Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cuộc Phiêu Lưu Của Samuel Pingle

Những thay đổi trong ebook: - Thêm hình minh họa như đã nói ở trên. - Chuyển hết tên phiên âm thành Latin, lý do: cách phiên âm quá sai khác với tên gốc. Ví dụ: Jim bị phiên âm thành Đgim, Jhon bị phiên âm thành Đờ-giôn, tuy nhiên vẫn là chuyện nhỏ so với tên công ty, địa danh nếu nhìn vào tên phiên âm không thể biết tên gốc là gì. Vì lý do này cover và 1 trang lót (bổ sung thêm) cũng được sửa. - Một số tên phiên âm được chuyển sang tên Việt hóa hoặc dịch thẳng ra tiếng Việt cho dễ hiểu, ví dụ: ap-tơ, tra từ gốc thì hóa ra là bệnh lở mồm long móng của động vật móng guốc, nếu để tên phiên âm latin sẽ gây khó hiểu. Áo Palto tôi sửa thành áo bành tô vì nếu để nguyên gốc tiếng Pháp cũng gây khó hiểu. - Sửa rất nhiều lỗi chính tả còn sót. *** Để thỏa mãn những lời yêu cầu khẩn khoản của người vợ thân yêu và của Jim, đứa con trai chúng tôi, một tiến sĩ sinh vật học trẻ tuổi, tôi sẽ trình bày lại trong cuốn sách này sao cho đầy đủ hơn những sự kiện ly kỳ xảy ra ở Ashworth khoảng ba mươi nhăm năm trước, cùng những cuộc phiêu lưu mà số phận đã đẩy tôi vào. Những sự việc ấy xảy ra vào lúc mà loài người vừa hồi tỉnh lại sau những nỗi kinh hoàng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và đã tưởng được yên hưởng một nền hòa bình lâu dài, chẳng hề nghi ngờ rằng lại sắp bị xô đẩy xuống vực thẳm của những tai họa chiến tranh khủng khiếp nhất. Có thể là đối với một số người thì phần nào những biến cố và những cuộc phiêu lưu của tôi có vẻ như hoàn toàn không đúng sự thật. Tuy nhiên tôi cho rằng sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật là vô tận, và hy vọng trong tương lai sắp tới tôi với các bạn cùng thời của tôi sẽ được thấy những phát minh sáng chế và những đều kỳ diệu hơn nhiều so với những việc tôi mô tả hoặc những điều con trai tôi mới viết trong chuyên khảo “sự giải đáp về bản chất của những virus qua lọc” (năm 1966). Những hồi ức về thời niên thiếu hiện nay vẫn làm cho lòng tôi xao xuyến khôn xiết, nhưng tôi sẽ cố viết lại những hồi ức đó bằng cái giọng bình tĩnh của những nhà văn cổ điển mà ngày xưa, khi còn bé, cha tôi đã dạy tôi đọc những tác phẩm của họ, những tác phẩm ấy đã giáo dục chúng ta biết yêu tha thiết tổ quốc tươi đẹp của chúng ta. Tôi sẽ thực sự vui mừng nếu các bạn tìm thấy ở cuốn sách của tôi những kiến thức hữu ích và có thể học hỏi được, bởi vì ánh sáng của kiến thức thì soi đường cho nhân loại còn việc quan sát tỉ mỉ những hành vi của mọi người xung quanh sẽ làm giàu cho kinh nghiệm cá nhân của mỗi người. Bởi vậy, trong khi tự cổ vũ mình bằng mềm hy vọng rằng tất cả những ai có dịp đọc cuốn sách này đều sẽ lượng thứ cho những mặt yếu và nhược điểm của tôi, tôi, Samuel Pingle, quê ở Ashworth, hôm nay, một buổi sớm đẹp trời ngày 17 tháng Năm, năm 1968, vừa lúc tôi tròn năm mươi tuổi, bắt đầu trình bày những sự kiện đúng với sự thật và còn có thể là chi tiết nữa. Tôi sinh vào lúc sôi sục nhất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở Ashworth một thành phố nhỏ bé và tiện nghi, nằm trên bờ Đại tây dương, trong gia đình ông Isidor Pingle, một thư lại trong văn phòng của lâu đài Oldmount thuộc quyền sở hữu của lord* Pucklington. Tôi là đứa con cuối cùng và duy nhất còn sống sót