Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tập Sách Về Những Chuyến Ngao Du

Tự Truyện Tác giả: Konstanstin Paustovsky Nguyên tác: Книга о жизни - Далекие годы (1946) Bản tiếng Nga: Паустовский К.Г.: Книга о жизни Bản tiếng Anh: Library Genesis: Konstantin Paustovsky - Story of a A Life vol. 1 - Childhood and Schooldays Trọn bộ: Library Genesis (libgen.is) Dịch giả: Tạ Hồng Trung (dịch từ bản tiếng Pháp 1963) Bản dịch Tiếng Việt này gồm 22/39 truyện nói về thời thơ ấu của chính tác giả trong tập 1 của bộ 6 cuốn tự truyện nổi tiếng. Nếu bạn yêu thích Paustovsky thì đây là cuốn sách không thể bỏ qua. Giới thiệu: Konstantin Georgiyevich Paustovsky (tiếng Nga: Константин Георгиевич Паустовский) (sinh ngày 31 tháng 5 năm 1892, mất ngày 14 tháng 7 năm 1968) là một nhà văn Nga nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ông được đề cử Giải Nobel Văn học năm 1965. Konstantin Paustovsky sinh năm 1892 tại thành phố Moskva của Đế quốc Nga. Bố ông là một nhân viên đường sắt gốc Cozak Zaporizhia, còn mẹ ông xuất thân từ một gia đình trí thức người Ba Lan vì vậy gia đình nhà Paustovsky sử dụng cùng lúc ba thứ tiếng, tiếng Nga, tiếng Ba Lan và tiếng Ukraina. Konstantin lớn lên ở Ukraina, ông học trung học tại Kiev và là bạn cùng lớp của Mikhail Bulgakov. Học được một thời gian thì bố của Paustovsky rời bỏ gia đình và ông phải đi làm gia sư thêm để có tiền ăn học. Năm 1912 Paustovsky trở thành sinh viên Khoa Lịch sử tự nhiên của Đại học Kiev, đến năm 1914 thì ông chuyển sang Khoa Luật của Đại học Moskva nhưng rồi Thế chiến thứ nhất nổ ra, ông phải bỏ dở việc học để đi làm nhân viên đường sắt giống bố mình. Năm 1915 ông ra mặt trận trên một chiếc tàu hỏa bệnh viện nhưng sau khi hai người anh đều chết trên mặt trận, Paustovsky trở về sống với mẹ ở Moskva một thời gian rồi lại ra đi để kiếm việc. Đầu tiên ông trở thành công nhân trong những nhà máy luyện kim ở Yekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk, Ukraina) và Yuzovka (nay là Donetsk, Ukraina). Đến năm 1916 Paustovsky lại chuyển đến thành phố Taganrog bên bờ Biển Azov để làm công nhân trong nhà máy hơi nước, rồi thử sức với nghề đánh cá cũng ở thành phố này. Năm 1917 ông trở về Moskva làm nghề nhà báo và chứng kiến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười. Trong Nội chiến Nga, Paustovsky chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân. Sau đó ông lại tiếp tục đi khắp Liên bang Xô viết, từ Kiev đến Odessa, sau đó là Sukhumi, Batumi, Yerevan rồi Baku. Ông về Moskva năm 1932 và làm biên tập viên cho Hãng thông tấn Nga (GROWTH) trong vài năm trước khi trở thành nhà báo của tờ Pravda (Sự thật). 1911 – 1941 Paustovsky bắt đầu tập sáng tác khi còn ở trường trung học. Ông thử sức đầu tiên là với việc sáng tác thơ nhưng rồi cuối cùng Konstantin chỉ tập trung vào lĩnh vực văn xuôi. Đó là sau khi nhà văn nổi tiếng Ivan Bunin viết cho Paustovsky một lá thư góp ý trong đó có nói: "Tôi nghĩ thế giới thực sự của cậu là những tác phẩm văn xuôi. Nếu cậu thực sự chuyên tâm với lĩnh vực đó, tôi chắc chắn cậu sẽ làm được điều gì đó đáng kể". Những truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky là Na vode (Trên mặt nước) và Chetvero (Bộ tứ) viết năm 1911 và 1912. Những tác phẩm đầu tiên này chịu ảnh hưởng của Alexander Grin và các nhà văn thuộc "Trường phái Odessa" như Isaac Babel, Valentin Kataev hay Yuri Olesha. Trong thời gian sống ở Taganrog, Paustovsky bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tên Romantiki (Lãng mạn), tác phẩm này sau đó được in năm 1935. Đúng như cái tên của nó, tác phẩm là cuộc sống thời niên thiếu của tác giả, là những gì ông đã nhìn thấy và cảm nhận, một