Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tập Sách Về Những Chuyến Ngao Du

Tự Truyện Tác giả: Konstanstin Paustovsky Nguyên tác: Книга о жизни - Далекие годы (1946) Bản tiếng Nga: Паустовский К.Г.: Книга о жизни Bản tiếng Anh: Library Genesis: Konstantin Paustovsky - Story of a A Life vol. 1 - Childhood and Schooldays Trọn bộ: Library Genesis (libgen.is) Dịch giả: Tạ Hồng Trung (dịch từ bản tiếng Pháp 1963) Bản dịch Tiếng Việt này gồm 22/39 truyện nói về thời thơ ấu của chính tác giả trong tập 1 của bộ 6 cuốn tự truyện nổi tiếng. Nếu bạn yêu thích Paustovsky thì đây là cuốn sách không thể bỏ qua. Giới thiệu: Konstantin Georgiyevich Paustovsky (tiếng Nga: Константин Георгиевич Паустовский) (sinh ngày 31 tháng 5 năm 1892, mất ngày 14 tháng 7 năm 1968) là một nhà văn Nga nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ông được đề cử Giải Nobel Văn học năm 1965. Konstantin Paustovsky sinh năm 1892 tại thành phố Moskva của Đế quốc Nga. Bố ông là một nhân viên đường sắt gốc Cozak Zaporizhia, còn mẹ ông xuất thân từ một gia đình trí thức người Ba Lan vì vậy gia đình nhà Paustovsky sử dụng cùng lúc ba thứ tiếng, tiếng Nga, tiếng Ba Lan và tiếng Ukraina. Konstantin lớn lên ở Ukraina, ông học trung học tại Kiev và là bạn cùng lớp của Mikhail Bulgakov. Học được một thời gian thì bố của Paustovsky rời bỏ gia đình và ông phải đi làm gia sư thêm để có tiền ăn học. Năm 1912 Paustovsky trở thành sinh viên Khoa Lịch sử tự nhiên của Đại học Kiev, đến năm 1914 thì ông chuyển sang Khoa Luật của Đại học Moskva nhưng rồi Thế chiến thứ nhất nổ ra, ông phải bỏ dở việc học để đi làm nhân viên đường sắt giống bố mình. Năm 1915 ông ra mặt trận trên một chiếc tàu hỏa bệnh viện nhưng sau khi hai người anh đều chết trên mặt trận, Paustovsky trở về sống với mẹ ở Moskva một thời gian rồi lại ra đi để kiếm việc. Đầu tiên ông trở thành công nhân trong những nhà máy luyện kim ở Yekaterinoslav (nay là Dnepropetrovsk, Ukraina) và Yuzovka (nay là Donetsk, Ukraina). Đến năm 1916 Paustovsky lại chuyển đến thành phố Taganrog bên bờ Biển Azov để làm công nhân trong nhà máy hơi nước, rồi thử sức với nghề đánh cá cũng ở thành phố này. Năm 1917 ông trở về Moskva làm nghề nhà báo và chứng kiến thắng lợi của Cách mạng tháng Mười. Trong Nội chiến Nga, Paustovsky chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân. Sau đó ông lại tiếp tục đi khắp Liên bang Xô viết, từ Kiev đến Odessa, sau đó là Sukhumi, Batumi, Yerevan rồi Baku. Ông về Moskva năm 1932 và làm biên tập viên cho Hãng thông tấn Nga (GROWTH) trong vài năm trước khi trở thành nhà báo của tờ Pravda (Sự thật). 