của cha mẹ tôi. Các anh, các chị sinh trước tôi đều đã chết khi còn ít tuổi. Tất nhiên là cha mẹ tôi hết sức yêu quý “thằng nhóc” của mình. Mẹ tôi yếu, và bệnh sưng phổi đã cướp mất bà khi tôi mới lên bảy. Cha cha tôi và tôi khóc lóc mãi không nguôi trước cái tang đau đớn này. Cha tôi đã sống những ngày góa bụa trong một ngôi nhà nhỏ ở gần bãi chợ cùng với bác Reggie, anh mẹ tôi, một ông già độc thân. Bác tôi, trung sĩ Reginald Brand về hưu, bị lựu đạn làm cụt cánh tay trái ở Gallipoli năm 1917 lúc nào cũng tự hào mang tấm huân chương “Vì dũng cảm” trên ngực và đã kể cho tôi nghe rất nhiều câu chuyện kỳ lạ. Có lẽ chính những câu chuyện ấy đã làm nảy ra trong óc tôi ý muốn tha thiết được tới những nước nhiệt đới để thấy tận mắt những điều kỳ diệu. Lúc còn bé tôi hoàn toàn không ngờ rằng thực tế còn kỳ lạ hơn nhiều so với những cuộc phiêu lưu mà bác tôi thường hay thuật lại vào những đêm đông dài, khi ông ngồi hút thuốc trước ngọn lửa ấm cúng của bếp lò. Tôi nhớ rằng bác tôi đã từng kể về một con tàu, con tàu ấy lớn đến nỗi khi nó đi ngang qua eo biển Dover thì mũi tàu chạm vào đỉnh tháp Calais trên bờ biển Pháp, còn lá cờ đang tung bay phía lái đã hất cả một đàn cừu đang đứng trên những tảng đá Dover xuống biển. Những cột buồm của con tàu này cao tới mức một thủy thủ thiếu niên leo lên đến đỉnh, lúc tụt xuống tới boong tàu thì cậu ta đã trở thành một ông già râu dài tới rốn. Bác tôi còn kể là có lần ông đi sang Tân Ấn-độ trên một tàu thủy nhỏ, con tàu của ông đã phải len lỏi giữa những hòn đảo trên một eo biển hẹp đến nỗi ông có thể với tay sờ tới được những tảng đá trên bờ, với cơ man là vàng bạc, châu báu. Ông còn kể về eo biển Ballambang Jang, khiến sau đó tôi cứ lần mò tìm mãi trên các bản đồ địa lý nhưng vẫn không thấy đâu. Trên những cây mọc hai bên bờ eo biển này có rất nhiều khỉ nhiều đến nỗi, người ta không thể nào điều khiển được những cánh buồm nữa; đuôi của chúng thõng xuống thành từng chùm và rối cả vào với những dây căng buồm. Nghe những câu chuyện ấy, tôi đã thề với mình rằng thế nào cũng phải trở thành một nhà du lịch. Dần dần về sau tính hài hước hồn hậu ở bác tôi bắt đầu đượm vẻ u sầu bí ẩn. Hồi ấy ở Ashworth người ta coi bác tôi là một ông già bẳn tính và hay lý sự đến phát ngấy lên. Được tiền trợ cấp chiến tranh, bác tôi đã dùng phần lớn thì giờ của mình ở hiệu ăn “Hổ Vương”, ở đây ông giao du thoải mái với cái xã hội của những khách hàng quen. Ông chủ hiệu ăn “Hổ Vương”, ông Tom Bridge mắt lác, nổi tiếng là một quán quân cờ bạc kiệt xuất ở vùng Ashworth. Ông ta còn nổi tiếng về nhiều điều khác nữa, sắp tới đây tôi sẽ nói đến. Bác tôi thường ngồi ở hiệu ăn “Hổ Vương” từ sáng sớm, ông rít cái tẩu thuốc Brazil lớn nhồi đầy thứ thuốc “Sư tử phương tây”, loại thuốc bốn xu một gói, và chậm rãi uống từng ngụm rượu ale dựng trong cốc vại bằng thiếc với cái vẻ của một người đã làm việc khá nhiều trong cuộc đời của mình và giờ đây có quyền tiêu xài tiền trợ cấp nhỏ mọn một cách vô tư lự. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Của Samuel Pingle của tác giả Sergey Belyaev  & Nguyễn Đức Vinh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Tình Bỏ Đi - F. Scott Fitzgerald