trong những nhân vật chính trong tiểu thuyết là ông già Oscar, một họa sĩ cả đời vừa phải chống lại những người muốn ông trở thành một thương gia, vừa phải vượt qua nỗi cô đơn để sáng tác. Các tác phẩm sau đó của Paustovsky như Razgovor o ribe, Azovskoe podpolie, Port v trave được ông viết để miêu tả quãng thời gian sống ở Taganrog. Trong giai đoạn Thế chiến thứ nhất, Paustovsky còn viết một số bản thảo dựa trên những cảm nghĩ về cuộc sống nơi tiền tuyến. Năm 1925, tác phẩm của Paustovsky lần đầu tiên được xuất bản, đó là cuốn Morskiye Nabroski (Phác thảo biển) nhưng không gây tiếng vang. Tiếp theo Phác thảo biển là Minetoza(1927) và cuốn tiểu thuyết lãng mạn Blistaiushie Oblaka (Những đám mây tỏa sáng) (1929). Trong thập niên 1930 Paustovsky đã đi thăm nhiều công trường xây dựng và viết một số tác phẩm ca ngợi công cuộc công nghiệp hóa đất nước Xô viết. Đó là truyện vừa Kara-Bugaz (1932) và Kolkhida (1934). Kara-Bugaz được đặc biệt khen ngợi với cốt truyện là chuyến phiêu lưu và khám phá vịnh Kara-Bugaz huyền bí năm 1847. Paustovsky tiếp tục đề tài lịch sử trong tác phẩm Severnaya Povest (Câu chuyện phương Bắc) (1938). Cuối thập niên này, nhà văn bắt đầu khai thác đề tài thiên nhiên Nga trong các tác phẩm như Letniye Dni (Những ngày hè) (1937) hay Meshcherskaya Storona (1939). Với Paustovsky, thiên nhiên là là một vẻ đẹp rất đa dạng có thể giúp con người thoát khỏi những ưu tư thường ngày và giúp họ tìm lại được sự cân bằng trong tâm hồn. Ý tưởng này của ông khá giống với nhà văn Mikhail Prishvin và chính Prishvin cũng từng viết rằng: "Nếu tôi không phải là Prishvin, thì tôi thích viết như Paustovsky". 1945 – 1968. Trong Thế chiến thứ hai Paustovsky là phóng viên chiến trường ở mặt trận phía Nam. Năm 1943 nhà văn viết kịch bản phim "Lermontov" (đạo diễn bởi A.Gendelshtein) cho Xưởng phim Gorky. Từ năm 1948 đến năm 1955 ông là giảng viên tại Trường viết văn Maxim Gorky. Năm 1955 ông cho ra đời tác phẩm có lẽ là thành công nhất trong sự nghiệp, tập truyện Bông hồng vàng (Золотая роза) ngợi ca bản chất lao động tốt đẹp của nhà văn. Trong giai đoạn từ 1945 đến 1963, Paustovsky dành rất nhiều thời gian để viết bộ tự truyện Povest o Zhizni (Chuyện kể về cuộc đời) bao gồm 6 quyển. Ông cũng sáng tác một số vở kịch hoặc truyện cổ tích như Chiếc nhẫn sắt. Từ giữa thập niên 1950, các tác phẩm của Paustovsky bắt đầu được thế giới biết đến, ông được mời đi thăm nhiều nước Châu Âu như Ý, Tiệp Khắc, Bulgari,... Năm 1965 ông được đề cử giải thưởng cao quý Giải Nobel Văn học nhưng cuối cùng giải đã lọt vào tay nhà văn Mikhail Sholokhov, tác giả của Sông Đông êm đềm. Ông cũng được Nhà nước Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin vì những đóng góp cho nền văn học Xô viết. Tại Việt Nam, các truyện ngắn nổi tiếng của Paustovsky được tập hợp trong hai tập sách Bông hồng vàng và Bình minh mưa. Bằng Việt là nhà thơ, dịch giả tiêu biểu của Việt Nam có nhiều bản dịch và tác phẩm về Pautovsky, được biết đến nhiều nhất là bài thơ "Nghĩ lại về Paustovsky", trong đó có nhắc đến một số tiêu đề truyện ngắn của ông. Konstantin Paustovsky mất ngày 14 tháng 7 năm 1968 tại Moskva. (Theo Konstantin Georgiyevich Paustovsky – Wikipedia tiếng Việt) Mời các bạn đón đọc Tập Sách Về Những Chuyến Ngao Du của tác giả Konstantin Paustovsky & Tạ Hồng Trung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Napoleon Đại Đế - Andrew Roberts
