắt đầu rung động. Những ngây thơ tuổi còn nhỏ khiến Kiều Anh rời xa nước Pháp khi chưa kịp để lại cho Nguyên Anh địa chỉ liên lạc. Tất cả những thứ mà Kiều Anh có được sau khi về nước cô đều thích, kể cả gia đình mới hay người chị gái mới cực kì xinh đẹp. Nhưng có lẽ, Kiều Anh chỉ không thích duy nhất mẹ kế của mình, mà bà cũng tỏ vẻ ghét cô bé ngay từ đầu. Hành trình làm thân với chị gái Mẫn Tiên của Kiều Anh đã chứng thực cô là người có lòng kiên định cao. Và cũng chính người chị này đã mang cơ hội được gặp lại Nguyên Anh gần hơn với Kiều Anh. Nhưng cô lại lần nữa làm mất cơ hội liên lạc với Nguyên Anh. Lần gặp nhau tiếp theo của họ đã là vào cấp ba, cuộc sống cấp ba vốn đã muôn màu, nay lại càng đặc sắc khi có cậu ở bên. Cái vờ như không quen thuở đầu của Nguyên Anh khiến bao lần Kiều Anh phải khốn đốn.   Tư vị ngọt ngào xen cả vào những lần giận dỗi.   Tôi không biết những bộ truyện khác của Nhím ra sao, ít nhất là trong số những bộ tôi từng đọc thì nữ chính luôn thuộc dạng ngô nghê, trong khi nam chính thì có vẻ giống với "cáo già" chuyên gia lừa nữ chính vào tròng. Và Bồ Công Anh Nở Muộn cũng không phải ngoại lệ.   Có lẽ nhân vật của truyện chính là minh chứng tốt nhất cho quan điểm, dù không hoàn hảo thì cũng chẳng thể ngăn cản bản thân vươn tới ước mơ. Mang trên mình sự khiếm khuyết ngay từ nhỏ, Kiều Anh đã biết chấp nhận và làm quen với việc không thể nghe. Mọi người dùng thính giác để nhận biết âm thanh, riêng cô lại dùng cả trái tim mình để cảm nhận. Có lẽ chính điều này khiến cô trở nên tinh ý và cảm quan cũng hơn hẳn người thường. Trong suốt những năm đi học, chẳng mấy ai nhận ra khiếm khuyết của Kiều Anh, bởi cô luôn cố gắng sống như một người bình thường. Cô có thể không đẹp và tài năng như Mẫn Tiên, cũng không có cơ thể hoàn hảo như bao người, nhưng cô vẫn có ước mơ và nỗ lực không ngừng nghỉ để chạm đến ước mơ ấy.   Nguyên Anh, là nhóm trưởng một nhóm nhạc đình đám, là người có bước nhảy điệu nghệ được so sánh như một Michael Jackson thu nhỏ, là thần tượng của biết bao cô gái. Nhưng tôi lại muốn hình dung cậu bằng một vai trò khác: một cậu học sinh cấp ba bình thường như bao người. Ở độ tuổi ấy, ở Nguyên Anh hình thành nét chững chạc do nhiều năm tự lập. Nhưng mỗi khi bên Kiều Anh, nét trẻ con trong cậu bỗng dưng bị bộc lộ hết ra ngoài. Những cuộc đối đáp lấp lửng thể hiện rằng cậu đang vô cùng bực bội, chỉ là đôi mắt lại luôn vô tình tìm kiếm Kiều Anh trong đám đông. Cậu vô tâm trước cách nhìn nhận của người khác, nhưng nếu Kiều Anh lên tiếng bảo vệ và một mực không gỡ bài đăng, cậu thậm chí có thể bất chấp cả việc bị đánh. Chính bởi tập hợp cả nét kiên cường, cứng đầu, chững chạc, trẻ con đan xen ở lứa tuổi đang hình thành tính cách khiến Nguyên Anh trở nên gần gũi hơn trong mắt độc giả.   Có lẽ ai đọc qua bộ truyện này cũng ấn tượng nhất với bà chị Mẫn Tiên bá đạo trên từng hạt gạo trong từng lời nói và hành động. Chị xinh đẹp, có tài năng, nhưng lại chẳng cần giữ hình tượng thục nữ trước người khác. Tính cách thoải mái, ngông nghênh và hay nóng giận của chị đôi ba lần khiến độc giả cười không nhặt được mồm trước mỗi lời phát ngôn. Chị có thể véo má vò đầu bắt nạt Kiều Anh, nhưng chỉ cần ai dám động đến một sợi tóc của cô thì chị sẵn sàng cãi lên bờ xuống ruộng, thậm chí đánh nhau với người ta. Tới nam chính Nguyên Anh cũng vài lần bị dính chưởng của Mẫn Tiên cơ mà. Mẫn Tiên rất hiếu thắng, tranh luận với giáo viên hay đánh nhau chị cũng từng thử qua để bảo vệ được luận điểm của mình.    Và tất nhiên kẻ mà không chỉ độc giả ghét cay ghét đắng mà còn trở thành đối tượng để Mẫn Tiên rủa xả không ai khác ngoài cô bạn Ánh Dương "thuỳ mị nết na dịu dàng", miệng tụng kinh bụng một bồ dao găm. Biết bao trò chọc ngoáy chơi bẩn của Ánh Dương đều bị Mẫn Tiên vạch trần không thương tiếc, chính bởi vậy mà Mẫn Tiên cũng gây nên biết bao scandal xoay quanh cuộc chiến không hồi kết của chị với Ánh Dương, đồng thời trở thành đối tượng bị liệt vào danh sách đen trong lòng fan của Ánh Dương.   Những nhân vật khác, như ba Kiều Anh luôn đưa ra những gợi ý và không bao giờ phản đối con gái yêu sớm; đến bạn Alex luôn mồm nói thích Kiều Anh nhưng đến sau cùng lại nhận ra tình cảm của mình là dành cho một cô gái khác; và còn những thần tượng cùng nhóm với Nguyên Anh mỗi người một vẻ, thương nhất là bạn Trường say Mẫn Tiên đứ đừ mà chị chẳng thèm để ý; ghét nhất là bạn Thái chuyên gia ném đá giấu tay hại Nguyên Anh nhiều lần hiểu lầm Kiều Anh. Không thích cả mẹ của Mẫn Tiên luôn độc mồm độc miệng mắng nhiếc Kiều Anh, sau cùng trước cái chết của chồng còn đổ hết mọi lỗi lên người của cô.   Đan xen với tình cảm ngọt ngào chông gai, là những tình tiết xúc động có thể lấy đi nước mắt của độc giả. Càng về sau mạch truyện càng trở nên nhanh hơn, những phiền phức chen chan vào mối quan hệ của hai người cũng ngày một nhiều, hết scandal này đến scandal khác. Và còn cảm xúc bàng hoàng của Nguyên Anh khi biết được Kiều Anh vốn bị khiếm thính, thì ra những lời tỏ tình trước kia của cậu không phải vì cô không thích cậu nên không đáp lại, mà bởi cô hoàn toàn không nghe thấy gì. Thì ra sự lạnh nhạt năm xưa của cậu đã tổn thương cô nhiều đến vậy. Và Kiều Anh, vốn tưởng công khai quan hệ với Nguyên Anh sẽ khiến hai người có thể bên nhau mà không lo trước sợ sau nữa. Thế nhưng chẳng ngờ áp lực dư luận lại lớn đến vậy, lớn đến mức có thể nhấn chìm cả một con người. Nhưng chỉ cần có Nguyên Anh ở bên, mọi sóng gió cô đều có thể vượt qua. Bộ phim đầu tiên do cô làm biên kịch đã được công chiếu, cô cũng đã mang trên mình đứa con của Nguyên Anh. Đó liệu có phải cái kết có hậu? Hay chỉ là khởi đầu của một chuỗi bi kịch khác?   Thật không may, Kiều Anh lại mắc phải căn bệnh hiếm về khiếm thính. Vì muốn giữ lại mạng sống cho cô mà Nguyên Anh quyết định bỏ đi đứa con của hai người khi nó còn chưa kịp hành hình. Không chấp nhận sự sắp đặt, Kiều Anh bỏ trốn và gặp lại chị gái Mẫn Tiên lúc này đã không còn vẻ điên loạn như đoạn thời gian sau ngày ba mất. Dưới sự giúp đỡ của Alex và Mẫn Tiên, Kiều Anh có niềm tin bản thân sẽ an toàn sinh ra đứa con này.   