Đây là cuốn tiểu thuyết Scott Fitzgerald khởi viết ngay sau Gatsby vĩ đại (The Great Gatsby – 1925) nhưng mất đến 9 năm (1934). Tên sách Tender Is the Night được dịch thành Cuộc tình bỏ đi (bản dịch của Mặc Đỗ, NXB Hội Nhà Văn in lại 2003), trong khi một số bài báo hoặc website tạm dịch thành Đêm dịu dàng (hoặc Dịu dàng là đêm). Có lẽ, NXB / dịch giả phần nào lấy ý từ khái niệm “thế hệ bỏ đi” mà chính nhà văn là chứng nhân của “thời đại nhạc jazz” và cũng là người mô tả rất hay qua Gatsby vĩ đại. Xin mở ngoặc: dịch giả Mặc Đỗ cũng là người đã dịch cuốn The Great Gatsby vào thập niên 1950 với tựa đề Con người hào hoa. Mặc dù tên tuổi Fitzgerald được xem như một trong những nhà văn Hoa Kỳ xuất sắc nhất, nhưng dường như cuốn sách này không gây được tiếng vang tại Việt Nam, thậm chí ít người biết đến. Tender Is the Night là một tiểu thuyết hay nhưng không quá hấp dẫn (ít nhất là qua bản tiếng Việt). Thật ra, những trăn trở, hoang mang của những cuốn sách trước được tác giả nhìn lại và đưa ra những hướng đi mới hơn. Câu chuyện là cuộc sống của Dick Diver, một bác sỹ tâm thần trẻ tuổi và vợ là Nicole, cũng từng là một bệnh nhân của chồng mình. Họ sống trong một biệt thư xa hoa ở miền Nam nước Pháp. Những diễn biến kịch tính sau đó đã cho thấy sự bế tắc trong tâm hồn của mỗi nhân vật. Cuộc tình của Dick với Rosemary, của Nicole với Tommy không chỉ là chuyện tình cảm, mà chứa đựng nhiều bi kịch của con người và xã hội. (Lưu ý vợ của nhà văn cũng bị bệnh tâm thần). Bản dịch tiếng Việt viết theo giọng điệu và phương ngữ miền Nam kiểu cũ (chẳng hạn “bịnh nhân”), nên có thể bạn đọc ngày nay không quen tai lắm. Cá nhân tôi thấy phần cuối sách phần dịch không được trơn tru lắm, giống như dịch vội vàng hoặc do người khác thực hiện. In một cuốn sách từng được bình chọn trong danh sach 100 cuốn tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ, nhưng NXB chẳng có lấy một dòng giới thiệu (thật ra họ tự ý lấy bản dịch cũ và xuất bản lại), kể cả xuất xứ của tên sách (trích từ bài thơ Ode to a Nightingale của John Keats). Thật hết sức đáng tiếc! Như vậy, “Cuộc tình bỏ đi” không chỉ là câu chuyện tình, không phải là cuốn sách dễ đọc dễ hiểu. Mỗi độc giả, với kinh nghiệm sống và vốn đọc khác nhau, sẽ có những rút tỉa và niềm vui thú khác nhau khi đọc tác phẩm này. *** Francis Scott Key Fitzgerald là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "thời đại nhạc Jazz". Sinh ra trong một gia đình theo đạo Cơ đốc Ireland. Năm 1913 Fitzgerald vào Đại học Princeton nhưng sắp tốt nghiệp thì bỏ học vào lính. Thời gian phục vụ trong quân đội Fitzgerald bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên This Side of Paradise (Phía bên kia địa đàng, 1920). Sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết này Fitzgerald cưới vợ và bắt đầu nổi tiếng. Cũng trong thời gian này ông in tập truyện ngắn đầu tay Flappers and Philosophers (Những cô nàng và những triết gia, 1920). Tiểu thuyết thứ hai The Beautiful and Damned (Đẹp và đáng nguyền rủa, 1922) kể về cuộc hôn nhân khổ sở của hai con người tài năng và quyến rũ. Năm 1923 ông viết và dựng vở kịch Vegatable (Rau cỏ, 1923) bị thua lỗ nhưng sau đó viết tiểu thuyết The Great Gatsby (Gatsby vĩ đại, 1925) được giới phê bình đánh giá là kiệt tác, là một trong những tiểu thuyết hay nhất nước Mỹ.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Bỏ Đi của tác giả F. Scott Fitzgerald.