NAPOLEON Đại Đế là sách đứng đầu bảng xếp hạng bán chạy nhất của New York Times nhiều tuần liên tiếp.The Telegraph (Anh) gọi cuốn sách là "số ít tác phẩm toát lên khí chất Napoleon" Napoleon là một nhân vật đặc biệt vĩ đại và hấp dẫn trong lịch sử Pháp cũng như lịch sửthế giới. Cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm, tài năng của ông đã là chủ đề của hàng nghìncuốn sách trong suốt hai thế kỉ qua, và có lẽ sẽ còn được nghiên cứu tiếp trong nhiều thế kỉ sau nữa.Thuở nhỏ, cậu bé ham mê đọc sách, nhưng trình độ học vấn không cao. Pháp văn của ông rất tệ, ông thường bị trêu chọc ở trường vì chất giọng khôi hài. Napoleon chỉ tìm thấy mình khi vào quân đội, sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự ở Paris và tìm được vị trí sĩ quan pháo binh. Tới năm 1793 Napoleon đóng vai trò nổi bật trong cuộc đánh bật quân Anh khỏi cảng Toulon và chiếm được thành phố này cho các lực lượng cộng hòa, nhờ đó ông được thăng cấp tướng. Khi cuộc cách mạng bao trùm nước Pháp, tài năng của Napoleon trên cương vị một người lính lên đến tột đỉnh. Ông từng gây tai tiếng khi dọn sạch các đường phố ở Paris bằng cách bắn đạn chùm vào quân nổi loạn. Ông đưa quân vào Italy và Ai Cập, nổi bật với một chuỗi những thành công ấn tượng cùng với uy danh về một thiên tài quân sự vô song. Ông trở thành người cai trị nước Pháp năm 1799. Năm 1804, ông tự phong mình làm Hoàng đế và vợ ông, Josephine lên ngôi Hoàng hậu. Napoleon được tôn sùng khi mới vừa qua độ tuổi hai mươi. *** Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Trong bộ sách đồ sộ của mình về lịch sử văn minh phương Tây, sử gia, triết gia người Mỹ Will Durant cùng vợ ông, bà Anne Durant đã đặt tên cho tập cuối của bộ sách, viết về thời kỳ lịch sử đầy biến động 1789-1815 ở châu Âu là “Thời đại Napoleon”. Có lẽ đó là cách ghi nhận ngắn gọn và chính xác nhất vai trò của Napoleon Bonaparte trong việc định hình nên tiến trình lịch sử châu Âu của giai đoạn này, cũng như tạo ra tiền đề cho cơn bão cách mạng 1830-1848 sau đó. Chẳng vậy mà bất cứ ai ham tìm hiểu về lịch sử cũng sẽ thích tìm hiểu về con người đặc biệt này. Trong gần 200 năm qua, kể từ sau khi cuốn tiểu sử dài hơi đầu tiên về trọn vẹn cuộc đời, sự nghiệp của Napoleon được Walter Scott xuất bản năm 1827, thật khó lòng thống kê hết những cuốn sách đã viết về ông, và chắc chắn sẽ không có năm nào trôi qua trong một thời gian dài nữa mà lại không có thêm ít nhất một cuốn sách mới ra đời ở đâu đó trên thế giới bàn về một khía cạnh nào đó của cuộc đời, sự nghiệp Napoleon. Đọc hết cả “núi” sách theo đúng nghĩa đen này là việc bất khả thi, tuy nhiên chỉ cần một cuốn tiểu sử tóm lược khá toàn diện như Napoleon Đại đế của Andrew Roberts là đủ để những ai muốn tìm hiểu về nhân vật lịch sử có một không hai này, cho dù xuất phát từ bất cứ lý do nào, cũng tìm được cho mình một bức tranh tương đối ưng ý từ mọi góc độ, khía cạnh của một cuộc đời sôi nổi, phong phú và nhiều cung bậc thăng trầm đến mức chính chủ nhân của cuộc đời ấy đã phải thốt lên: “Đời ta quả là một cuốn tiểu thuyết.” Napoleon từng thích trở thành nhà văn, thích trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết khi còn trẻ. Ông đã không làm được điều đó bằng ngòi bút trên trang giấy, song đã viết được một cuốn tiểu thuyết trường thiên bi tráng qua chính cuộc đời mình. Mỗi trang của cuốn sách đó là một ngày đầy bận rộn ông đã trải qua từ khi là viên tướng trẻ 27 tuổi lên đường sang Italy bắt đầu chiến dịch đầu tiên của sự nghiệp cho tới khi ông ê chề rời khỏi chiến trường Waterloo ngổn ngang xác chết 19 năm sau để khép lại sự nghiệp đó. Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Cuộc đời của Napoleon được Andrew Roberts lần lại qua từng giai đoạn trước hết là cuộc đời của một con người luôn muốn thách thức tất cả, luôn muốn tiến lên phía trước, không dừng lại trước bất cứ trở ngại nào cho tới khi kiệt sức.   Mời các bạn đón đọc Napoleon Đại Đế của tác giả Andrew Roberts.
Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí - John Mcshane
Với tuổi 48, thân hình béo ú, đầu tóc bù xù, bận một chiếc váy rơm quê mùa bước lên sân khấu chương trình Britain's Got Talent, Susan Boyle đã nhận những cái nhìn diễu cợt, coi thường từ phía khán giả và cả chính những vị giám khảo nổi tiếng đang cầm chịch chương trình. Thế nhưng, khi ca khúc Tôi mơ một giấc mơ (I dreamed a dream) cất lên cùng với một giọng hát trời phú lảnh lót, cả khán phòng đã vỡ òa xúc cảm: Susan Boyle vô danh vụt sáng trở thành thần tượng âm nhạc chỉ sau một đêm, được hàng trăm triệu người biết tới. Cô trở thành ca sĩ chuyên nghiệp với hai album I dreamed a dream (album bán chạy nhất thế giới năm 2009, lập được kỷ lục Guiness cho album đầu tay bán chạy nhất với một nữ ca sĩ) và The gift. Năm 2011, cô còn được đề cử giải Grammy... Cuốn sách Susan Boyle thiên thần xấu xí tập trung vào giai đoạn từ khi Susan quyết định rời khỏi ngôi làng nhỏ của mình cho tới khi đạt được thành công cả về danh tiếng và tài chính, được cả thế giới nghiêng mình ngưỡng mộ. Tác giả John McShane đã tổng kết lại từ hàng nghìn bài báo, website, xem cả trăm chương trình truyền hình để dựng nên một chân dung chuẩn xác nhất về Susan Boyle. Gần như chẳng còn một thông tin nào về người phụ nữ này bị bỏ sót trong cuốn sách, từ những câu chuyện thời niên thiếu, cuộc sống gia đình và cả khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp... Ngoài ra, tác giả còn mô tả lại cách giới truyền thông đã phản ứng như thế nào trước hiện tượng Susan Boyle - khi họ chợt giật mình nhận ra, một tài năng tuyệt vời không buộc phải đi cùng một ngoại hình đẹp. Chính vì vậy, Susan Boyle thiên thần xấu xí là một cuốn sách cổ vũ cho những giấc mơ, dẫu biết rằng cô chỉ là một tài năng hiếm hoi trong hàng triệu người. *** Người phụ nữ trung tuổi bước khoảng chục bước lên sân khấu. Những bước chân vừa dè dặt, lo lắng lại vừa dứt khoát, quyết tâm. Nửa chừng, khi tiến vào giữa ánh đèn, bà đặt bàn tay trái lên hông trong chốc lát, một cử chỉ vừa mang vẻ duyên dáng cực kỳ nữ tính vừa có phần không phù hợp và vụng về. Bà mặc bộ váy viền ren với cái màu mà nếu châm chước lắm thì cũng chỉ gọi được là “vàng xỉn”, dáng vẻ và phần nào hình dạng của nó dễ gợi liên tưởng đến một chiếc khăn trải bàn dùng cho bữa trà chiều vào cái thời xa xăm khi phòng khách thường chỉ được dành cho những dịp “trọng đại”. Bà thắt quanh eo một chiếc nơ con bướm to tướng giống hệt kiểu nơ người ta vẫn thường đính trên các hộp sô cô la hạ giá tại cửa hàng giảm giá trong khu phố nghèo. Với vóc dáng thấp, đậm, quá cân, người phụ nữ ấy đã tạo nên một hình ảnh mà ít lâu sau bị so sánh với “miếng thịt lợn trên chiếc khăn lót cốc”. Bà có khuôn mặt vuông, mái tóc màu nâu đục bù xù như chưa chải, lốm đốm xám bạc như bị rắc quá nhiều muối tiêu. Bà đi tất màu tối, giày màu sáng. Trên cánh tay phải, bà đeo một chiếc đồng hồ rẻ tiền, mặt đồng hồ thô kệch xoay xuống dưới cổ tay, còn bàn tay phải bà nắm chặt chiếc micro cỡ đại trong cung cách gần như sẵn sàng trực chiến, như thể chiếc micro ấy là một thứ vũ khí mà bà sẽ không ngần ngại sử dụng để tự vệ. Cuốn Từ điển Oxford rút gọn định nghĩa “frump” là một danh từ chỉ “người phụ nữ ăn mặc luộm thuộm, lỗi mốt”. Khi bà dừng bước ở trung tâm sân khấu, cái hình dáng tầm thường ấy dường như trở thành định