Cái kết hoàn mĩ kết thúc một chuỗi hành trình không quá dài của truyện, thông điệp được gửi gắm qua truyện cũng rất ý nghĩa. Cách viết chắc tay, tình tiết xây dựng hợp lí, đan xen với tiếng cười còn có nước mắt. Tất cả đã hòa quyện lại, làm nên một tác phẩm vô cùng ấn tượng.   Truy Quang Review *** Vào một ngày mưa phùn cuối đông, tiết trời se se lạnh, xe buýt tầm năm rưỡi sáng vắng vẻ và dễ chịu hơn những giờ cao điểm rất nhiều. Trên xe chỉ có tôi, bác tài và anh soát vé đang trầm mặc thưởng thức bản nhạc u sầu ướt át, lúc thấy tôi chìa vé tháng anh ta gật đầu nhẹ rồi lại tiếp tục ngâm nga. -"Tớ gọi tên cậu, tớ đã gọi cậu, không chỉ một lần, không chỉ một nơi. Vì sao cậu cứ nhất định không quay đầu lại?" Bài hát này do bạn tôi sáng tác, lời lẽ sến sẩm nhưng lại thành hit một thời, vượt ngoài sự mong đợi của tôi. Lúc mới phát hành, đêm đêm cày view cho thần tượng, đêm đêm tôi trằn trọc thao thức, cậu ta gọi ai? Là ai đã không quay đầu lại? Vì sao tôi không hề hay biết? Một loạt những nghi vấn cứ quẩn quanh trong tôi, giày vò tôi từ tuần này sang tuần khác. Cho đến khi xem được một clip phỏng vấn, thấy cậu ta đáp rằng giai điệu này viết thay quà cúng người bạn gái đã khuất núi, hôm nay tròn kỉ niệm ba tháng ngày giỗ của cô ấy, tự dưng tôi bật cười khanh khách. Đùa à? Tính đến ngày hôm đó thì chúng tôi cũng đã xa nhau ba tháng, nhưng vấn đề quan trọng là, cái thời khắc gặp mặt tạm biệt, tên chết dẫm ấy còn tâm sự với tôi hắn đang độc thân thì lấy đâu ra bạn gái, lại còn đã chết? Xin lưu ý đây không phải lần đầu tiên cậu ta chém gió trêu phóng viên, có lần khi được hỏi anh có cảm nghĩ gì khi mà album của mình bị đá văng khỏi top 5 bảng xếp hạng sau một năm bám dai như đỉa, bạn thân tôi đáp. -"Buồn kinh khủng em ạ, tối qua tính mua thuốc chuột tự tử rồi nhưng thế nào nhà lắm chuột quá, kêu lít nhít nhức đầu nên đành phải để cho tụi nó dùng trước." Chuyện sao hạng A tìm đến cái chết chỉ vì thứ hạng nhỏ nhoi ngay lập tức trở thành tiêu điểm nóng. Người thương cảm, kẻ chê trách, quả thật khi đọc bình luận, tôi chẳng biết nên khóc hay cười? Thấm thoát đã không gặp cậu ấy ba năm có thừa, chính xác là một ngàn không trăm chín tám ngày. Và tôi sẽ có cuộc phỏng vấn lúc tám giờ ở hãng phim của cậu ấy. Tôi xuống xe buýt tầm sáu giờ hai mươi, tôi luôn đi sớm hơn giờ hẹn ít nhất một tiếng, đối với người khác là thừa thãi, nhưng đối với tôi lại cần thiết. Tôi từ khi sinh ra đã chậm chạp, não nhỏ tưởng chừng chỉ chứa được một quả nho. Mà đời phàm những người không có tài năng nổi trội muốn đạt được thành công phải nỗ lực hơn kẻ khác mười phần, thậm chí một trăm phần, bởi vậy, ngoài tính thời gian trễ trong trường hợp kẹt xe và những sự cố bất ngờ thì tôi cần thời gian để ôn lại một lượt các câu hỏi đạo diễn có thể thắc mắc. Tôi muốn chuẩn bị kĩ càng để câu trả lời của mình trơn tru mạch lạc. Kịch bản phim của tôi đã qua vòng hai, có được ký hợp đồng hay không là ở lần gặp chốt điểm sắp tới. Tôi thật chẳng hiểu sao sáu tháng trước thần tượng nhà mình lại quyết định mua lại hãng phim này, tôi biết với những hãng phim lớn hơn thì trẻ tuổi như cậu ấy khó lòng thâu tóm toàn bộ, nhưng chí ít cũng có thể góp cổ phẩn, chứ cái hãng phim thua lỗ chồng chất chất chồng, tương lai e sẽ gặp nhiều khó khăn. Tôi càng không thể hiểu được một người ở vị trí cao như vậy, sao lại đích thân phỏng vấn một biên kịch chưa có tên tuổi? Tôi siết đôi bàn tay đang rịn mồ hôi của mình vào nhau thật chặt, cố hít một hơi thật sâu, lấy can đảm đối diện với hội đồng thẩm định. Cậu ấy ngồi chính giữa! Cậu ấy ở ngoài đời, đẹp hơn trên các phương tiện truyền thông rất nhiều. Ngược lại với trái tim đang run rẩy của tôi, cậu ấy thản nhiên hỏi. -"Bạn tên gì?" Tôi tưởng mình nhìn nhầm, nhưng không. Tôi đã quan sát khẩu hình miệng của cậu ấy rất kỹ, và cậu ấy thậm chí còn lặp lại hai lần. Không chút sửng sốt, ngạc nhiên hay bối rối, do thái độ làm việc quá chuyên nghiệp, hay do tôi đã thay đổi quá nhiều, khiến đối phương chẳng thể nhận ra? Tôi nhớ, lần đầu tiên cậu ấy hỏi tên tôi, cũng vào một ngày mùa đông giá rét. Khi ấy tôi bảy tuổi, đang cùng cha chạy trốn trên đất Pháp xa xôi. Mẹ tôi là doanh nhân, khoản nợ mẹ để lại cho cha con tôi trước khi sang thế giới bên kia, thực sự quá khủng khiếp. Ba tôi chỉ là một thầy giáo dạy văn. Mẹ mất, ba dắt tôi đến chân trời mới nương tựa sự giúp đỡ của họ hàng. Ngặt nỗi, hình như đi tới đâu, cũng có chủ nợ của mẹ tôi, cũng có người đòi mạng cha con tôi. -"Đêm khuya lắm rồi mà các bác chẳng chịu đi ngủ gì sất, cứ đuổi hoài ba à." Tôi mếu máo than thở, các bác to khoẻ ráo riết bám đằng sau, bất quá, ba nhét tôi vào đám đông ven đường, dặn tôi ở quanh đây chờ ba rồi một mình chạy đánh lạc hướng. Khi ấy, tôi cứ nấc nghẹn từng cơn, vừa sụt sịt chùi nước mắt vừa ngước lên nhìn những người da trắng tóc vàng xung quanh đang đắm chìm trong những điệu nhạc êm đềm. Tôi đoán vậy thôi, bởi tôi thấy ở góc đường có chú tóc đen ngồi đánh đàn, tiếng đàn kia chắc trầm bổng du dương lắm, bởi thi thoảng có người nán lại xem, họ vỗ tay rồi bỏ những đồng xu lẻ vào chiếc ống nhôm cũ kỹ. Bên cạnh chú là một cậu bé đang nhún nhảy theo phong cách của Michael Jackson. Cậu ta chỉ cao hơn tôi một cái đầu, nhưng từng bước chân thật điêu luyện, tôi ngưỡng mộ vô cùng. Màn biểu diễn kết thúc, tôi mon men đến gần bắt chuyện. -"Ê, dạy tớ nhảy được không?" -"Ơ ba ơi, bạn này cũng là người Việt mình nè ba." Cậu ấy thích thú khoe chú đánh đàn, đoạn quay sang hỏi tôi. -"Cậu thích học nhảy à?" -"Không thích lắm, nhưng tớ muốn được người ta cho tiền giống cậu." -"Cậu cần tiền làm gì?" -"Để trả nợ cho ba tớ." -"Nhưng giờ tớ bận đi xem pháo hoa rồi, mai tớ dạy cậu được không?" Tôi bẽn lẽn gật đầu, cậu ấy lấy trong ống nhôm vài đồng xu, đi một lát thì quay lại, cầm trên tay ba chiếc bánh crepe, một chiếc sầu riêng cho chú, một chiếc sô cô la của cậu ấy, và chiếc dâu tây cho tôi. -"Đi xem pháo hoa với tớ không?" Tôi lại tiếp tục gật đầu. Thì ra hôm đó là ngày cuối cùng của tháng mười hai, khoảnh khắc cậu ấy nắm tay dắt tôi chạy dọc trên đại lộ Champs-Élysées, chính là thời điểm giao thừa chào đón năm mới. Những chùm pháo hoa tíu tít bám đuôi nhau bay vút lên cao, sau đó nổ tung thành nhiều