Con Sẻ Vàng - Donna Tartt
Tác phẩm của Donna Tartt mang đến suy nghiệm về những đau đớn, mất mát làm nên số phận một con người. Con sẻ vàng của Donna Tartt mang đến cho độc giả một "bom tấn" của văn học đương đại. Tác phẩm của tiểu thuyết gia Mỹ vừa được dịch sang tiếng Việt. Hơn chín trăm trang sách dày đặc những trải nghiệm và đợt sóng cảm xúc, đưa độc giả vào hành trình đầy sóng gió của Theodor Decker (hay còn gọi là Theo), từ khi ở tuổi thiếu niên đến khi trưởng thành. Cuộc đời của Theo gắn liền với bức họa Con sẻ vàng, như lời tâm sự của cậu: "Nhìn bức tranh tôi lại trải qua cảm giác vạn vật đang tụ về một điểm: một giây phút nắng chói thoáng qua, tồn tại chớp mắt và vĩnh viễn. Chỉ thi thoảng lắm tôi mới nhận ra sợi xích buộc chân chú chim, hay nhận ra cuộc đời thật tàn nhẫn đối với một sinh linh bé bỏng như thế...". Con sẻ vàng được chuyển ngữ từ tiểu thuyết The Goldfinch (2013) của nhà văn Mỹ Donna Tartt (1963). Amazon chọn tác phẩm là Cuốn sách hay nhất năm 2013. Tiểu thuyết thứ ba này được Donna Tartt viết trong 11 năm, đoạt giải Pulitzer năm 2014. Warner Bros và Amazon Studios đang chuyển thể sách thành phim, do John Crowley đạo diễn. *** "Con sẻ vàng" là cuốn tiểu thuyết với lối kể chuyện đầy sinh lực, gây sửng sốt. Những nhân vật sống động gây ấn tượng mạnh, giọng văn mê hoặc, xen với những khúc chờ nín thở, lại có khi trùng xuống với cái bình thản triết gia với những bí ẩn sâu lắng nhất của tình yêu, con người, nghệ thuật. Tiểu thuyết này được giới phê bình và độc giả đánh giá cao, được Amazon bình chọn là Cuốn sách của năm 2013, lọt vào danh sách Best-seller của tờ The New York Times suốt 39 tuần. Ngoài ra, tiểu thuyết "Con sẻ vàng" sẽ được đưa lên màn bạc sau khi Warner Bros Studio đã giành được quyền làm phim. Và Brett Ratner (đạo diễn phim Giờ cao điểm) sẽ đảm nhiệm vai trò đồng sản xuất phim cùng với Brad Simpson và Nina Jacobson, nhà sản xuất từng đoạt giải BAFTA với phim The Hunger Games.  *** Donna Tartt là một nhà văn người Mỹ, tác giả của tiểu thuyết Lịch sử bí mật, Người bạn nhỏ và The Goldfinch. Tartt đã giành giải thưởng văn học WH Smith cho Người bạn nhỏ năm 2003 và Giải thưởng Pulitzer dành cho tiểu thuyết Goldfinch năm 2014.   Mời các bạn đón đọc Con Sẻ Vàng của tác giả Donna Tartt.