nghĩa sống của chính từ đó: một con người không chỉ toát lên vẻ già trước tuổi mà còn tạo ấn tượng là đã già sẵn ngay từ khi sinh ra. Chỉ cần nhìn bà người ta cũng có thể thấy được hình ảnh một người lao động chân tay sầu muộn đầy tham vọng đang trên đà lão hóa, với những ý tưởng và hoài bão quá xa vời so với môi trường của mình đến độ nếu không đậm chất ảo tưởng tới mức đáng buồn thì hẳn chúng đã khiến người ta thấy thật khôi hài. Rõ ràng bà là một người thường xuyên thất bại trong cuộc sống, và chỉ có sự pha trộn của lòng thương hại và ái ngại mới ngăn được 3.000 khán giả cuồng nhiệt tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Scotland khỏi phá lên cười rầm rĩ. Một bầu không khí thiếu thoải mái bao trùm - cảm giác hân hoan khi ý thức được một thảm họa sắp xảy ra trộn lẫn với sự phấn khích tọc mạch khi dự cảm được nỗi xấu hổ của một con người khác. Không ít người trong hội trường bồn chồn chuyển mình trên ghế, liếc mắt về phía bạn bè với vẻ hiểu biết; phương án giải quyết của họ chỉ là hoặc cười thật to, hoặc im lặng, hoặc quan sát không chớp mắt, hoặc chỉ hé mắt qua kẽ ngón tay hầu giảm thiểu tác động. Nó cũng không khác gì khi ta đứng trên lối đi dạo ven bờ trong một ngày bão giông, nhìn ra biển khơi nơi sóng nước sắp nuốt chửng những tay bơi tuyệt vọng. Quá khủng khiếp khó lòng chứng kiến, nhưng quá thu hút chẳng dễ quay mặt đi. Người phụ nữ đeo quanh cổ một sợi dây chuyền mảnh, ngay trên miếng bìa đề rõ các con số 43212. Bên cạnh chúng, trên tấm thẻ tên là dòng chữ “Britain’s Got Talent”. Ở giữa người phụ nữ và đám khán giả đang háo hức là một chiếc bàn rộng không khác gì bàn của nhân vật phản diện trong phim James Bond, phía sau bàn là ba vị giám khảo: hai đàn ông, một phụ nữ, một bộ tam đầu chế của Caesar[1] thời hiện đại, những người sẽ bật đèn tín hiệu quyết định các đấu sĩ trước mặt họ sẽ được sống hay phải chết. Người đàn ông có mái tóc ngắn sẫm màu ngồi ở phía cuối đoàn giám khảo gãi gãi chóp mũi, lơ đãng nghịch nghịch cây bút và hướng ánh mắt vào tờ thông tin đặt trước mặt. Ông hỏi với vẻ thông thạo công việc, “Vậy, tên bà là gì?” Câu hỏi được thốt ra không phải bằng giọng buồn chán mà với vẻ chỉ muốn chuyện này kết thúc - và kết thúc cho nhanh. Xét cho cùng, kéo dài cơn hấp hối cũng chẳng có nghĩa lý gì. “Tôi tên là Susan Boyle,” câu trả lời cất lên, chất giọng Scotland không lẫn vào đâu được, cao và rõ ràng. Kẻ thẩm vấn ăn mặc xuề xòa, đang hờ hững tựa vào lưng ghế ấy là Simon Cowell. Đó cũng chính là người đàn ông quyền lực nhất giới showbiz Anh, một tỉ phú với đế chế không ngừng mở rộng. Ông là hình ảnh của kẻ không có thói quen đối xử tử tế với kẻ ngốc, có thể thô lỗ đến cay độc với những màn trình diễn ông không đánh giá cao. Không lời sáo rỗng, không uyển ngữ - không khoan nhượng. Ngồi ngay cạnh ông là nữ diễn viên Amanda Holden. Vốn là một nhân vật nổi tiếng trên màn ảnh nhỏ nước Anh, vai trò đồng giám khảo của chương trình truyền hình tìm kiếm tài năng - cộng thêm phản ứng thường tràn đầy cảm xúc của cô trước các màn trình diễn cũng như chuyện đời của các thí sinh mà cô được nghe - đã nâng cô lên một tầm cao danh tiếng khác. Và mảnh ghép cuối cùng để hoàn thiện bộ ba ấy là Piers Morgan, cựu biên tập viên Fleet Street[2], từng có một sự nghiệp báo chí nổi như cồn ghi dấu ấn bằng các bài viết gây tranh cãi và sau đó