1911 – 1941 Paustovsky bắt đầu tập sáng tác khi còn ở trường trung học. Ông thử sức đầu tiên là với việc sáng tác thơ nhưng rồi cuối cùng Konstantin chỉ tập trung vào lĩnh vực văn xuôi. Đó là sau khi nhà văn nổi tiếng Ivan Bunin viết cho Paustovsky một lá thư góp ý trong đó có nói: "Tôi nghĩ thế giới thực sự của cậu là những tác phẩm văn xuôi. Nếu cậu thực sự chuyên tâm với lĩnh vực đó, tôi chắc chắn cậu sẽ làm được điều gì đó đáng kể". Những truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky là Na vode (Trên mặt nước) và Chetvero (Bộ tứ) viết năm 1911 và 1912. Những tác phẩm đầu tiên này chịu ảnh hưởng của Alexander Grin và các nhà văn thuộc "Trường phái Odessa" như Isaac Babel, Valentin Kataev hay Yuri Olesha. Trong thời gian sống ở Taganrog, Paustovsky bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên có tên Romantiki (Lãng mạn), tác phẩm này sau đó được in năm 1935. Đúng như cái tên của nó, tác phẩm là cuộc sống thời niên thiếu của tác giả, là những gì ông đã nhìn thấy và cảm nhận, một trong những nhân vật chính trong tiểu thuyết là ông già Oscar, một họa sĩ cả đời vừa phải chống lại những người muốn ông trở thành một thương gia, vừa phải vượt qua nỗi cô đơn để sáng tác. Các tác phẩm sau đó của Paustovsky như Razgovor o ribe, Azovskoe podpolie, Port v trave được ông viết để miêu tả quãng thời gian sống ở Taganrog. Trong giai đoạn Thế chiến thứ nhất, Paustovsky còn viết một số bản thảo dựa trên những cảm nghĩ về cuộc sống nơi tiền tuyến. Năm 1925, tác phẩm của Paustovsky lần đầu tiên được xuất bản, đó là cuốn Morskiye Nabroski (Phác thảo biển) nhưng không gây tiếng vang. Tiếp theo Phác thảo biển là Minetoza(1927) và cuốn tiểu thuyết lãng mạn Blistaiushie Oblaka (Những đám mây tỏa sáng) (1929). Trong thập niên 1930 Paustovsky đã đi thăm nhiều công trường xây dựng và viết một số tác phẩm ca ngợi công cuộc công nghiệp hóa đất nước Xô viết. Đó là truyện vừa Kara-Bugaz (1932) và Kolkhida (1934). Kara-Bugaz được đặc biệt khen ngợi với cốt truyện là chuyến phiêu lưu và khám phá vịnh Kara-Bugaz huyền bí năm 1847. Paustovsky tiếp tục đề tài lịch sử trong tác phẩm Severnaya Povest (Câu chuyện phương Bắc) (1938). Cuối thập niên này, nhà văn bắt đầu khai thác đề tài thiên nhiên Nga trong các tác phẩm như Letniye Dni (Những ngày hè) (1937) hay Meshcherskaya Storona (1939). Với Paustovsky, thiên nhiên là là một vẻ đẹp rất đa dạng có thể giúp con người thoát khỏi những ưu tư thường ngày và giúp họ tìm lại được sự cân bằng trong tâm hồn. Ý tưởng này của ông khá giống với nhà văn Mikhail Prishvin và chính Prishvin cũng từng viết rằng: "Nếu tôi không phải là Prishvin, thì tôi thích viết như Paustovsky". 1945 – 1968. Trong Thế chiến thứ hai Paustovsky là phóng viên chiến trường ở mặt trận phía Nam. Năm 1943 nhà văn viết kịch bản phim "Lermontov" (đạo diễn bởi A.Gendelshtein) cho Xưởng phim Gorky. Từ năm 1948 đến năm 1955 ông là giảng viên tại Trường viết văn Maxim Gorky. Năm 1955 ông cho ra đời tác phẩm có lẽ là thành công nhất trong sự nghiệp, tập truyện Bông hồng vàng (Золотая роза) ngợi ca bản chất lao động tốt đẹp của nhà văn. Trong giai đoạn từ 1945 đến 1963, Paustovsky dành rất nhiều thời gian để viết bộ tự truyện Povest o Zhizni (Chuyện kể về cuộc đời) bao gồm 6 quyển. Ông cũng sáng tác một số vở kịch hoặc truyện cổ tích như Chiếc nhẫn