màu sắc và hình thù lạ lẫm, thứ ánh sáng mỹ miều lấp lánh trên bầu trời đêm khiến tôi mê mẩn. -"Sao cậu bóp tay tớ?" Bị làm phiền nên tôi quay sang cằn nhằn. Cậu bé bên cạnh tôi nhe răng giải thích. -"Đâu có, tớ chỉ siết nhẹ thôi mà, tại tớ gọi mãi cậu chả nghe gì cả." -"Ờ...tại pháo nổ to quá...với cả tớ bảo này, khi nói chuyện với tớ thì hãy nhìn thẳng vào mắt tớ!" -"Được rồi, con gái các cậu thật nhiễu sự." Tôi không giải thích gì thêm, bởi tôi thà là một đứa con gái nhiễu sự còn hơn là một đứa trẻ tật nguyền. Cậu ấy bảo rất thích âm thanh của pháo hoa, nghe vui tai lắm, cậu ấy còn phùng mang trợn má mô tả lại những tiếng động được cho là vô cùng thú vị, điệu bộ trông như chú ếch nhỏ vậy, tôi cười ngất. Tôi ước mình có thể nghe thứ âm thanh lộp bộp đó! -"Tớ tên Nguyên Anh, có nghĩa là vẻ đẹp tinh khôi. Mẹ tớ bảo thế, nhưng mẹ tớ đi tới một nơi rất xa rồi. Còn cậu, cậu tên gì?" Tôi đáp, tớ tên Kiều Anh. Tớ chả biết nghĩa là gì nữa, và mẹ tớ cũng tới chỗ của mẹ cậu rồi nên chắc tớ không hỏi được. Cậu ấy xoa đầu tôi tỏ vẻ cảm thông, còn đưa tôi cắn thử một miếng bánh crepe sô cô la. Nguyên rất lười, chỉ thích gọi Kiều. Mỗi lần tôi nhắc cậu ấy thường cằn nhằn, hai từ là quá dài, quá mất sức. Còn tôi thì tuỳ theo cảm hứng, lúc thích sẽ trịnh trọng kêu Nguyên Anh, khi nhọc thì học theo tính xấu của ai đó, có vẻ như Nguyên cũng không thấy phiền khi tên mình bị ăn bớt. Sau bao nhiêu năm, không biết vô tình hay cố ý, cậu ấy đã quên mất tên tôi. Tôi đành đáp rành mạch một lần nữa, cả họ lẫn tên, đầy trịnh trọng. -"Dạ, em tên Huỳnh Mai Kiều Anh." Tôi xưng em, vì còn có đạo diễn, hai tiểu thuyết gia đình đám và cả ba vị biên kịch gạo cội ngồi đó nữa. Nguyên lật qua lật lại tập hồ sơ của tôi, sau đó chất vấn. -"Bạn Kiều Anh, mong muốn của bạn nếu như được ký hợp đồng là nhận thù lao bằng hình thức chuyển khoản một lần. Tôi thắc mắc vì sao không phải là để sau khi chiếu rồi ăn chia theo doanh thu bộ phim?" Vì tớ cần tiền! Vì tớ có một khối u, bác sĩ nói cần phải cắt bỏ. Vì gấp lắm rồi, tớ không xoay được số tiền lớn như thế ở đâu cả. Lòng tôi trĩu nặng, thiết nghĩ những người giàu có ở đây chẳng thể thấu hiểu nỗi khổ sở của dân nghèo đâu, nên tôi chỉ kiếm đại cái cớ, lấp liếm cho qua. -"Tại em sợ phim flop thì nhà sản xuất quỵt tiền." Mấy người kia tủm tỉm cười, chị Loan, một trong hai tác giả viết tiểu thuyết còn khen tôi thật thà. Duy chỉ có cậu ấy, gương mặt cau có khó coi, nhàn nhạt kết luận. -"Nộp cho chúng tôi một kịch bản mà biết trước khi lên phim sẽ flop, chi bằng bạn về luôn cho rồi."   Mời các bạn đón đọc Bồ Công Anh Nở Muộn của tác giả Lan Rùa.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sự Tha Thứ Muộn Màng
Sự Tha Thứ Muộn Màng Maxence Van der Meersch Nguyên tác: L'Empreinte du dieu NXB: Albin Michel Dịch giả:  chưa rõ Nhà xuất bản: Lao Động - 1989 Đoạt giải Goncourt năm 1936 ​ Maxence Van der Meersch từng tốt nghiệp ngành Luật, nhưng lại có niềm đam mê đặc biệt với văn chương. Tác phẩm đầu tay - La Maison dans la dune (1932) - đã đặt nền móng cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1936, Maxence Van der Meersch gây tiếng vang lớn với tác phẩm L’Empreinte du dieu (Dấu ấn của Chúa), được trao giải Goncourt danh giá. Đến năm 1943, tài năng văn chương của ông tiếp tục được khẳng định với tiểu thuyết Corps et Âmes (Thể xác và Tâm hồn) - Giải thưởng Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Maxence Van Der Meersch (1907 – 1951) là nhà văn nổi tiếng của văn học Pháp thế kỷ XX. Tiểu thuyết "Thể xác và tâm hồn" của ông đã được giải thưởng lớn về tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp năm 1943. Trước đó năm 1936 ông đã được nhận giải Goncourt danh giá cho tác phẩm "Dấu ấn của Chúa" (L'Empreinte du Dieu). Mời các bạn đón đọc Sự Tha Thứ Muộn Màng của tác giả Maxence Van der Meersch.
Người Cân Linh Hồn
Anh cho rằng nếu có thể hợp nhất từng nguyên tử của hai linh hồn vốn đã gắn kết sâu xa thì sẽ xuất hiện một trạng thái ưu việt hơn. Dưới bề ngoài châm biếm, James là người đa cảm. Anh hết lòng tin tưởng vào tình bạn, và tình yêu. Lần thí nghiệm duy nhất còn lại mà anh đã nói sẽ phụ thuộc vào cơ may cho anh gặp được hai con người, ngay lúc họ lâm chung, mà trong cuộc đời họ vốn đã có sự gắn kết hoàn hảo: anh sẽ cố hợp nhất họ một lần nữa khi họ chết. --- Tôi tắt đèn và không nén được tiếng kêu thảng thốt. Một khối cầu ánh sáng đang rực lên trên bệ lò sưởi với ánh hào quang phi thường. Không thể so sánh nó với bất cứ thứ gì ngoài vầng trăng rằm trên bầu trời đêm hè trong vắt, ở Hy Lạp hay phương Đông. Đó là một viên ngọc sáng ngời và trong lòng sâu là những luồng chuyển động còn rạng rỡ hơn, một thứ kim cương lỏng bốc cháy quay cuồng như một tinh vân lấp lánh. Tôi đã viết khá nhiều sách, một số là sách tiểu sử, một số là tiểu thuyết. Lạ thay, ở Pháp tôi lại có tiếng là tiểu thuyết gia trong khi ở Anh và Mỹ thì sáng tác của tôi lại ít thành công, còn sách tiểu sử lại được đón nhận tốt. Ngoại lệ duy nhất là một truyện đã xuất bản từ năm 1931 – NGƯỜI CÂN LINH HỒN. Ý tưởng của câu chuyện này, hoàn toàn hư cấu, đã nảy sinh trong Đệ nhất Thế chiến. Nhiều bằng hữu và người thân của tôi đã thiệt mạng vì chiến tranh nên việc tôi hay nghĩ đến cái chết có lẽ là điều tự nhiên. Giai đoạn ấy tôi có đọc trên một nhật báo có hai dòng tin tức về một bác sĩ điên nào đó đã cân tử thi của những người vừa lìa đời, nhưng phải rất lâu (bảy hay tám năm sau) ý tưởng truyện này mới hình thành. Rồi một hôm, ở London, tôi gặp một bác sĩ người Anh đúng ngay mẫu nhân vật mà tôi cần đến, và nhờ động lực này mà truyện được viết xong trong vòng hai tuần. Nhiều độc giả cứ tin là chuyện có thật. Ngay cả bây giờ, sau hơn 30 năm, tôi thỉnh thoảng vẫn nhận được một bức thư hay điện tín từ một nước xa xôi, hỏi rằng: “NGƯỜI CÂN LINH HỒN có thật không?” Khi viết, tôi đã dốc lòng viết sao cho câu chuyện đáng tin và thậm chí còn nhờ một bác sĩ Pháp danh tiếng thời đó, Jean Perrin, nghĩ ra cho tôi một kiểu thiết bị khoa học, một yêu cầu mà ông ấy đã thực hiện vui vẻ và chu đáo. (trích tự thuật của André Maurois cho bản dịch tiếng Anh “The Weigher Of Souls” – Macmillan 1963) *** Với “Người cân linh hồn”, tác giả Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. Tác phẩm Người cân linh hồn (nguyên tác tiếng Pháp Le peseur d’âmes) của nhà văn Pháp André Maurois, vừa được tái bản tại Việt Nam qua bản chuyển ngữ của dịch giả Đăng Thư vào tháng 12/2018. Người cân linh hồn là một câu chuyện giả tưởng, bắt nguồn từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết của bác sĩ James tại bệnh viện Saint Barnaby. Những thí nghiệm về người chết của ông được tiến hành bí mật cùng với sự theo dõi của người kể chuyện. “Sự bất tử của linh hồn” là nỗi băn khoăn của con người qua nhiều thời đại. Các ngành khoa học tâm linh đều luôn nỗ lực hết mình để tìm kiếm và lý giải những bí ẩn. Tuy vậy, linh hồn của con người thực sự tồn tại hay không, chưa ai có thể trả lời. Hình dạng của linh hồn ra sao, không ai nhìn thấy được. Theo các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đó, “có tồn tại linh hồn, và linh hồn cân nặng 0,17 miligram”, và James cũng đã bắt đầu tiến hành cân tử thi sau khi cái chết xảy ra. Khi tiến hành cân tử thi, anh đã nhận thấy trọng lượng sụt giảm trong khoảng từ 0,75 tới 0,95 miligam. Dù tìm cách cân linh hồn, James rõ ràng không hề muốn biến linh hồn thành một thứ vật chất, “vì linh hồn kết nối với cơ thể để diễn đạt những ý nghĩa của nó, cho nên cũng có khả năng là sau khi từ bỏ cơ thể, linh hồn sẽ kết nối với nguồn năng lượng bí ẩn mà chúng ta đã nhận thấy qua hiện tượng lìa khỏi thân xác”. Sau những thí nghiệm kỳ lạ ấy, James đã thành công khi kết nối được linh hồn của hai người anh em để họ có thể ở bên cạnh nhau lâu hơn nữa sau khi chết. Chiếc lọ thủy tinh chứa đựng thứ ánh sáng lấp lánh phát ra từ việc hai linh hồn hòa quyện với nhau. Tại sao James lại khao khát muốn làm những thứ nghiệm để chứng minh sự tồn tại của linh hồn con người sau khi chết đến vậy? Những lớp lang ngữ nghĩa được gợi lên có thể khiến độc giả gật gù nhận ra Andre Maurois đây rồi. Dù được “hóa trang” bằng lớp vỏ giả tưởng, nhưng câu chuyện của Andre Maurois chỉ có mục đích đi sâu vào tâm tư của con người, cho con người cơ hội bộ bạch những bí ẩn của mình. James hiện ra không còn là một bác sĩ tài năng, say mê khoa học, ông còn là kẻ mị tình. James mang trong mình tình yêu si mê, tôn thờ với Hilda, cô gái Đan Mạch tuyệt đẹp. Nhưng rồi, cô ấy không còn sống trên đời bởi một tai nạn bi đát. James chưa bao giờ nguôi ngoai nỗi đau đớn ấy. Anh khao khát điều gì, giá anh có thể cứu sống linh hồn của người yêu, giá anh có thể giữ mãi linh hồn của người yêu ở bên cạnh mình. Nhưng vào giây phút ấy, anh chưa tìm được cách. James khi đã là người đàn ông lớn tuổi, đã gặp gỡ Philipps xanh xao và thơ ngây. Nàng có khuôn mặt giống với Hilda, nàng là diễn viên sân khấu tài năng, nhưng ở nàng toát lên vẻ ngắn ngủi tàn lụi. Là bác sĩ, James nhận rõ đoạn đời quá ngắn của nàng, và anh đã chọn ở bên cạnh nàng cả đời. Đám cưới và hạnh phúc quá ngắn ngủi. Giữa những đoạn ấy, James đã từ bỏ nghiên cứu, dành toàn thời gian cho người vợ yếu ớt của mình. Rồi bí ẩn lại tiếp tục được hé mở khi Philipps chết, và James đã uống thuốc độc để có thể chết cùng với nàng. Tại sao? Bí ẩn đến tận giây phút cuối cùng, mới được soi tỏ. Người kể chuyện đồng thời là người bạn tri kỷ, người đã chứng kiến những thí nghiệm kỳ quái của James đã được trao lại một tâm nguyện quan trọng. Andre Maurois đã thể hiện khả năng miêu tả nội tâm sâu thẳm của con người vô cùng xuất sắc bằng ngôn ngữ thấm đẫm chất thơ mộng u sầu. Đọc Người cân linh hồn, độc giả sẽ vừa ngạc nhiên bởi cốt truyện kỳ lạ, vừa say đắm bởi những ý tứ tinh tế và đẹp đẽ được gợi lên của tâm hồn. Với Người cân linh hồn, Andre Maurois đã dẫn dụ người đọc vào thế giới nội tâm kỳ lạ của con người. Thế giới không thể lý giải rõ ràng, chỉ có thể cảm nhận bằng tình yêu. *** Tôi đã do dự rất lâu trước khi đặt bút viết lại câu chuyện này. Tôi biết chuyện sẽ khiến những ai từng thân thiết với tôi sẽ kinh ngạc, và sẽ khiến không chỉ một người khó chịu mà thôi... Một số sẽ hoài nghi thiện ý của tôi, số khác sẽ ngờ vực lương tri người viết. Chính tôi đây cũng sẽ có ý nghĩ như vậy nếu như tôi đã không ngẫu nhiên thành nhân chứng tình cờ và phản kháng những gì mà tôi sắp thuật lại. Tôi ý thức rõ sự phi lý rành rành của chúng tới mức tôi không hề kể lại chuyện đó cho những người thân thiết nhất của mình. Và nếu bây giờ tôi quyết tâm phá bỏ sự im lặng này thì lý do là tôi thấy mình không có quyền phó mặc cho vật duy nhất còn lại làm bằng chứng cho giấc mộng kỳ lạ ấy bị hủy hoại sau khi chính tôi lìa đời. Trước khi độc giả bác bỏ những lý thuyết của bác sĩ James như là điều hoàn toàn bất khả, tôi xin quý vị đừng quên một điều là tôi vốn tin mình có tâm tính cực kỳ cẩn thận. Như mọi người tôi cũng có nhiều điểm say mê và yếu kém; tôi vẫn luôn cố bảo toàn óc suy xét của mình. Trong khoa học, trong siêu hình học, trong chính trị, và ngay cả trong đời sống tình cảm, tôi luôn coi trọng việc đừng bao giờ nhầm lẫn mong muốn riêng tư với chứng cứ. Không phải lúc nào tôi cũng làm được điều đó, nhưng có lẽ tính thận trọng thường trực ấy sẽ giúp ích cho tôi bất cứ lúc nào tôi cần đến lòng tin của mọi người. Còn một lý lẽ nữa cũng ủng hộ tôi: những sự việc tôi phải thuật lại đúng là bất ngờ, nhưng bản chất của chúng thì không phải là không thể kiểm chứng. Một vài cuộc thí nghiệm đơn giản mà bất kỳ nhà vật lý, nhà sinh vật hay bác sĩ nào cũng có thể dễ dàng làm lại, sẽ cho thấy rằng các lý thuyết của James - dẫu bị coi là phi lý - cũng đều căn cứ vào quan sát thực tế. Tại sao tôi không tự mình làm tiếp những thí nghiệm này? Tại sao phải đợi khi mình đã chết rồi mới công bố chúng? Với tôi điều này không dễ giải thích. Yếu tố chính là thói nhút nhát, tôi nghĩ thế, cùng với bản tính ghét vướng bận với những chuyện rắc rối nào đó. Hoàn cảnh đã khiến tôi thành nhà văn, chứ không phải nhà khoa học. Tôi không có điều kiện tiến hành công việc ấy trong một bệnh viện hay phòng thí nghiệm. Tôi ngại tiếp xúc những người mà với họ tôi chỉ là kẻ ngoại đạo, với hy vọng có thể khiến họ quan tâm đến một hiện tượng, như tôi biết, sẽ mâu thuẫn với các quan niệm của họ. Tôi ân hận vì mình