xuất sắc lột xác thành một ngôi sao truyền hình. Tất cả đều có vai trò trong sự kiện sắp diễn ra, nhưng vào cái ngày tháng Giêng năm 2009 đó, không ai trong số họ có thể dự đoán được rồi sẽ có chuyện gì xảy ra. Cowell vẫn tiếp tục đưa ra các câu hỏi theo một cung cách dường như tỏ rõ rằng ông sẽ vận hết khả năng lịch sự và chuyên nghiệp cần thiết để giải quyết nhanh gọn việc này. “Được rồi, Susan, bà quê ở đâu?” ông hỏi. “Tôi quê ở Blackburn, gần Bathgate, Tây Lothian,” bà trả lời. Cho đến lúc này thì mọi việc đều ổn. Nhưng rắc rối đang trực chờ phía trước. “Đó có phải một thành phố lớn không?” Cowell tiếp tục. Không hẳn là Susan Boyle bị câu hỏi gây khó dễ, nhưng bà vẫn không trả lời ngay, có lẽ bà có cái cảm giác lo lắng mà ta hoàn toàn có thể hiểu được khi nhất cử nhất động của mình đang bị hàng nghìn khán giả trong hội trường và không biết bao nhiêu ống kính truyền hình đang dõi theo. “Đó là một tập hợp... đó là một tập hợp... ờ...” bà cất lời, rồi dừng lại như không biết nên nói thế nào, vật lộn suy nghĩ tìm cách diễn đạt câu trả lời thật rõ, “... một tập hợp các ngôi làng.” Rồi bà thêm vào một cách không cần thiết, “Về điểm đó tôi còn phải suy nghĩ.” Có lẽ bà đã mệt rồi. Xét cho cùng, bà đã phải bắt sáu tuyến xe buýt từ nhà mới tới được hội trường. “Và bà bao nhiêu tuổi, Susan?” Cowell hỏi. Câu trả lời vang lên, “Tôi 47.” Cowell, khi đó 49 tuổi, đảo tròn mắt. Có thể nghe thấy từ phía sau ông rộ lên cả tiếng cười lẫn tiếng lầm bầm chê bai của khán giả. Một tiếng huýt sáo độc địa vang lên đâu đó giữa đám đông. Các khán giả đang theo dõi trực tiếp tại nhà hát, và cả hàng triệu người ngồi tại nhà xem buổi thi tài của Susan Boyle sau đó, chắc hẳn đều e rằng mình đang xem một chương trình về các vụ tai nạn giao thông. Mời các bạn đón đọc Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí của tác giả John Mcshane.
Seoul Đến Và Yêu - Quỳnh In Seoul
Một cuốn sách du ký chắc chắn sẽ khiến cảm hứng Đi, Chơi và Yêu của bạn tăng vọt. Một cuốn sách nhất định sẽ khiến bạn “yêu Seoul như yêu một anh chàng mắt híp”! Vì sao ư? Vì Seoul trong cuốn sách này không chỉ là một thành phố, mà đó chắc chắn là một anh chàng! Một anh chàng ăn mặc rất sành điệu, có chút khó đoán nhưng cực kỳ galant, đã thế lại hay nói ngọt, điểm cộng rất lớn của “chàng” là chàng có đến cả tỉ thứ ngon lành và xinh đẹp, khiến bạn yêu một lần rồi là cứ muốn yêu mãi chẳng ngừng, chẳng muốn về, chẳng muốn yêu ai khác nữa! Cuốn sách được Quỳnh in Seoul viết từ 7 năm kinh nghiệm sống ở Hàn Quốc, với tất cả tình yêu dành cho thành phố mà Quỳnh “luôn giữ cho mình một lý do để quay lại”. Một cuốn guidebook vô cùng thiết thực, bởi chỉ cần có quyển sách này, bạn sẽ chinh phục cả Seoul, bạn sẽ có thể đi, ăn, chơi như một người dân bản địa. Nhưng đây tuyệt đối không phải là một cuốn guidebook thông thường – bởi bạn thử tưởng tượng xem – với nó, bạn có thể đến từng ngóc ngách, từng “hẻm xéo” thú vị của thành phố này. (Có cuốn sách nào sẽ “bật mí” cho bợi nơi có thể uống ly cocktail rượu gạo ngon nhất kia chứ?) Nó cho bạn rất nhiều trải nghiệm khác nhau về Seoul, đưa bạn đến khu Gangnam sầm uất và thượng lưu, nhưng cũng không quên chỉ cho bạn thấy khu ổ chuột dưới chân Cửu Long Sơn ngay gần đấy… Đây còn là cuốn “nhật ký Seoul” của Quỳnh – nơi mọi địa danh, mọi lễ hội và mùa đều có những ký ức và kỷ niệm rất riêng của tuổi trẻ. Bạn sẽ bắt gặp trong sách thứ tình yêu đầu đời trong sáng, lửng lơ trong những cơn mưa mùa hè vần vũ với chiếc ô trong. Câu chuyện về kem cá ấm áp và ngọt ngào. Và cả lần đi lạc đầu tiên, lần hẹn hò đầu tiên nữa… Bạn không chỉ khám phá Seoul thôi đâu, mà còn khám phá cả một phần tuổi trẻ của Quỳnh nữa đó.  