Biển - John Banville
Ngay từ khi ra đời, cuốn sách đã gây nhiều dư luận trái chiều, nhưng vượt lên những lời phủ định thành kiến, The Sea (Biển) của John Banville đã giành giải thưởng Man Booker 2005 và được hàng triệu người trên thế giới biết đến như một áng văn chương tuyệt đẹp làm lay động lòng người bởi tinh thần bi tráng và nỗi hồ nghi sắc bén. Câu chuyện không bắt đầu bằng sự kiện mà khởi đầu bằng tâm trạng, nỗi mất mát, sự từ bỏ và hoang mang xáo trộn. Max Morden, một trí thức trung niên, nhà nghiên cứu nghệ thuật, sau cái chết của người vợ, đã quyết định khép kín cuộc sống của mình, làm chuyến du hành về quá khứ.  Và từ đây mở ra thế giới của hồi ức, nhưng là những hồi ức đã bị cắt lìa khỏi sự quy chiếu thực tại, khỏi những cảm xúc và sự chủ động của con người thực tại, thế giới của những kẻ thực ra là đã chết ngay từ khi họ còn hít thở, ăn uống, thậm chí yêu đương… Như chính lời của họ, “chỉ còn như những bức tượng chân dung bị đổ ngã của chính mình”.  Ngay từ khi trở về ngôi nhà nghỉ thuở ấu thơ bên bờ biển, sau gần nửa thế kỷ, Max Morden đã chán chường bực tức vì cảnh vật và mọi điều vẫn y sì như cũ, chi tiết tưởng như vô lý này cho ta hiểu một ý nghĩa khác, cái khả năng chủ động lục tìm hồi tưởng lại cảnh cũ người xưa của anh ta đã hoàn toàn bị vô hiệu hay là không hề được đề cập tới.  Và quả thực suốt phần đầu của tác phẩm, Max Morden giống như bị trôi dạt nhồi dập trên những kỷ niệm và rãnh mòn của đời sống quá khứ. Chỉ cần nghĩ tới việc phải đi cắt cỏ, là anh ta đã “thấy mình ở đó rồi, sơ mi xắn tay, quần ống rộng, nhễ nhại mồ hôi, bước thấp bước cao sau cái máy cắt, mồm dính cỏ, ruồi bu trên đầu”.  Dường như chỉ có những “rãnh mòn" ngơ ngẩn tức cười như thế là cái còn lại, sau chừng ấy năm sống. Và những kỷ niệm, cũng chẳng phải là cái gì ngọt ngào êm dịu mà giống như một xô xốc những hình dung về cái tréo nghoe, bất mãn, tồi tệ, xấu xí, một cách hiển nhiên, trong đó nổi bật lên cảm giác bơ vơ nhỏ nhoi của thân phận và những ẩn ức tính dục ngùn ngụt được giãi bày một cách tự nhiên và mạnh mẽ.  Nhân vật của Biển là tù nhân của những khiếm khuyết đau buồn, ẩn ức tính dục và cả những bí ẩn ngẫu nhiên trong cuộc sống thời thơ ấu của mình. Và John Banville đã miêu tả một cách tuyệt vời khéo léo cái thế giới đóng kín hoá thạch của những hồi ức, với vẻ vừa tức cười vừa quái lạ của con người và cảnh vật, được tái hiện bằng những cảm giác và tâm trạng siêu hình.  “Tôi đã ở đó mà không phải ở đó, là chính mình và hài lòng, vừa bị giam cầm chặt chẽ trong cái khoảnh khắc ấy mà lại vẫn lửng lơ sẵn sàng từ bỏ nó ra đi. Có lẽ toàn bộ cuộc đời cũng chỉ là một cuộc chuẩn bị dài để từ bỏ nó mà thôi.”  Cảm giác vô nghĩa về thực tại, sự mất sạch những cảm xúc hiện sinh trở đi trở lại trong phần đầu tác phẩm càng được nhấn mạnh khi Max Morden kinh ngạc nhận ra rằng những gì anh ta hình dung từ thuở bé về tương lai của mình đã hoàn toàn đúng như những gì diễn ra; và cái hình dung đó thực ra là một khuôn mẫu sẵn có đã được vạch sẵn từ trước như một tinh thần xã hội, mà nếu tại thời điểm này cho anh ta chọn lại như thuở bé thơ chắc chắn cũng không thể có lựa chọn nào khác.  