đã nhu nhược, và tôi sẽ vui mừng nếu như việc công bố hồi ký này lại khơi gợi cho những trí tuệ táo bạo một khao khát tiếp bước người bạn bất hạnh của tôi trong việc thăm dò một thế giới mới, vốn hiểu biết thu thập được từ đó biết đâu lại dẫn đến nhiều kết quả có tầm quan trọng lớn lao. დღდ Tôi quen bác sĩ James trong thời chiến. Chúng tôi lần đầu gặp nhau trên một cánh đồng bùn sình xứ Flanders, và giữa một nhóm người Anh vui vẻ, mạnh khoẻ, hai gò má cao hốc hác cùng vẻ mặt đau khổ của anh lập tức tạo ấn tượng với tôi. Anh được biệt phái theo đơn vị quân y của sư đoàn mà tôi đang làm sĩ quan liên lạc cho quân Pháp. Chúng tôi lập tức thân nhau ngay, và bất kể nỗi kinh hoàng của thời gian và khung cảnh ấy, những tháng tôi sống ở Ypres Salient làm bạn cùng anh đã để lại trong tôi những kỷ niệm hầu như có thể nói là vui thú. Giữa hai chiếc giường cá nhân của chúng tôi là một thùng bánh quy dùng làm bàn và tủ sách. Buổi tối, khi tiếng đạn pháo rú trên cao bắn về hướng Poperinghe và tiếng vải lều bạt ướt đẫm quật phành phạch trong gió đã cướp mất giấc ngủ, chúng tôi lại thì thầm trò chuyện về những kẻ điên khùng và những nhà thơ. Tôi thích người bạn ấy. Dưới cái vẻ ngoài hoài nghi đó, tôi đã có lúc thoáng nhìn ra cái tâm hồn can trường và đa cảm bên trong. Anh kín đáo tới mức tôi cùng sống bên anh hàng ngày suốt nhiều tháng liền mà không hề biết anh đã có vợ con gì chưa. Chiến tranh kết thúc đã chia lìa tình bạn này, cũng như nhiều mối thân quen khác. Suốt một năm chúng tôi thư từ qua lại, và nhờ đó tôi biết James đang làm việc cho một bệnh viện ở London. Sau đó một trong hai chúng tôi (người nào thì bây giờ tôi không nhớ) đã không trả lời thư của người kia. James trở thành một hình ảnh vẫn giăng mắc trong ký ức tôi như một ảo ảnh, như một nhân vật trong tiểu thuyết. Và cuối cùng tôi thôi nghĩ đến anh, ngay cả trong mơ, cho đến mùa xuân năm 1925. Trong năm ấy tôi có dịp đi London một thời gian dài vì mấy công việc nghiên cứu ở Viện bảo tàng Anh. Tôi ở đó một mình, khá mệt mỏi và ức chế vì công việc liên miên quá nhiều. Một sáng nọ trời nắng rực rỡ tới mức tôi không có can đảm giam mình trong phòng đọc. Suốt một hai phút gì đó tôi đứng ngắm đàn bồ câu dưới hàng cột kiểu La Mã của viện bảo tàng, trông vừa thân thuộc vừa xa cách như hàng cột của Vương cung thánh đường Saint Mark. Tôi cứ đứng trầm ngâm. Thực tế đã buộc tôi phải hiểu ra là sự cô đơn này - dù khá lành mạnh trong một thời gian ngắn - giờ càng lúc càng không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng tôi đâu có thiếu bạn bè người Anh - tại sao tôi không thử tìm họ đi? Những buổi tối mà gặp gỡ một anh chàng thông minh như bác sĩ James chẳng phải không thú vị sao? Tôi đã quên mất địa chỉ anh ấy, nhưng dò tìm một bác sĩ thì chẳng khó chi; và khi quay lại phòng đọc, tôi tìm ra trong cuốn danh bạ y tế có tên một ông Tiến sĩ H. B. James, là bác sĩ nội trú ở bệnh viện Saint Barnaby. Tôi quyết định gác lại công việc của sáng hôm đó, và đi tìm bạn. Bệnh viện Saint Barnaby nằm ở phía nam sông Thames, trong một khu đông dân cư chạy dài đến bên kia cầu Blackfriars. Việc băng qua con sông gần đó luôn là điều khiến tôi thấy lạ lùng và hấp dẫn. Sông Thames ở đoạn này là biên cương của hai thế giới. Ta rời khỏi London kiến trúc thời Phục hưng và Gô-tích, London của những ô vuông bàn cờ, của những bờ đê có hàng cây dưới những đại khách sạn, của dòng xe buýt màu đỏ lũ lượt, để tới một thành phố của nhà máy và kho hàng, những bức tường trần trụi, và những cột ống khói thô lỗ. Và sự tương phản sáng hôm đó càng áp đảo mạnh mẽ hơn khi tôi đang băng qua cầu thì một đám mây lớn bỗng dưng che khuất mặt trời. Mời các bạn đón đọc Người Cân Linh Hồn của tác giả André Maurois.
Mưa Trong Thành Phố Lạ
Granin Daniil Alecxandrovich sinh ngày 1 tháng 1 năm 1919 tại thành phố Volưn trong gia đình của một người gác rừng. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, D. Granin vào học khoa cơ khí điện của trường ĐH Bách Khóa Leningrad. Tốt nghiệp năm 1940, ông trở thành kỹ sư năng lượng. Năm 1941, ông tình nguyện xin đi lính bảo vện Leningrad, chiến đấu ở cùng ven biển Bantich. Sau chiến tranh, ông hoàn thành luận án phó tiến sĩ ngành kỹ thuật điện tử. Tuy là nhà hoạt động khoa học , nhưng tài năng của ông lại hiểu biện rực rõ hơn ở lĩnh vực văn học. Năm 1954, ông cho ra đời tiểu thuyết đầu tay " Những người kiếm tìm" thu được thành công lớn. Tiếp đó là các tiểu thuyết: Sau ngày cưới( 1958), Đi tới giông bão ( 1962), Kỹ lạ thế đấy cuộc đời này ( 1974) và Klavdia Vilor - tác phẩm đem lại cho Granin giải thưởng Quốc gia Liên Xô năm 1978. Năm 1980 ông cho ra đời tiểu thuyết "Bức tranh", là một trong những tác phẩm được đánh gia cao nhất đầu những năm 80. Năm 1988, trên tạp chí Nheva xuất hiện hàng loạt truyện ngắn của Granin như: Thiên thực, Bên cửa sổ, Tiến thoái lưỡng nan, Tiểu thuyết về Pie Đại Đế. Những nhân vật trong tác phẩm của ông thường là các nhà khoa học luôn vượt qua mọi khó khăn để thực hiện những mục tiêu cao cả, có trách nhiệm với công việc và xã hội. Quan hệ con người trong sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật là chủ đề chính trong tác phẩm của nhà văn. NXb Kim Đồng  *** Chiều chiều, những người đi công tác xa đến hoặc những người vẫn tự nhận mình là khách ở đây thường hay tụ tập ở tầng dưới, nơi làm việc của cô trực phòng. Ở đó luôn có tiếng nước sôi ùng ục. tiếng domino đập lách cách trên mặt bàn dài, họ uống trà hết cốc này đến cốc khác và tán đủ thứ chuyện. Hò còn biết làm gì hơn trong những buổi chiều thu lạnh lẽo ở một thành phố nhỏ như Lưkovo này.   