Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch Y - Ellery Queen

Thám tử nghiệp dư Drury Lane - người nghệ sĩ già đã nghỉ hưu lại được mời tham dự vào một vụ án liên quan đến nhà Hatter Điên Loạn. Đầu tiên, thi thể của người chồng York Hatter được tìm thấy khi đang bị trôi dạt trên đại dương mênh mông. Nhưng ông ta không bị chết do đuối nước mà do trúng độc. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich của thành phố New York. Vụ hạ độc gần nhất có một nhân chứng, nhưng đó lại là một cô gái mù-câm-điếc, cái duy nhất cô có là cảm giác khi chạm tay vào mặt của hung thủ. Nhờ tài suy luận logic và là bậc thầy của ngụy trang, Drury Lane đã biết được hung thủ là ai, nhưng lần này ông lại không vạch trần hung thủ ngay trước mặt mọi người mà chỉ kể lại như một lời tâm sự với Công tố viên Bruno và Thanh tra Thumm. Có điều gì khiến Drury Lane phải làm điều đó? Ẩn số = Y!! Thi thể trôi dạt trên đại dương mênh mông nhưng không phải do đuối nước mà do bị đầu độc! Nhà hóa học York Hatter đã chết một cách bí ẩn. Sau đó, hàng loạt những vụ hạ độc khác diễn ra trong ngôi biệt thự cũ của gia đình Hatter ở làng Greenwich, thành phố New York. Một vụ hạ độc bất thành hay chỉ là mồi nhử cho vụ án cướp đi sinh mạng của bà Emily Hatter sau đó? Câu chuyện dường như đi vào bế tắc khi nhân chứng duy nhất của vụ án mạng lại là một cô gái mù - câm - điếc, khả năng duy nhất còn sót lại của cô là xúc giác. Nhưng đối với Drury Lane, manh mối duy nhất từ việc chạm vào khuôn mặt của hung thủ lại giúp ông tìm ra câu trả lời chính xác. Câu trả lời sẽ được tìm ra như thế nào trước ẩn số mang tên Y?   *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** Vào một buổi chiều tháng Hai đáng nhớ, chiếc Lavinia D, một con tàu đánh cá xa bờ ương ngạnh xấu xí, đang cưỡi những con sóng Đại Tây Dương trở về đất liền. Nó đã đi qua Sandy Hook, hiện ở gần cảng Hancock, và đang hướng về vịnh Lower. Những bọt sóng bao quanh mũi tàu và tạo thành một vệt dài phía đằng đuôi. Một tấm lưới cũ mèm giăng trên thành tàu, boong tàu thì như một lò mổ hổ lốn bẩn thỉu, những ngọn gió rét buốt Đại Tây Dương khiến thân tàu rúng động, và thủy thủ đoàn đang thầm nguyền rủa tay thuyền trưởng, biển cả, lũ cá, bầu trời xám xịt, và cả bờ biển cằn cỗi đảo Staten bên mạn trái tàu. Một chai rượu được truyền từ tay người này sang người khác. Đám thủy thủ đang run lên dưới những tấm áo mưa màu vàng bay phần phật. Vẻ chán chường, một thủy thủ tựa người trên thanh vịn ngắm những con sóng cồn vẩn màu xanh lục, rồi anh chợt sững người lại, cặp mắt như lồi hẳn ra khỏi khuôn mặt đỏ gay, sau đó là một tiếng thét vang trời. Thủy thủ đoàn liền nhìn theo hướng chỉ tay của anh ta. Cách họ khoảng trăm mét