Khép lại một vòng luẩn quẩn của của tồn tại, nỗi đau đớn và cảm giác bất lực như những thứ duy nhất còn lại sau gần nửa thế kỷ tiêu phí và trải nghiệm cuộc sống, phần đầu tác phẩm cho người đọc hình dung những cố gắng gần như tuyệt vọng mà cảm động của con người khi bị nhồi lắc trên sóng biển vô minh, kiếm tìm một điểm đến của tinh thần, kiếm tìm điều khả dĩ có thể coi là bản lai diện mục.  Phần sau của tác phẩm, nhà văn đã để cho bạn đọc chùng lại nghỉ ngơi với việc kể nốt câu chuyện, những ham muốn tình dục đầu tiên của cậu bé Max Morden rất tự nhiên đúng lối gửi vào bà mẹ Grace đẫy đà phốp pháp đã nhanh chóng chuyển thành tình yêu đầu vụng dại với cô con gái Chloe. Cái chết vừa ngẫu nhiên bất ngờ vừa tự nguyện của Chloe và cậu em sinh đôi, vừa là chết thực vừa đùa bỡn với cái chết, đã gieo vào tâm trí cậu bé Max đang lớn còn chưa kịp khám phá trò chơi thân thể lần đầu tiên, ý niệm về sự tuyệt đối bất khả cưỡng của cái chết.  Cái chết của Anna, người vợ hiền sau đó chính là sự tước bỏ cuối cùng đối với Max Morden, vốn đã chẳng có nhiều nhặn gì những người thân ở bên, nhưng lại được sống qua một cuộc đời quá đỗi yên bình.  Giả định mà nhà văn đặt ra qua lời của Anna, mỗi con người chỉ được tạc nặn nên nhờ vào mối quan hệ của anh ta với những người khác, đã hoàn toàn đúng với Max. Tại sao anh không là những gì anh thích, mà lại cứ phải trở thành một người nào đó, như thế này hoặc như thế kia?  Câu hỏi của Anna dành cho Max cũng sẽ là câu hỏi cứ vấn vương trong tâm trí nhiều người, khi mà thực ra chúng ta cũng giống như Max, suốt đời là tù nhân của những ẩn ức, của những mất mát hay khiếm khuyết, của ham muốn được sống trưởng giả yên bình và của những cá nhân khác? Đặt ra câu hỏi này, nhưng chính nhà văn cũng là người hiểu rõ hơn hết, sự bất lực vô minh của con người trong thế giới đương đại trước hình dung về bản ngã chính mình.  Không có biến cố, hay nói cách khác là đã dìm kể cả những biến cố lớn như cái chết vào dòng chảy phẳng lặng của biển tồn tại muôn đời; không có thiện ác, có phần buông lơi cả trách nhiệm cá nhân; câu chuyện của Banville về đời sống bình thường, thậm chí tầm thường của một người đàn ông run rảy với bản năng sinh tồn, siêu hình và bế tắc trong kiếm tìm bản ngã, chính là ẩn dụ xác thực cho thời đại chúng ta đang sống.  *** John Banville sinh tháng 12 năm 1945 tại Wexford, Ireland. Cuốn sách đầu tiên của ông, Long Lankin, được xuất bản năm 1970. Các cuốn khác là Nightspawn, Birchwood, Doctor Copernicus (đoạt giải James Talt Black Meomorial Prize năm 1976), Kepler (đoạt giải Guardian Fiction Prize năm 1981), The Newton Letter, Mefisto, The Book of Evidence (lọt vào chung khảo Booker Prize năm 1989 và giành giải Guinness Peat Aviation Award), Ghosts, Athena, The Untouchable, Eclipse và Shroud. Hiện John Banville sống tại Dublin. John Banville được trao giải thưởng Franz Kafka năm 2011. Ông cũng viết tiểu thuyết tội phạm dưới bút danh Benjamin Black. Mời các bạn đón đọc Biển của tác giả John Banville.