Kira đến khách sạn vào phiên trực của Gana Denixovna. Họ là bạn gái của nhau. Lúc đầu, Trizegov không nhận thấy có gì đặc biệt ở những người phụ nữ này. Nếu như có người nào nói với anh rằng cô ta chính là nguyên nhân của mọi nỗi đau đớn khổ sở của anh sau này thì chắc anh sẽ phá lên cười vì cô ta cũng không lấy gì làm đặc sắc cho lắm. Và cái chính là nếu như người ta có nói vậy đi nữa thì cũng chả sao, bởi vì Trizegov từ lâu đã bỏ mọi suy nghĩ về những chuyện tương tự. Bản chất chín chắn và nghiêm nghị của anh theo năm tháng đã trở nên chỉ thích nghi với công tác và mọi việc nội trợ. Và chính anh cũng đã quen với việc tất cả những phụ nữ nào có một chút quan hệ lãng mạn với anh trong các chuyến công tác ngắn ngủi đều coi anh như một người đã có gia đình và vì vậy họ chẳng hề có một ý định nghiêm chỉnh nào trong đầu. Cùng với sự có mặt của Kira, câu chuyện quanh bàn chẳng những thay đổi hẳn, mà còn thêm sắc thái mới, vì phần lớn những người ngồi ở đó bắt đầu xoay ra tán chuyện với cô. Cô thuộc loại người - trong bất cứ nhóm người nào cũng có những người như vậy - mà không hiểu vì sao luôn trở thành trung tâm của câu chuyện. Ai cũng vậy, khi nói bất kì điều gì cũng đều nhìn cô như chờ đợi một sự tán thưởng hay một lời nhận xét nào đó của cô. Sau này, khi nói với nhau về chuyện quan hệ giữa hai người bắt đầu từ khi nào, Kira thú nhận là trước lúc xảy ra câu chuyện với mấy người nước ngoài cô không để ý đến Trizegov. Mấy người khách nước ngoài đó là hai kĩ sư CHDC Đức, họ đến nhà máy gỗ liên hệ về việc mua gỗ. Người ta xếp họ vào ở chung trong một phòng ưu tiên độc nhất có điện thoại và máy thu thanh. Đây là lần đầu tiên khách sạn Lưkovo đón tiếp khách nước ngoài. Trước khi họ đến, ủy ban hành chính huyện đã cử người xuống kiểm tra, dặn dò và xếp đặt mọi việc, nhưng ai mà đoán trước được tất cả những gì có thể xảy ra: đến nửa đêm, người ta bỗng phát hiện ra là hai ông khách quý không một lời giải thích đã để người cửa phòng hai đôi giày của mình và đi ngủ. Đúng lúc Trizegov đi xuống phòng trực để uống trà thì một người am hiểu cuộc sống ở nước ngoài đi đến, anh ta cho biết người ta để giày ngoài cửa phòng là để khách sạn đánh chúi cho họ. Gân Denixovna khăng khăng không chịu làm việc đó, đấy không phải nghĩa vụ của cô, mà tại sao cô lại phải làm khi mà giầy của chồng cô, cô còn chẳng bao giờ đụng đến. Và hơn nữa, cô tra không có cả xi lẫn bàn chải đánh giầy. Người ta ngồi quanh bàn nói chuyện về việc này, người bàn nghiêm chỉnh, kẻ pha trò. Điều gì sẽ xảy ra nếu đến sáng hai vị khách quý kia tỉnh dậy mà thấy những đôi giày của mình vẫn bẩn nguyên, uy tín của khách sạn sẽ bị giảm đến đây và ở châu Âu người ta sẽ đánh giá như thế nào về Lưkovp. Đang nói đến đây, bỗng một người nêu ra ý kiến rằng qua đêm, những đôi giàu kia nếu còn đó cho đến tận sáng là cái tốt, nhưng cũng có thể chúng sẽ biến mất và lúc ấy thì ai là người dám đứng ra chịu trách nhiệm. Đùa là một chuyện, nhưng Gana thì thấy bực bội và lo lắng thực sự., dù đêm đã khuya giám độc khách sạn cũng được mời đến và ông lập tức gắt om lên. Chẳng lẽ lại phải cắt người đứng canh mấy đôi giấy chết tiệt này. Giám đốc khách sạn là thương binh cụt một tai đã tham gia chiến tranh vệ quốc, vì vậy khi nhìn ông, Trizegov bỗng phát cáu, anh đứng phắt dậy và nước đến gõ ầm ầm vào cửa phòng khách. Anh vào phòng và nói với họ tiếng Đức rằng ở đây không có chuyện để giầy ngoài cửa cho người khác lau chùi, người nào cũng phải tự đánh lấy giầy của mình, rằng ở ta không có kiểu phục vụ như vậy, rằng không đủ nhân công làm việc và v.v.... Vì đang bực tức nên anh nói một thôi một hồi làm hai ông khách đâm bối rối. Té ra họ là những chàng thanh niên rất xuề xòa, họ cứ xin lỗi mãi và chiếu hôm sau đã lân la xuống uống trà và chơi cờ với tất cả mọi người. Buổi chiều hôm đó Trizegov đã trở thành người hùng....   Bối rối vì vị chú ý quá nhiều, Trizegov bỏ ra ngoài thềm hút thuốc. Một lát sau Kira Andreievna cũng ra ngoài chuẩn bị về nhà, cô hỏi anh học tiếng Đức từ khi nào mà nói được như vậy. Thực ra chính anh cũng không biết là từ bao giờ, anh chưa qua một lớp học nào, chỉ nghe quen tai rồi nói theo khi phục vụ trong quân đội ở ngoại ô Berlin. Kira Ảngeievna tỏ vẻ ghen tỵ vời năng khiếu ngoại ngữ của anh vì theo cô đó là một việc vĩ đại. Như cô chẳng hạn, cô chẳng có chút năng khiếu ngoại ngữ gì, và cô đã truyền cho con gái mình dòng máu bất tài đó. Vừa đi vừa trò chuyện, họ không nhận ra là Trizegov đã tiễn cô về tận nhà. Anh tình nguyện đến giúp con gái cô học vì anh cũng yêu trẻ và bản thân đã có hai con trai. Thực tình có lần anh cũng đã ngồi luyện cho cô con gái mười sáu tuổi chỉ thích ăn diện của Kira, rồi anh hứa có dịp sẽ đến nữa, nhưng về sau bị công việc bề bộn ở nhà máy lôi cuốn và anh không sao thực hiện được lời hứa ấy. Chữa xong những bộ điều tốc, anh trở về Leningrad và cho đến tháng sáu mới có dịp được mời trở lại nhà máy ở Lưkovo. Chủ nhật đầu tiên anh mượn bộ lưỡi câu của trường phòng năng lượng Arixtarkhov và quyết định đi câu cá. Tuy chưa phải là thợ câu lành nghê, nhưng anh thích ngồi trên bờ thả câu và nghỉ ngơi, không phải suy nghĩ gì. Ngay cả lúc nghỉ ngơi, bản tính ưa hoạt động của anh cũng đòi hỏi phải có một việc làm nào đó rõ rệt. Lần này, vừa thả câu xuống nước đã thấy cá giật mạnh. Để khỏi đứt dây, Trizegov lội ào xuống sông, nước ngật đến trên đầu gối, vừa làu bàu chửi rửa, vừa chạy dọc theo bờ sông. Con cá kéo anh chạy như vậy khá lâu, anh phải len lỏi qua những mỏm đá, miệng thầm khấn cho gân cốt không bị làm sao. Anh chui qua cả gầm cầu nơi có lũ trẻ con đứng trên reo hò, rồi chạy qua cả bãi tắm. May cho anh, đến đó con sông nhỏ chia nhành và chú cá không lao vào chỗ nước xoáy mà ngoặt sang nhánh sông chảy vòng sau một đảo cát nhỏ. Lội bì bõm qua đám liễu dại làm cành cây gãy kêu răng rắc, Trizegov trèo lên triền cỏ và lọt vào một khoảng trống bị các bụi cây thấp bao kín xung quanh. Giữa bãi trống này có một phụ nữ không quần áo đang nằm sưởi nắng. Đó chính là Kira Adreieevna. Anh tưởng cô đang ngủ, nhưng đúng lúc đó cô ngẩng đầu lên, và anh hết sức sửng sốt khi thấy cô không hề tỏ ra hoảng sợ. Nói cho đúng hơn, lúc đầu cô cũng lúng túng định vớ lấy cái gì che thân, nhưng sau đó, dường như suy tính lại, cô uể oải lật nghiêng người, một tay chống cắm và ngẩng đầu nhìn anh. Rõ ràng là cô không nhận ra anh vì trong anh lúc này giống hệt một người câu cá, đầu tóc rối bù, người dính đầy rong xanh và bùn. Vẻ ngoài của anh trông thật hoang dã. Anh đứng sững lại trố mắt ra nhìn và kinh ngạc trước vẻ than nhiên không biết ngượng ngùng của cô. Thấy cô vẫn tiếp tục nằm, anh đỏ mặt và định quay đi. Mời các bạn đón đọc Mưa Trong Thành Phố Lạ của tác giả Daniil Granin.