là thứ gì đó nho nhỏ màu đen, một thứ không thể nhầm lẫn đi đâu được, chính là một xác người chết trôi trên vịnh. Cả toán thủy thủ nhảy dựng lên. “Rẽ trái!” người đang giữ bánh lái nghiêng người và chửi thề. Chiếc Lavinia D bắt đầu lượn thành một vòng cung nguệch ngoạc về bên trái, khiến cả đám mối ghép vang lên tiếng kẽo kẹt. Nó vòng quanh cái thứ chết trôi kia như một con vật đầy cảnh giác, từ từ vòng lại gần trong dáng vẻ của một kẻ săn mồi. Với vẻ hào hứng và khấp khởi, thủy thủ đoàn vung vẩy những cái móc sắt trong không trung mặn mòi, sẵn sàng để tóm lấy con cá lạ lùng nhất trong mẻ đánh bắt hôm nay. Chỉ mười lăm phút sau, yên vị trong vũng nước tanh ngòm trên phần boong tàu ướt nhoẹt là một thứ mềm oặt, tả tơi chẳng ra hình thù gì, nhưng vẫn đủ thấy đó là một con người. Từ hiện trạng đã bị phân hủy của cái xác, thì người này hẳn đã bị ngâm trong nước biển suốt nhiều tuần rồi. Thủy thủ đoàn chỉ còn biết đứng ngây ra đó trong lặng im. Tay chống hông, chân giạng ra, chẳng ai dám chạm vào cái xác cả. Thế rồi, với mùi cá tanh và gió mặn trong hai lỗ mũi, cái xác mang tên York Hatter bắt đầu chuyến hành trình cuối cùng của mình. Quan tài của ông ta chính là con tàu bẩn thỉu này, người đưa tiễn là một đám thủy thủ bặm trợn thô lỗ, quần áo thì bám đầy vảy cá, còn kinh cầu siêu là những tiếng nguyền rủa của thủy thủ và tiếng gió rít qua eo biển. Cái mũi ướt nhoẹt của con tàu lướt qua làn bọt trắng và neo lại tại một bến tàu gần Battery. Tàu cập bến với một kiện hàng chẳng báo trước từ biển cả. Mọi người nhảy vội xuống tàu, thuyền trưởng la hét đến lạc cả giọng, đám nhân viên bến tàu thì gật gù và ngó qua cái sàn trơn trượt, điện thoại reo lên trong những cơ quan hữu trách nho nhỏ khu Battery. Và York Hatter thì nằm lặng yên dưới một tấm bạt. Cũng chẳng lâu lắm. Một chiếc xe cứu thương lao vội tới. Nhân viên y tế đưa cái xác sũng nước đi. Buổi tang lễ giã từ biển cả, và khúc truy điệu là những tiếng còi tàu rền vang. York Hatter được đưa từ mạn dưới Broadway về nhà xác. Số kiếp của ông ta khá kỳ lạ, và đến giờ vẫn còn là bí ẩn. Vào ngày 21 tháng Mười hai, bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm ngoái, người vợ già Emily Hatter đã báo rằng chồng bà ta vừa biến mất khỏi căn nhà riêng tọa lạc trên đường Washington Square North của thành phố New York. Ông ta chỉ đơn thuần là bước ra khỏi cái tòa gạch đỏ nằm trong khối tài sản kếch sù của nhà Hatter mà chẳng có ai đi kèm, cũng chẳng để lại lời nào với ai, rồi cứ thế lặn mất tăm. ... Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch Y của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cạm Bẫy Hồng Nhan - Jean Louis Viot