Vậy thì, bạn đã sẵn sàng để yêu Seoul như yêu một anh chàng mắt híp chưa? À, và tại sao lại là mắt híp nhỉ? Bởi vì “Mắt của anh bé xíu, chỉ nhìn thấy mỗi một mình em, yêu một mình em xinh đẹp!” *** Thế là chúng ta đã kết thúc chuyến phiêu lưu này rồi, cảm giác của bạn lúc này thế nào? Bạn có thấy gắn bó, thân thương với đất nước này và còn rất lưu luyến, như thể chuyến đi này vẫn chưa đủ? Nếu bạn yêu một thành phố nào đó, hãy giữ cho mình một lý do để trở lại. Người ta vẫn nói, bạn sẽ hối tiếc vì những gì mình chưa làm, hơn là những gì mình đã làm. Bạn sẽ hối tiếc hơn vì chưa ăn những món mình muốn, đến những nơi mình muốn, làm những điều mình muốn và gặp những người mình muốn. Từng có bảy năm ở Hàn Quốc, vẫn còn rất nhiều mình chưa làm đối với đất nước này. Đúng hơn, mình luôn dành bản thân mình một "cái cớ" để luôn có thể trở lại Hàn Quốc, để luôn nghĩ về nơi này như "À, lần tới mình sẽ làm như vậy". Suy nghĩ "lần sau" ấy luôn là một loại động lực để đi tiếp, chứ không phải là một lý do để trở nên biếng nhác. Hãy trở lại một nơi bạn muốn, làm những điều bạn thích, cùng những người bạn yêu quý. Hãy "chừa" lại Cho mình một cái cớ Để quay lại một nơi mà bạn yêu, cho dù chỉ đơn giản là có thể đi bộ trên một con đường, nhìn ngắm người ta đi dạo, xem hoa, xem lá rụng. Hãy làm một quyển sổ nhỏ, bất cứ khi nào bạn hiền thấy cái gì thú vị trên mạng, hoặc một lý tưởng và chuyến phiêu lưu nào đó, hãy ghi lại. Nhắc nhở bản thân về những điều bạn muốn làm. Có một sự thật là cơ thể chúng ta ra đi theo năm tháng, nhưng đừng để điều đó làm cằn cỗi tâm hồn chúng ta theo thời gian. Hãy trở lại một nơi bạn yêu quý, vì bạn luôn luôn có một lý do. Hãy luôn tìm ra một thú vui trong cuộc sống, để có thể trông đợi vào ngày mai. Hãy mỉm cười nếu ai nói với bạn câu " tới đó mà chưa làm/đi/ăn cái này à, phí thế!" Hãy nói rằng "Ừ, lần này chưa đi được, nhưng lần tới sẽ làm!" Vì bạn sẽ trở lại mà, đúng không? Quỳnh in Seoul. TÁC GIẢ Quỳnh in Seoul • Tên thật là Vũ Hương Quỳnh, sinh năm 1993. Quỳnh từng sinh sống ở Seoul 7 năm. Trong thời gian đó, cô đã tốt nghiệp Đại học Hàn Quốc – Korea University, khoa Quốc Tế Học. • Quỳnh bắt đầu viết blog Quỳnh in Seoul từ tháng 3 năm 2015, nói về du học, du lịch, văn hoá, cuộc sống Hàn Quốc. Hiện nay, blog của Quỳnh đã có hơn 53.000 người theo dõi. • Năm 2015, Quỳnh cộng tác với Hoa Hoc Tro Magazine, ra mắt chuyên mục độc quyền "Thư từ Seoul" và đặc san sách "Hàn Quốc: đi về phía Bình Minh" chuyên về du học Hàn Quốc, và giành vị trí best-seller của #Fahasa trên toàn quốc trong suốt 7 tháng liên tiếp. Những tác phẩm của Quỳnh: "Trẻ và vụng về" "Hàn Quốc đi về phía bình minh" - cô là một trong những thành viên đóng góp để hoàn thiện tác phẩm này. Facebook: Quỳnh in Seoul Instagram:https://www.instagram.com/quynhinseoul Trang blog:https://quynhinseoul.ypworks.vn/ LINE: quynhpate Gmail:[email protected] Ask.fm:https://ask.fm/quynhpate   Mời các bạn đón đọc Seoul Đến Và Yêu của tác giả Quỳnh In Seoul.