Nghĩa Địa Praha
Sau Tên của đóa hồng và Con lắc Foucault, độc giả văn chương thế giới đã rất sốt ruột chờ đợi một đại tác phẩm nữa của Umberto Eco. Và rốt cuộc, Eco đã xuất bản Nghĩa địa Praha, một tác phẩm không phụ lòng trông đợi của bất kỳ ai say mê những cuốn tiểu thuyết hòa trộn lịch sử với văn chương theo một cách thức độc đáo vô cùng. Simone Simonini là người Ý sinh ra ở Turin, nhưng hoạt động rộng khắp châu Âu vào nửa sau thế kỷ 19. Simone can dự vào hầu hết vụ việc chính trị quan trọng một thời: Những cuộc hành quân của Garibaldi, vụ án Dreyfus, những cuộc thanh trừng thầy tu dòng Tên và thành viên Hội Tam Điểm… lúc nào Simone cũng ở trong bóng tối, là nhân vật mà cơ quan mật vụ tất cả các nước châu Âu đều thèm muốn. Nhưng “sứ mệnh” quan trọng nhất của Simone Simonini là đối đầu với người Do Thái. Suốt đời mình, Simone đã thực hiện công việc này một cách không mệt mỏi, có lúc còn sát cánh bên Edouard Drumont, lãnh tụ phong trào bài Do Thái của châu Âu. Với Nghĩa địa Praha, Umberto Eco đã đưa ra một cách lý giải độc đáo, thậm chí thiên tài, về tai họa bài trừ người Do Thái ở châu Âu, mà hậu quả tất yếu là nạn diệt chủng trong Thế chiến thứ hai. Nghĩa địa Praha là cuốn tiểu thuyết thứ 6 của nhà văn Umberto Eco ra mắt ngày 29 tháng Mười năm 2010 tại nhà xuất bản Bompiani (Ý). Ngay khi vừa xuất hiện, cuốn sách đã bán được 450.000 bản trong vòng chưa đầy hai tuần lễ. Tính tới thời điểm hiện tại, Nghĩa địa Praha đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau trên toàn thế giới. Nhận định “Umberto Eco đã đánh dấu Nghĩa địa Praha là tác phẩm “quỷ ám” nhất của mình, một bức chân dung xen lẫn giữa hận thù và tài diễn tấu của mình.” (L'Express) *** Tôi đến với “Nghĩa địa Praha” vì quá mê mẩn chất Umberto Eco qua “Tên của đóa hồng”. Thế nhưng vì vốn từ hạn hẹp không đủ để diễn đạt được cảm xúc của tôi với “Tên của đóa hồng” nên đành dùng thời gian để bày tỏ về một tác phẩm khiến tôi khá ngổn ngang. Tất nhiên đây hoàn toàn là cảm nhận cá nhân, tôi xin phép chia sẻ vài dòng coi như tâm sự hơn là đánh giá, nhận xét về một tác phẩm vĩ mô. Bối cảnh trong “Nghĩa địa Praha” rộng hơn “Tên của đóa hồng” rất nhiều. Điều đó là một lợi thế vì nó đẩy nhanh nhịp truyện hơn, tạo nhiều tình huống bất ngờ và cao trào được đưa lên mạnh nhất có thể. Một phần khác vì yếu tố nội dung là cuộc hành trình bài Do Thái của Simone Simonini nên cốt truyện cũng gấp khúc và hạn chế hẳn sự tám chuyện đặc trưng của các tác giả Ý. Thế nhưng chính điều đó, với tôi, cũng là điểm yếu chết người cho tác phẩm này. Tất nhiên là vì cảm xúc cá nhân thôi nhưng do bối cảnh rộng (nếu không phải quá rộng), Umberto khó lòng kiểm soát toàn bộ hệ thống nhân vật, sự kiện, chi tiết nên dẫn tới sự thiếu thống nhất, nhất là ở nhân vật Simone. Ban đầu anh chàng là một gã Ý, như bao gã Ý khác, lãng tử, tự do, cố chấp, điên rồ nhưng rồi có lẽ chuyến hành trình dài đằng đẵng cộng thêm thứ định kiến kiên định đến mức ám ảnh khiến cái chất đẹp đẽ đó, thứ dòng máu chảy trong anh chàng ta thui chột. Cuối cùng chàng ta là ai tôi cũng chẳng biết nữa, thật ngỡ ngàng làm sao! Đó không phải là sự tha hóa dần, một chuyển biến rõ ràng của tính cách, hành xử, quan niệm cũng không phải là cái hình tượng đa nhân cách (tự nói chuyện với chính mình) hay hoang tưởng đến tột cùng, nếu là thế tôi đã chấp nhận con người của anh ta. Ở đây, Umberto ở đây quẳng một Simone này, ở kia quẳng một Simone nọ, như những nhân vật khác nhau bị gán cho cùng một cái tên, và tôi cứ ngỡ đang xem một cuốn tiểu thuyết gộp lại từ các câu chuyện ngắn với các nhân vật chính khác nhau. Tính thống nhất, liên kết từ đó bị vỡ vụn, nhất là khi nó dày đặc những sự kiện lịch sử mà chỉ cần lơi là một tí là chẳng thể hiểu nổi vì sao Umberto đặt chúng cạnh nhau. So với “Tên của đóa hồng” thì đỡ lan man hơn, nhưng thiếu bí ẩn, gay cấy hơn nhưng loãng đi. Umberto chọn lấy nhân vật làm tâm, tất cả xoay vần bên người đó, và còn gì buồn hơn khi bản thân nhân vật ấy đã là tổng hợp những gì vỡ vụn. Điều tiếp theo là về văn phong, điều này tôi không biết là do người dịch hay do bản thân Umberto. Hồi trước tôi đã từng cãi nhau với một người vì người đó bảo, bỏ đi tình tiết, cốt truyện và lượng tri thức phong phú thì Umberto viết chẳng có gì hay, lan man, dài dòng và quá tỉ mỉ. Tôi thì cho rằng như bao kẻ không hiểu được dòng văn học Ý, người đó không thể hiểu cái việc các bác thích dàn trải một đống chi tiết, lan man tận trời cuối đất, đọc vừa chán vừa ứ liên quan nhưng một khi vào guồng, những thứ tưởng chừng không là gì lại liên kết chặt chẽ với nội dung, hòa hợp đến mức sững sờ. Umberto là một người thích viết câu dài và may thay ông ấy không tiết kiệm dấu phẩy, nhưng thay vì liên miên, mềm mại thì những câu dài của ông ấy lại tạo một ấn tượng ngược lại, nó rắn rỏi, mạnh mẽ và phóng khoáng, như gió trên thảo nguyên bạt ngàn vậy. Nhưng lần này, vẫn là những câu dài miên man nhưng nó cụt quá, kiểu cố ghép thành câu dài, ngắt quãng liên tục và “góp phần” không nhỏ khiến nội dung đã vỡ vụn thêm chấp vá. Đọc, thật sự rất nản và vì lí do không đọc được hàng gốc nên tôi cũng không rõ là do ông hay do dịch giả. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, “Nghĩa địa Praha” phá rõ cái định kiến Umberto Eco thì chỉ có thể viết về Trung cổ và nhấn mạnh thêm Umberto Eco là một tiểu thuyết gia sử học tài ba đến cỡ nào với lượng tri thức hùng vĩ và bạt ngàn, không gò bó mà thổi vào đó những cách nhìn mới và logic. Những sự kiện lịch sử Châu Âu được nối kết tuyệt vời, khó tìm được lỗ hỏng, cộng thêm nói về những bước tiến của nghiên cứu tâm lý và khởi đầu của phân tâm học. Một cuốn sách hay nếu bạn hứng thú với thời kì thế kỉ XIX của Châu Âu. Tôi hơi hối tiếc khi đọc “Nghĩa địa Praha” sau “Tên của đóa hồng”, nó là một sự hụt hẫng không hề nhẹ với một đứa lỡ lòng tương tư cái bức tranh tranh tối tranh sáng của thánh địa tri thức, tôn giáo và của một William với đầy rẫy mâu thuẫn. Một điều nhận xét đặc biệt là nhân vật của Umberto luôn kiên địch với tư tưởng đến mức nó trở thành một sự ám ảnh điên rồ, với William thì là thông tuệ đến mức lênh đênh giữa sáng tối còn với Simone thì là một bể sâu hoắm, nặng nề. ***   UMBERTO ECO Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 tại Alessandria, Ý, hiện sống ở Milan. Thiên hướng đã thôi thúc ông làm trái ý cha, từ bỏ khoa Luật, chuyển sang nghiên cứu triết học và văn học Trung cổ tại Đại học Turin. Trong thời gian này UMBERTO ECO trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin, trở thành người vô thần và từ bỏ Giáo hội Công giáo. Năm 1954, ông bảo vệ luận văn về Thomas xứ Aquino (Nhà thần học Công giáo nổi tiếng nhất thời Trung cổ), đạt học vị tiến sĩ triết học. UMBERTO ECO là nhà văn, nhà lý luận, triết gia, nhà ký hiệu học lừng danh - người từng là biên tập viên các chương trình văn hóa của Đài truyền hình quốc gia Ý (RAI), là người viết bình luận của tờ báo lớn nhất nước Ý L’Espresso, là giáo sư ký hiệu học của Đại học Bologne, dạy mỹ học và văn hóa học tại các trường đại học Milan, Florence, Turin, tiến sĩ danh dự của nhiều trường đại học nước ngoài. Tờ Los Angeles Times đánh giá ông là “một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất trong thời đại của chúng ta.” Những tiểu thuyết đã vinh danh cho tên tuổi của ông: Tên của đóa hồng (Il nome della rosa -1980); Con lắc của