Jean-Louis Viot sinh ra ở Laval. Ông bắt đầu sự nghiệp tại l'Hôtel de Police ở Alençon (61 tuổi) và cũng làm việc tại l'Hôtel de Police ở Le Mans. Năm 1981, ông trở thành Đại úy Cảnh sát tại Phòng Nghiên cứu và Điều tra của l'Hôtel de Police ở Dieppe.  *** Mallet đấy cánh cửa kính của trụ sở. Các phòng tạm giam đầy nghẹt. Sở Cảnh sát đã trở về nhịp điệu bình thường của nó. Ít ra đó cũng là ấn tượng đầu tiên hai ngày sau khi ông chủ tiệm bánh mì bị bắt. Trong khi đó, báo chí vẫn tiếp tục khai thác đề tài này một cách triệt để. Các cuộc trao đổi rầm rì, những cái bắt. Tay, các cuốn sổ trực mùi cà phê buổi sáng, không khí của thời gian khởi đầu của một ngày. Không hứng thú, Mallet mở cửa phòng làm việc, cởi áo bludông ra và treo nó lên móc, bực dọc đi trong hành lang về phía phòng họp của bên An ninh. Vẫn các đồng hồ ghi điện đầy bụi bặm, cái cầu thang cũ kỹ với tay vịnh lóng lẻo. Mallet bước lên không gây tiếng động. Anh đi ngang qua tiệm, bánh mì đã đóng cửa sau khi Nogđ bị bắt. Vào giờ này chắc bà vợ ông ta cũng đã hay cái tin khủng khiếp đó rồi. Trên kia hẳn là Coussinel đang mong chờ sự viếng thăm của viên thanh tra. Tuy nhiên khi mở cửa, Coussinel không tỏ vẻ ngạc nhiên. – Tôi đến đế hỏi thăm tin tức của ông đầy, Mallet cắt nghĩa. Ông tử tế quá. Mời ông vào. Tay ông già hơi run. Ông kéo một cái ghế, mời ông thanh tra ngồi lên đó. Aurélien kéo lê một rôbô gãy hư đi khắp trong phòng. – Thằng bé này phản ứng như thế nào ? Viên thanh tra hỏi. – Ồ nó chưa hình dung được sự việc. Tôi phải nói là mẹ nó bận phải đi xa. ... Mời các bạn đón đọc Cạm Bẫy Hồng Nhan của tác giả Jean Louis Viot.
Cái Rìu, Cây Đàn Koto Và Cánh Hoa Cúc
​Seshi Yokomizo (1902-1981). Nhà văn Nhật Bản. Sau khi học về ngành dược, ông chuyển sang viết bài cho những tạp chí hình sự. Yokomizo, một Simenon thực sự của Nhật – bốn mươi tác phảm được phát hành với hàng chục triệu bản – là nhà văn viết truyện trinh thám được đọc nhiều nhất trong xứ sở của ông. Truyện dưới đây đã được đạo diễn Ichikawa Kon dựng thành film. Ông sinh ra ở Kobe. Seishi Ykomizo là nhà văn viết truyện trinh thám, hình sự xuất sắc của Nhật Bản, các tác phẩm trinh thám của ông được đọc giả Nhật đọc nhiều nhất. Năm 1921 tác phẩm đầu tay của ông “Tháng tư kinh hoàng” được đăng trên báo Thanh niên- tờ báo sau này ông làm tổng biên tập (1927-1932). Năm 1947 ông cho xuất bản tiểu thuyết trinh thám “Sự kiện Honjin giết người” được giải thưởng của hội các nhà văn viết truyện trinh thám. Sau đó ông liên tiếp cho xuất bản những truyện trinh thám, hình sự đặc sắc, với thám tử nổi tiếng Kintaichi, Kôsuke có mặt trong các vụ phá án. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng nước ngoài và dựng thành phim truyền hình Giải thưởng: Giải thưởng của hội các nhà văn viết truyện trinh thám (1947)  *** Các tác phẩm: - Tháng tư kinh hoàng - Sự kiện Honjin giết người - Thôn tám mộ - Đảo tù - Ác quỷ thổi sáo đã đến - Ong chúa - Dòng họ Inugami - Cái rìu, cây đàn Koto và cánh hoa cúc *** Kindaichi hắng giọng và quay sang Sukekiyo : - Sukekiyo, vụ án thứ nhất thế là đã rõ.Chúng ta bước sang vụ án thứ hai. Để tôi hỏi và ông trả lời. Đồng ý chứ ? Sukekiyo thẫn thờ gật đầu. - Ngày 25 tháng 11, ông có mặt ở Toyobata. Suketomo đã đem tiểu thư Tamayo đến đó. Việc tồi bại này khiến ông phẫn nộ nên ông đã đánh Suketomo và trói ông ta vào ghế. Sau đó, ông điện thoại cho Saruzo. - Vâng! Và tôi nghĩ rằng khi Saruzo đến cứu Tamayo, anh ta cũng sẽ cởi trói cho Suketomo. - …Nhưng, Saruzo chẳng làm điều đó mà chỉ đưa tiểu thư về, cho nên vào khoảng 7, 8h gì đó, có lẽ Suketomo đã tự cởi trói rồi trở về đây bằng chiếc thuyền của Saruzo… - Cái gì?...Tối hôm đó Suketomo đã trở về đây ? Giọng ông cảnh sát trưởng ngạc nhiên. - Vâng, thưa ông cảnh sát trưởng. Vết dây trói hằn trên ngực Suketomo chứng tỏ rằng sợi dây khá lỏng. Nhưng khi chúng ta tìm ra ông ta thì ông ta lại bị trói chặt, sợi dây như muốn cứa vào thịt. Đây là bằng chứng cho thấy ông ta đã bị trói lần thứ hai. Sukekiyo run lên: - Lại cũng là một tình thế đáng nguyền rủa…Sau khi rời Toyobata, tôi quyết định đến định cư vĩnh viễn ở Tokyo. Nhưng phải có tiền đã. Thế là tôi lẻn về gặp Shizuma. Trong khi chúng tôi đang trò chuyện thì có ai đó nhảy rào vào nhà…Chúng tôi nhìn qua cửa sổ và nhận ra Suketomo. Hắn loạng choạng đi về phía toà nhà chính…Đột nhiên có hai cánh tay từ trong bóng tối vươn ra và quáng vật gì đó như một sợi dây vào cổ hắn…Hắn chỉ chống cự được một lát rồi ngã xuống. Thủ phạm bước ra khỏi bóng tối. Tôi…tôi – Sukekiyo lắp bắp. Vâng, lại là một sự tình cờ khốn khổ ! Đây không phải là lần đầu tiên mà là lần thứ hai, Sukekiyo chứng kiến tác phẩm gớm ghiếc của mẹ mình… Matsuko lên tiếng, giọng thản nhiên , không thèm đếm xỉa đến những ánh mắt đang chòng chọc nhìn bà : - Tôi đang học đàn với bà Kokin…Tôi muốn làm một việc gì đó nên đã vào phòng Sukekiyo và qua cửa sổ phòng, tôi thấy Suketomo đang chèo thuyền về. Suốt từ tối, Umeko đã làm náo động cả nhà vì không tìm thấy nó…Tôi kín đáo bước ra khỏi nhà và chờ đợi nó trong bóng tối và với chiếc dây thắt lưng kimono của tôi… Matsuko chợt cười. Nụ cười thật đáng sợ. - Chính vào lúc đó bà đã bị thương ở ngón tay trỏ vì chiếc cúc áo của Suketomo? Chiếc cúc đã bị đứt… - Có lẽ…Tôi cũng không để ý nữa, chỉ khi trở về phòng, tôi mới biết tay mình bị chảy máu. Tôi nén đau và tiếp tục chơi đàn. Nhưng bà giáo Kokin đã nhận ra… ... Mời các bạn đón đọc Cái Rìu, Cây Đàn Koto Và Cánh Hoa Cúc của tác giả Seshi Yokomizo.