Tình Yêu Màu Hoa Anh Túc - Tần Vô Y
Tình yêu màu hoa anh túc là một câu chuyện tình yêu nhẹ nhàng và sâu lắng của tác giả Tần Vô Y. Hoa anh túc – đặc biệt là hoa anh túc màu cam là loại hoa mà nhân vật nữ chính Hà Như yêu thích. Hoa tượng trưng cho sự trân trọng tình cảm của người khác. Đó cũng chính là sắc thái chung của những tình yêu trong truyện. Một Hà Như thông minh, mạnh mẽ, xinh đẹp, yêu thích cuộc sống tự do, luôn thấy tình yêu là chuyện xa vời và không coi trọng chuyện hôn nhân nhưng thực sự trong lòng luôn chất chứa những kỷ niệm và trân trọng tình cảm mà Tiếu Thiên – người yêu của tám năm trước để rồi dằn vặt, đau khổ và khó xử với tình cảm tha thiết chân thành của Đông Khởi ở hiện tại. Một Đông Khởi đã từng kết hôn vội vã, có con bất ngờ và ly hôn cũng nhanh chóng luôn cố gắng vun đắp và nắm giữ tình cảm hiện tại. Một Tiếu Thiên luôn giằng xé giữa tình cảm xưa cũ với Hà Như và bối rối, hoang mang trước tình cảm của Thu Địch - hai người con gái đã bỏ anh sang Mỹ và anh phải sang tận nước Mỹ xa xôi để tìm lại họ. Bạch Qủa, Giang Cốc, Phi Phi, Thu Địch… cũng chất chứa trong mình những tình cảm tiếc nuối, trân trọng quá khứ và hoang mang trước hiện tại. Họ cố gắng sống, yêu và lắng nghe lời trái tim và lý trí mách bảo để tìm được tình yêu thật sự …​ *** Lễ Phục Sinh qua thì tết Tây lại đến, các cửa hàng bắt đầu trang hoàng rực rỡ để đón chào lễ tạ ơn và giáng sinh tiếp theo đó. Không khí vui tươi háo hức tràn ngập khắp nơi. Hà Như gọi điện cho Tôn Ánh báo chuyện Michelle đã đồng ý giúp. Nhưng điều bất ngờ hơn là sau khi cảm ơn cô, Tôn Ánh nói cô đang làm thủ tục di dân sang Canada, tình hình có vẻ khả quan nên có thể không kịp đến Los Angeles biểu diễn. Hà Như nghe vậy có phần hơi tiếc và buồn nhưng vì sao buồn thì chính bản thân cô cũng không rõ. Vào tháng 11 thì công việc và chuyện cá nhân của Lưu Đông Khởi ngày một khởi sắc, nhưng còn việc tranh chấp quyền nuôi dưỡng bé Cầm lại làm cho anh buồn lo. Riêng Phi Phi, tháng mười về nước, ở Thượng Hải hai tuần. Trong thời gian này cô cứ chạy tới chạy lui như ngựa không đứng vó. Cô muốn lấy danh tiếng tập đoàn bảo hiểm đa quốc gia của mình tìm thêm đối tác ở Trung Quốc, mở thêm chi nhánh. Cô tìm đến rất nhiều công ty, trong đó có cả công ty bảo hiểm Viễn Đông, muốn hùn mua ít cổ phần để mở đại lý của mình. Không biết nhờ ai giới thiệu, cô gặp được Cố Thôn. Nhờ Cố Thôn giúp, cuối cùng chuyện mở chi nhánh của cô cũng đã tiến triển khá khả quan. Sau đó đầu tháng mười một cô đi Lộc Đảo để gặp con. Nhưng cô không ngờ rằng hai mẹ con sau bảy năm cách biệt lại gặp nhau ở một hoàn cảnh éo le, đó là bệnh viện nhi đồng. Lưu Cầm tiền sử đã có bệnh khó thở, cứ được một thời gian lại tái phát, mức độ nặng nhẹ khác nhau. Bình thường uống vài viên thuốc là khỏi. Nhưng lần này cuối thu đầu đông, trời trở lạnh, không cẩn thận nên cháu bị nhiễm lạnh. Ban đầu là húng hắng ho, sau đó sốt cao. Ông bà Lưu Đông Đào không nghĩ bệnh của cháu nội mình lại nghiêm trọng thế nên cứ như trước, cho cháu uống vài viên thuốc. Hai ngày sau đó, cổ họng bé Cầm bắt đầu viêm, tiếp theo sau là viêm phổi cấp tính. Lúc này hai Ông bà mới cuống lên,vội vàng đưa cháu đi cấp cứu, tiêm thuốc và truyền nước biển. Ròng rã suốt hai ngày trời hai ông bà không hề chợp mắt mà cũng không dám báo cho Đông Khởi, sợ anh lo. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Màu Hoa Anh Túc của tác giả Tần Vô Y.