Phải Sống - Van B. Choat
"Phải Sống"_Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi là một cuốn hồi ký kể về cuộc đời nhiều mất mát, đau thương của tác giả Vân B. Choat nhưng thay vì đầu hàng số phận, cô vẫn luôn nỗ lực để sống và vươn lên hết lần này đến lần khác. Ngôi mộ không phải là mục đích của cuộc đời. “Con sẽ sống bởi vì con là một người con gái và là một người chị, và ngôi mô không phải là mục đích của con.” (tr.221) Đối với một đứa trẻ mồ côi từ khi lên 4 trong chiến tranh, việc có thể sống sót thôi đã là một kỳ tích. Nhưng Vân Bích Choat còn làm được hơn thế nữa khi cô luôn mạnh mẽ, đầy nghị lực để không chỉ sống mà còn sống tử tế và đạt được nhiều thành công. Giờ đây, Vân viết Phải Sống như một lời khích lệ cho những ai đang cảm thấy tồi tệ trước cuộc sống khó khăn. Cuộc đời đã nợ Vân quá nhiều khi an bài cho cô một số phận là sự cộng gộp những bất hạnh của mọi đứa trẻ mồ côi nói chung và của những đứa trẻ mồ côi do chiến tranh nói riêng trên khắp thế giới này.  Những ký ức đầy ám ảnh về chiến tranh, sự đói nghèo, những trận bạo hành, lạm dụng của bác dâu, của dượng; hay trận đụng xe kinh hoàng từng hủy hoại khuôn mặt cô, . . Những “cơn ác mộng”, những Con Quái Vật ấy cứ thi nhau đổ trút xuống đời Vân, không cho cô có ít thời gian “nghỉ giữa hiệp” nào để lấy lại sức, tiếp tục chiến đấu.  Và sự ghẻ lạnh của họ hàng, sự dè bỉu, khinh rẻ của người đời dành cho trẻ mồ côi vẫn luôn song hành cùng Vân kể cả trong những khoảng lặng ngắn ngủi giữa hàng loạt biến cố. Không dừng lại ở đó, số phận lại có ý khác khi để cho một đứa trẻ với “ba ngôi sao chiến trận” xứng đáng được nghỉ ngơi tiếp tục bị dày vò bởi những trận bạo hành, sự day dứt về bà ngoại bị bỏ lại quê nhà kể cả khi Vân đã đặt chân đến Mỹ.  Và thường thì, nếu một người có tuổi thơ bất hạnh, họ sẽ được Trời “đền” lại cho một người chồng tuyệt vời, một gia đình riêng hạnh phúc. Vân cũng có một và chỉ một mối tình khiến cô có thể viết ra hẳn một cuốn tiểu thuyết lãng mạn.  Nhưng không có gì kéo dài mãi mãi, và hạnh phúc có thể biến thành nỗi đau chỉ trong một chớp mắt. Người yêu từ thời Trung học, người chồng tuyệt vời của cô sớm ra đi với căn bệnh nan y, để lại cho cô 2 đứa con trai thơ dại. Dù vậy, chưa bao giờ chúng ta thấy chút suy nghĩ từ bỏ cuộc sống nào ở người phụ nữ kiên cường này. Một mình nuôi dạy 2 con trưởng thành, cố gắng học tập, làm việc và đạt được nhiều thành công. Đó, là lời đáp trả tốt nhất của cô đối với nghịch cảnh đời mình. Không chỉ vậy, ở Vân còn có một điều khiến chúng ta khâm phục đó là cách cô nhìn cuộc đời và hành xử một cách đầy lý trí, tỉnh táo, cứng rắn nhưng không tuyệt tình, sắt đá. Trong vô vàn những tháng năm đau thương đó, Vân vẫn nhặt nhạnh ra được những mẩu kí ức hạnh phúc, yên bình hiếm hoi và lưu giữ trong tim tựa như cách cô cất giữ hình của cha mẹ cho đến tận bây giờ dẫu có những lúc tưởng chừng không biết phải đi đâu về đâu và đến cả tính mạng mình cũng không có gì bảo đảm. Cô vẫn sống, vẫn yêu thương bà ngoại và các anh em, vẫn bảo vệ em gái mình và chống trả lại nghịch cảnh một cách đầy quyết liệt, cứng cỏi.  Còn với những bàn tay từng nắm lấy tay mình, dẫu thỉnh thoảng những bàn tay ấy cũng chẳng dịu dàng gì, cô vẫn luôn biết ơn và đủ bao dung để hiểu cho những nỗi đau, khó khăn đã biến họ thành Quái Vật dù họ không muốn thế. Không hận người, không trách đời, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và luôn cố gắng sống tốt với tất cả sự mạnh mẽ, nghị lực, sự lạc quan là những gì chúng ta có thể tìm được trong Phải Sống - Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi.  Nếu cha mẹ vẫn còn bên chúng ta hay ít nhất là còn có một người để yêu thương, một người thân hay một mái nhà để nương náu thì chúng ta đã quá may mắn và đừng tuyệt vọng, hãy xốc lại tinh thần để đương đầu với mọi khổ đau, khó khăn trong đời. "Phải sống", vì chết chưa bao giờ là mục đích của đời người! Mời các bạn đón đọc Phải Sống của tác giả Van B. Choat.