Sao Chiếu Mệnh - Sidney Sheldon
Sách Nói Sao Chiếu Mệnh   Cuốn sách kể về cuộc đời của Lara Cameron, một phụ nữ đã thành công rực rỡ trong nghiệp kinh doanh địa ốc. Xuất phát từ một gia đình rách nát ở Nova Scotia, nàng đã tự hứa với bản thân sẽ thâu tóm thật nhiều quyền lực để chứng tỏ với cha nàng rằng ông cụ đã sai khi nói về nàng. Đẹp nhưng không diêm dúa, quyền lực nhưng không bạo lực, Lara đã đấu tranh hết mình vì mục tiêu đó. Nàng đã thành công, nhưng nàng vẫn muốn nhiều hơn... Trong bối cảnh toàn cầu, từ London đến New York, từ Reno đến Rome, nàng tìm thấy mọi điều khát khao, và nàng đã chiến thắng. Theo cá nhân tôi, cùng với cuốn Nếu còn có ngày mai, If tomorrow comes, đây là một trong những cuốn truyện hay nhất của Sidney Sheldon. Mọi chuyện đều diễn tiến hợp lý trong cái bất hợp lý của nó. Một người phụ nữ khôn ngoan, mạnh mẽ, tham lam và nhiều mánh khóe.  *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Glace Bay, Nova Scotia 10 tháng Chín, 1952 James Cameron đang nằm trong một nhà thổ, say khướt, vào đúng cái đêm vợ ông sinh đôi, một trai một gái. Ông nằm trên giường, kẹp giữa hai ả gáỉ điếm cũng sinh đôi thì Kirstie, mụ chủ nhà chứa đập cửa thình lình. - James! - Mụ hét lên, đẩy mạnh cửa, bước vào. - Bà làm cái trò gì thế, - James giận dữ quát. - Tôi đã chui vào tận trong này mà vẫn không được yên ổn sao? - Xin lỗi đã gián đoạn thú vui của ông, James. Nhưng bà vợ ông... - Mặc xác mụ ta, - James Cameron gầm lên. Vợ ông đang đẻ... - Vậy hả? Thì cho mụ đẻ. Đấy là chuyện đàn bà các người. - Nhưng bác sĩ gọi điện đến. Ông ta tìm hỏi mãi mới biết ông ở đây. Vợ ông đang nguy kịch lắm. Ông nên đến với bà ấy xem sao. James lồm cồm ngồi dậy, trườn ra khỏi giường, mắt đờ đẫn, cố tỉnh lại. - Mụ khốn khiếp. Không để cho người ta được yên nữa - ông ngước nhìn mụ chủ chứa. - Thôi được rồi. Tôi đi. - Rồi đưa mắt nhìn hai ả gái điếm loã lồ trên giường. - Nhưng tôi không trả tiền hai cô này đâu. Tôi chưa làm được gì. Được! ông hãy mau về nhà trọ đi đã, - mụ chủ quay sang hai ả điếm: - Còn hai đứa, đi theo tao. James Cameron là một gã đàn ông mặt mũi trông như đã có thời là người dòng dõi cao quý, nhưng bây giờ thì sa đoạ đến mức không còn gì là tư cách nữa. Ông đã ngoài năm chục tuổi và làm quản lý một trong những nhà trọ của lão chủ ngân hàng Sean McAllister. Trong năm năm qua, James Cameron cùng với vợ là Peggy chia nhau số công việc nặng nhọc tại đấy. Bà thì lau dọn nhà và nấu ăn cho hai tá khách trọ. James thì lo thức uống cho họ. Thứ Sáu nào ông cũng làm nhiệm vụ đi thu tiền thuê trọ của khách ở cả bốn nhà trọ khác nữa trong thị trấn Glace Bay về nộp cho chủ là lão McAllister. Ngoài ra còn một việc nữa là khi nào thấy cần giải sầu, ông lại uống rượu say khướt. James Cameron hận đời. Dường như ông đã nếm đủ mọi nỗi uất hận của kẻ thất thế và không còn thấy cuộc đời có gì thú vị nữa. Năm ông mới một tuổi, gia đình ông bỏ quê hương ở Scotlanđ bên Anh, di cư sang đây với hai bàn tay trắng và cha mẹ ông phải vật lộn vất vả với cuộc sống. Cha ông bắt con vào làm thợ trong mỏ than từ lúc James mới mười bốn tuổi. Năm mười sáu tuổi, ông bị tàn tật vì một tai nạn nhỏ và thôi việc. Năm sau, cha mẹ ông qua đời trong một tai nạn đường sắt. Vì vậy James thấy nỗi khổ cực của ông đâu phải do ông. Ông đổ cho