Foucault (Il pendolo di Foucault - 1988); Hòn đảo ngày xưa (L’isola del giorno prima - 1994); Baudolino (2000); Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana (La misteriosa fiamma della regina Loana - 2004); NGHĨA ĐỊA PRAHA (Il cimitero di Praga - 2010). *** Truyện: Người Kể chuyện bắt đầu theo dõi cuốn nhật ký của Simonini (Đây là phần “Một vài giải thích không cần thiết” cho từng chương ở cuối sách. Người làm eBook đã đưa vào làm thành chú thích, để các bạn tiện theo dõi câu chuyện). Người bộ hành trong buổi sáng âm u đó của tháng Ba năm 1897 hẳn sẽ phải mạo hiểm đi qua quảng trường Maubert, hay còn gọi là quảng trường Maub như cách nói của những kẻ đầu đường xó chợ (nơi đây từng là trung tâm của cuộc sống đại học thời Trung cổ, khi nó còn đón tiếp đám sinh viên đông đúc của Trường Nghệ thuật nằm tại Vicus Stramineus, chính là phố Fouarre ngày nay, và sau đó trở thành nơi hành quyết những vị tông đồ theo tư tưởng tự do như Étienne Dolet). Vị lữ khách sẽ tới một trong số ít các xó xỉnh Paris tránh được những nhát mổ xẻ của nam tước Haussmann*, nằm tại điểm giao thoa chằng chịt những phố xá hôi hám được chia thành hai khu bởi con sông Bièvre đổ ra từ trong lòng thành phố nơi nó vẫn bị kè bờ để rồi ném mình hổn hển, nóng rực sốt ký sinh trùng vào dòng Seine kề cận. Từ quảng trường Maubert, nay đã bị rạch chằng chịt bởi đại lộ Saint- Germain, còn tỏa ra một mạng nhện tạo bởi những con đường nho nhỏ như đường Maître-Albert, đường Saint-Séverin, đường Galande, đường Bûcherie, đường Saint-Julien-le-Pauvre, cho tới tận đường Huchette, các khách sạn bẩn thỉu do đám người vùng Auvergne cai quản nằm rải rác: những tay quản lý khách sạn nổi tiếng tham lam, đòi một franc cho đêm trọ đầu tiên và bốn mươi xu cho những ngày tiếp sau (cộng thêm hai mươi xu nếu muốn có ga trải giường). Georges-Eugène Haussmann (1809-1891) là tỉnh trưởng tỉnh Seine, người quy hoạch lại Paris vào những năm sáu mươi của thế kỷ 19. (các chú thích trong sách đều của người dịch) Nếu sau đó rẽ vào đường Sauton (thời ấy còn gọi là đường Amboise) hẳn anh ta sẽ thấy, nằm giữa một nhà thổ cải trang thành quán bia và một lữ quán nơi người ta lấy hai xu một bữa chính với chút rượu tồi tệ (từ thời ấy như thế cũng chẳng đắt đỏ gì, nhưng những sinh viên trường Sorbonne cũng chỉ cho phép mình chi tiêu đến thế thôi), là một ngõ cụt, thuở ấy được gọi Maubert, nhưng trước năm 1865 mang tên cul-de-sac d’Amboise. Tại ngõ cụt ấy, những năm trước đó nữa, có một tapis-franc (trong ngôn ngữ đường phố nó chỉ loại nhà trọ tồi tàn, loại hàng ăn hạ đẳng, thường được một cựu tù nhân trông coi và chỉ những kẻ tù khổ sai chân ướt chân ráo vừa bước ra khỏi vũng lầy tù tội mới hay lai vãng đến đây). Ngõ cụt này trở nên nổi tiếng theo một cách đáng buồn vào thế kỷ 18 khi tại đây mọc lên một phòng thí nghiệm của ba nữ pha chế độc dược lừng danh, một hôm họ được tìm thấy đã chết ngạt vì khí của các chất độc đang chưng cất trên mấy cái lò. Tận cùng ngõ hẻm này, hầu như rất khó nhận thấy một cửa hiệu có tấm biển đã bợt màu ghi Brocantage de Qualité (Tiệm đồ cổ chất lượng cao) của một tay chuyên mua bán đồ cũ. Phía ngoài cửa hiệu đã mờ đi vì lớp bụi dày phủ kín mấy tấm kính vốn đã chẳng cho ta thấy rõ hàng hóa bên trong cửa hiệu bởi chúng chỉ dài rộng hai mươi xăng ti mét mỗi cạnh, được gắn với nhau bằng một khung gỗ. Bên cạnh cửa kính, người ta có thể nhìn thấy một cánh cửa luôn đóng, và cạnh dây kéo chiếc chuông cửa là tấm biển báo chủ nhân đang đi vắng. Nếu cánh cửa này mở (điều rất hiếm khi xảy ra), thì ai vào sẽ có thể thấy được, trong ánh sáng rất lờ mờ, một đống lộn xộn những thứ mà mới nhìn qua thì có vẻ ngon nghẻ, nhưng xem kỹ hơn sẽ nhận ra toàn những đồ hoàn toàn không phù hợp với một cuộc trao đổi kinh doanh thành thực, ngay cả nếu như chúng được mời gọi với cái giá giẻ rách tương xứng, được bày biện trên một vài cái giá lung lay và vài chiếc bàn cũng chung chiêng không kém. Ví như vài thanh gác củi sẽ làm hổ thẹn bất cứ cái lò sưởi nào, một cái đồng hồ mạ xanh đã tróc sơn, những chiếc gối dựa ngày trước có lẽ đã được thêu màu sặc sỡ, những chiếc bình gốm cao cổ trang trí bởi những thiên thần bằng sứ nay đã bong tróc vài mảng, những chiếc bàn con lung lay không rõ được thiết kế theo trường phái nào, một chiếc giỏ đựng thư từ đủ loại bằng sắt han gỉ, những chiếc hộp chạm trổ hoa văn không rõ ràng, những chiếc quạt đáng ghê tởm làm bằng ốc xà cừ trang trí với những hình vẽ theo lối Trung Hoa, một chiếc vòng cổ màu hổ phách, hai chiếc giày nhỏ nhắn bằng len trắng, khóa giày gắn những viên đá giả kim tí xíu Ailen, một bức tượng bán thân Napoléon đã sứt mẻ, những con bươm bướm dưới tấm kính đã rạn, hoa quả bằng đá cẩm thạch nhiều màu dưới cái chuông hẳn một thời trong suốt, những quả dừa khô, album ảnh cũ kỹ chứa tranh vẽ hoa bằng chút màu nước khiêm tốn, vài tấm hình in tráng được đóng khung (thời ấy chúng không hề mang vẻ cổ xưa chút nào). Thế cho nên kẻ nào mà say mê cuồng dại một trong những thứ đồ đáng xấu hổ còn sót lại sau những vụ tịch biên tài sản để thế nợ của những gia đình bị lầm vào cảnh bất hạnh này, sẽ thấy mình đứng trước gã chủ tiệm đáng ngờ, sẽ hỏi giá cả và sẽ bị yêu cầu một con số khiến ngay cả kẻ máu mê nhất trong số những gã sưu tầm dị vật cũng phải chùn bước. Nếu như người khách, nhờ có tấm giấy thông hành nào đó, được bước qua cánh cửa thứ hai ngăn gian trong cửa hàng với các tầng trên của tòa nhà, và trèo lên bậc thang của một trong những cầu thang chung chiêng hình xoáy ốc đặc trưng của những ngôi nhà Paris có mặt tiền rộng ngang bằng cửa ra vào (nơi chúng đứng dựa xiêu vẹo vào nhau), anh ta sẽ tới một căn phòng rộng nơi không trưng bày những thứ đồ tầm phào như ở dưới tầng trệt mà là một bộ sưu tập những món đồ chủng loại hoàn toàn khác: một chiếc bàn nhỏ theo phong cách hoàng đế, ba chân trang trí hình đầu đại bàng, một chiếc bàn chân quỳ được đỡ bởi quái vật Sphinx có cánh, một chiếc từ thế kỷ 17, một chiếc tủ sách bằng gỗ dái ngựa đựng hàng trăm cuốn đóng bìa da dê, một chiếc bàn làm việc theo lối Hoa Kỳ, với nhiều ngăn kéo đóng mở theo ray trượt giống như một cái bàn viết thực thụ. Nếu tiếp tục bước qua căn phòng liền kề, anh ta sẽ thấy một chiếc giường treo màn trướng xa hoa, một chiếc giá kiểu điền viên đựng đồ sứ Sèvres, một ống điếu Thổ Nhĩ Kỳ, một chiếc cốc bằng thạch cao tuyết hoa, một chiếc bình pha lê, và trên bức tường cuối phòng là những tấm tranh to bản với những điển tích thần thoại, hai bức vẽ nữ thần Lịch sử và nữ thần Hài kịch, vài chiếc áo trùm Ả Rập treo trên tường và vài bộ quần áo phương Đông bằng sợi casơmia, một chiếc hũ cổ kiểu của dân hành hương; tiếp đó là một chiếc kệ chất đầy các vật dụng trong buồng tắm bằng chất liệu quý - tóm lại là một đống đồ vật kỳ cục, cầu kỳ và tốn kém, có lẽ không phải là nhân chứng cho khiếu thẩm mỹ đồng nhất và tinh tế, mà hẳn là lòng mong mỏi được khoe mẽ của cải. Quay trở lại phòng khách gần lối vào, người khách sẽ nhận ra một cụ già trong bộ đồ ở nhà ngồi bên chiếc bàn đối diện cánh cửa sổ duy nhất mà từ đó nguồn ánh sáng ít ỏi chiếu sáng ngõ cụt len lỏi vào đây. Cụ già đó, nếu người khách có thể nhìn thoáng qua vai, đang viết những điều mà chúng ta sắp sửa đọc đến, và đôi khi Người Kể chuyện cũng sẽ tóm tắt lại để không gây mệt mỏi cho Độc giả. Mời các bạn đón đọc Nghĩa Địa Praha của tác giả Umberto Eco.