số phận ông hẩm hiu. Nhưng ông có hai ưu thế lớn. Hình dáng ông đẹp trai và khi cần ông có thể làm người xung quanh mến mộ. Trong một lần nghỉ cuối tuần ở Sydney, một thị trấn gần Glace Bay, ông gặp một cô gái Mỹ trẻ tuổi, dễ thương, tên là Peggy Maxwell. Cô đến đó nghỉ hè cùng với gia đình. Peggy không xinh đẹp gì lắm nhưng cha mẹ cô rất giầu, trong khi James đang nghèo xác, James bèn chài cô gái. Và bất chấp cha mẹ phản đối, Peggy đã lấy James. - Tôi sẽ cho con Peggy một khoản hồi môn là năm ngàn đô la, - bố Peggy nói với chàng rể. Anh hãy dùng khoản tiền đó để làm vốn làm ăn. Anh có thể đầu tư vào bất động sản và chỉ sau năm năm số tiền sẽ tăng gấp đôi. Tôi sẽ giúp anh. Nhưng James không đợi được đến 5 năm. Không hỏi ý kiến ai hết, ông bỏ số tiền bố vợ cho, chung vốn với một người bạn kinh doanh dầu lửa bất hợp pháp. Sau mười ngày, công việc tan tành, mất sạch cả vốn lẫn lãi. Bố vợ ông nổi cáu, kiên quyết không chịu giúp con rể lần nữa. - Anh là thằng ngu, James. Tôi không bỏ tiền ra cho thứ ngu như anh nữa? James lấy vợ định để đào mỏ ai ngờ lại đâm thành cực nhọc thêm. Bởi từ nay ông có thêm một cái miệng nữa phải nuôi mà ông lại đang thất nghiệp. Chính lão Sean McAlhster đã cứu ông. Lão chủ nhà băng này tuổi đã gần sáu mươi, dáng thấp tè và béo múp míp, có một đồng hồ quả quít vàng đeo trên sợi dây cũng bằng vàng. Lão đến sống ở thị trấn Glace Bay này cách đây hai chục năm và lập tức thấy ngay những thuận lợi ở vùng này. Thợ mỏ và dân nghèo từ khắp các nơi ùn ùn kéo đến thị trấn và không tìm ra nhà để ở. McAllister có thể cho họ vay tiền để xây nhà nhưng lão không làm thế. Lão thấy cách rẻ tiền hơn là xây những nhà trọ cho họ ở thuê. Hai năm sau lão đã có trong tay một khách sạn cùng năm nhà trọ, và tất cả đều chật ních. Rất khó tìm người quản lý các nhà trọ đó, bởi công việc của quản lý hết sức vất vả. Phải trông nom ngần ấy căn phòng, nấu ăn cho khách trọ và làm sao thu được đủ tiền của khách. Trong khi đó lão không muốn trả công cao. Vừa mới có một người quản lý đòi thôi việc, lão McAllister bèn phát hiện ra James Cameron có thể làm thay. Ông thường vẫn đến nhà băng của lão vay tiền và luôn trả chậm. Lão bèn sai người đến gọi James. - Tôi có việc làm cho anh đây, - McAllister nói. - Ông nói thật đấy chứ? - Anh gặp may. Tôi đang có một công việc tuyệt vời, mở ra nhiều triển vọng. - Làm ở nhà băng phải không? - James Cameron hỏi, trong lòng khấp khởi mừng. Nhà băng là nơi lắm tiền, làm ở đó thế nào chẳng kiếm được chút gì rơi vãi. - Không - McAlhster nói. - Anh là người có cái mã đẹp lại biết cách ăn nói. Anh nên làm công việc tiếp xúc với nhiều loại người. Tôi muốn thuê anh làm quản lý cho nhà trọ của tôi ở phố Cablehead. - Ông bảo làm quản lý nhà trọ ư? - James khó chịu hỏi. - Chứ sao nữa, - lão chủ nhà băng nói. - Anh chị đang chưa có chỗ ở tử tế. Bây giờ trông nom nhà trọ cho tôi, trước hết anh chị có nơi ăn chốn ở đàng hoàng, lại thêm một khoản tiền lương nhỏ nữa. - Nhỏ là bao nhiêu? - Tôi rộng tay với anh, James. Tôi trả anh hai mươi nhăm đô la một tuần. - Hai mươi nhăm thôi à? - Tuỳ anh thôi. Nhận hay không tuỳ anh. Còn khối người muốn làm chân này. Cuối cùng James không còn sự lựa chọn nào khác. - Thôi, cũng được. ... Mời các bạn đón đọc Sao Chiếu Mệnh của tác giả Sidney Sheldon.
Lộ Mặt - Sidney Sheldon
Sách Nói Lộ Mặt   Judd Stevens, một nhà ph'n tích t'm lý đã phải đương đầu với một phán quyết oái oăm và nguy nan nhất trong đời. Nếu anh không th'm nhập vào t'm trí của một kẻ giết người, chính anh sẽ bị bắt giữ vì vụ giết người ấy, hoặc buộc phải tự sát... Hai cảnh sát dính dáng vào bác sĩ Stevens đã bị giết. Có phải một trong những bệnh nh'n của anh phải chịu trách nhiệm? Người nào đó đã đe dọa vì những vấn đề của anh? Một người loạn thần kinh bị dẫn dắt bởi sự ép buộc? Một kẻ điên khùng? Trước khi kẻ sát nh'n lại hành động, Judd phải lột trần bộ mặt ng'y thơ của tên tội phạm, khám phá những xúc cảm bên trong, nỗi sợ hãi và dã t'm của hắn - phơi bày khuôn mặt trần trụi bên trong... "Sidney Sheldon thể hiện là bậc thầy của tiểu thuyết bán chạy." - People *** Sidney Sheldon, tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết thuộc hàng Best-selling được người đọc Việt Nam yêu thích như "Nếu còn có ngày mai", “Âm mưu ngày tận thế”, "Thiên thần nổi giận"... Warren Cowan, một trong những cố vấn của Sheldon cho biết nhà văn từ trần vào chiều ngày 30/12 tại Bệnh viện Eisenhower ở Rancho Mirage (Mỹ) vì bệnh viêm phổi. Vợ ông, bà Alexandra, con gái Mary Sheldon đồng thời cũng là một nhà văn, đã có mặt bên cạnh Sheldon trong lúc lâm chung. Cowan xúc động nói: “Tôi đã mất một người bạn lâu năm và thân thiết nhất. Trong suốt những năm tháng được làm việc cùng Sheldon, tôi chưa bao giờ nghe thấy ai đó nói một từ không hay về ông”. Sidney Sheldon từng có thời gian làm việc tại Hollywood và là tác giả của nhiều kịch bản phim nhựa và phim truyền hình nổi tiếng. Tuy nhiên, bước sang 50 tuổi, tức là vào khoảng những năm 1967, ông lại chuyển sang viết tiểu thuyết và nổi tiếng với hàng chục tác phẩm ăn khách nhất hành tinh, được dịch sang nhiều thứ tiếng khác nhau trên toàn thế giới. Những cuốn sách của Sheldon, như “Thiên thần nổi giận”, “Phía bên kia nửa đêm”, “Nếu còn có ngày mai” đã khiến tên tuổi của nhà văn Mỹ luôn tồn tại trong lòng bạn đọc. Ông là một nhà văn có tài thực thụ. Bằng cách viết và diễn tả tình tiết câu chuyện rất ly kỳ với giọng văn hóm hỉnh nhưng đầy trí tuệ, những tác phẩm của Sheldon thường nói về những nhân vật thành đạt, nổi tiếng nhưng không có thật và thường là phụ nữ. *** Tiểu thuyết The Naked Face (1970) - Lộ mặt The Other Side of Midnight (1973) - Phía bên kia nửa đêm A Stranger in the Mirror (1976) - Người lạ trong gương Bloodline (1977) - Dòng máu Rage of Angels (1980) - Thiên thần nổi giận Master of the Game (1982) - Bậc thầy của trò chơi If Tomorrow Comes (1985) - Nếu còn có ngày mai Windmills of the Gods (1987) - Sứ giả của thần chết The Sands of Time (1988) - Cát bụi thời gian Memories of Midnight (1990) - Ký ức lúc nửa đêm The Doomsday Conspiracy (1991) - Âm mưu ngày tận thế The Stars Shine Down (1992) - Sao chiếu mệnh Nothing Lasts Forever (1994) - Không có gì là mãi mãi Morning, Noon and Night (1995) - Sáng, trưa và đêm The Best Laid Plans (1997) - Kế hoạch hoàn hảo Tell Me Your Dreams (1998) - Hãy kể giấc mơ của em The Sky is Falling (2001) - Bầu trời sụp đổ Are You Afraid of the Dark? (2004) - Bạn có sợ bóng tối? (Bóng tối kinh hoàng) Kịch Rehead (1957) Dream of Jeannie (1967). Phim The Bachelor and the Bobby Soxer Easter Parade Annie Get Your Gun, Jumbo và Anything Goes *** Judd đứng trước thang máy, bóng tối dày đặc vây quanh. Ông cảm thấy có lúc tim như ngừng đập rồi lại đập liên hồi. Một nỗi sợ đột ngột ập lên người ông. Ông sờ túi tìm hộp diêm. Chẳng may nó lại bị bỏ quên trong văn phòng rồi. Có lẽ đèn ở những tầng dưới vẫn sáng. Ông thận trọng dò dẫm tìm bược về phía cửa dẫn ra cầu thang. Ông đẩy cửa ra. Cầu thang cũng tối như mực. Cẩn thận nắm vào tay vịn, ông bắt đàu từ từ bước xuống cầu thang vẫn trong bóng tối dầy đặc. Tít phía dưới, ông thấy một làn ánh sáng chập chờn đang lên cầu thang. Đột nhiên nghe thấy người nhẹ nhõm hẳn đi như được giải vây. Bigelow, người gác cổng. Ông thét lên: - Bigelow, bác Bigelow, bác sĩ Stevens đây! Giọng ông dội vào vách tường đá, vang vọng khắp thang lầu. Bóng đen cầm chiếc đèn cứ lặng lẽ, tiếp tục lầm lũi leo lên. - Ai đó? - Judd hỏi lớn. Vẫn chỉ là tiếng ông vang vọng lại. Bỗng nhiên, Judd chợt nhận ra đó là ai - Kẻ định ám sát ông. Có ít nhất hai tên, một tên cúp điện trong lúc một tên khác chặn ở thang lầu không cho ông trốn thoát. Ánh lửa chập chờn càng lúc càng gần hơn, nó chỉ còn cách ông độ hai hay ba tầng lầu nữa thôi và vẫn trèo lên mỗi lúc một nhanh hơn. Toàn thân Judd lạnh toát vì sợ, tim đập thình thịch còn chân như muốn khụy xuống đất. Ông quay người thật nhanh chạy lên tầng trên, chỗ cũ. Ông mở cửa và đứng nghe ngóng xem có ai đang chờ mình trong hành lang tối mịt? Tiếng chân bước lên cầu thang càng lúc càng rõ hơn. Miệng ông khô lại, Judd quay người chạy vào hành lang tối đen như mực. Khi đến chỗ thang máy, ông bắt đầu đếm từng cánh cửa. Đây rồi, vừa về đến văn phòng, ông nghe thấy tiếng mở cửa cầu thang. Hốt hoảng, ông đánh rơi chùm chìa khoá. Ông mò mẫm như điên cuồng dưới sàn nhà, tìm thấy rồi, ông mở cửa phòng tiếp khách, lẻn vào trong rồi khoá hai lần cửa lại. Giờ thì không kẻ nào có thể mở được trừ khi có chìa khoá đặc biệt. Bên ngoài hành lang, ông nghe tiếng bước chân đến gần. Đi vào phòng riêng bên trong, ông bật đèn, vẫn không sáng. Cả chung cư đều bị cúp điện. Ông khoá cửa phòng trong lại và đến chỗ điện thoại, ông mò mẫm quay số gọi tổng đài. Ba hồi chuông dài reo liên tục, có người nhấc máy. Judd đã nối liên lạc được với thế giới bên ngoài rồi. Giọng ông nhẹ nhàng. - Thưa tổng đài, một trường hợp thật khẩn cấp. Tôi là bác sĩ Judd Stevens, xin cho gặp thám tử Frank Angeli ở khu vực cảnh sát 19, xin cô nhanh giúp tôi. - Được rồi, ông cho số điện thoại đi. ... Mời các bạn đón đọc Lộ Mặt của tác giả Sidney Sheldon.