sắt. Từ giữa thập niên 1950, các tác phẩm của Paustovsky bắt đầu được thế giới biết đến, ông được mời đi thăm nhiều nước Châu Âu như Ý, Tiệp Khắc, Bulgari,... Năm 1965 ông được đề cử giải thưởng cao quý Giải Nobel Văn học nhưng cuối cùng giải đã lọt vào tay nhà văn Mikhail Sholokhov, tác giả của Sông Đông êm đềm. Ông cũng được Nhà nước Liên Xô trao tặng Huân chương Lênin vì những đóng góp cho nền văn học Xô viết. Tại Việt Nam, các truyện ngắn nổi tiếng của Paustovsky được tập hợp trong hai tập sách Bông hồng vàng và Bình minh mưa. Bằng Việt là nhà thơ, dịch giả tiêu biểu của Việt Nam có nhiều bản dịch và tác phẩm về Pautovsky, được biết đến nhiều nhất là bài thơ "Nghĩ lại về Paustovsky", trong đó có nhắc đến một số tiêu đề truyện ngắn của ông. Konstantin Paustovsky mất ngày 14 tháng 7 năm 1968 tại Moskva. (Theo Konstantin Georgiyevich Paustovsky – Wikipedia tiếng Việt) Mời các bạn đón đọc Tập Sách Về Những Chuyến Ngao Du của tác giả Konstantin Paustovsky & Tạ Hồng Trung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trên Ngọn Tình Sầu - Du Tử Lê
Bài thơ được viết năm 1967, linh hồn chính của bài thơ là một cô giáo - Lê Huyền Châu (Cháu ruột của Giáo Sư Lê Ngọc Trụ). Có thể coi đây là mối tình đầu của nhà thơ Du Tử Lê. Họ không đi đến hôn nhân được vì sự khác biệt giữa hai gia đình Nam Bắc. Năm 1975 nhà thơ Du Tử Lê định cư ở Mỹ, Huyền Châu còn ở lại Việt Nam. Hai mươi sáu năm sau, 1991, ông về thăm lại người yêu cũ, và có ý định đem Huyền Châu đi. Nhưng vì còn cha mẹ già . Cô từ chối. Hiện nay cô vẫn còn độc thân và vẫn còn cư ngụ tại căn nhà cũ ở Bến Chương Dương. Tùy bút Trên Ngọn Tình Sầu gồm có:  Tóc Trên Đầu Vẫn Từng Ngọn Riêng Tây Thư Viết Từ Garden Grove City Mỗi Chúng Ta Là Một Vùng Đất Trũng. Và, Những Bức Tranh Không Ngày Tháng, Không Chữ Ký Người Chối Từ Hai Chữ “Nhà Văn!” *** Du Tử Lê (sinh 1942) tên thật là Lê Cự Phách, là một nhà thơ Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Ông sinh năm 1942 tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, miền Bắc Việt Nam. Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa. Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai. Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn. Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Du Tử Lê cùng với Mai Thảo và Phạm Duy bị kết án tử hình vắng mặt trên đài phát thanh của Mặt trận giải phóng Miền Nam vì có thái độ chống đối cộng sản quyết liệt. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông sang tỵ nạn bên Hoa Kỳ. Hiện ông đang sống ở miền Nam California, tiếp tục nghề viết, và là nhân viên khế ước của đài tiếng nói Hoa Kỳ từ năm 1996. Ông cũng từng là chủ nhiệm các báo Việt ngữ Nhân chứng, Tay Phải, và Văn nghệ ở Hoa Kỳ. *** “đời tẻ nhạt liếm môi mình cũng nhạt. “tóc trên đầu vẫn từng ngọn riêng tây.” (thơ dtl.)   1. C hiếc xe hối hả như muốn chạy đua cùng mặt trời đang bị những sợi giây vô hình vội vã kéo lên cao. Nắng sớm từngchùm lọt qua cành, nhánh những rặng xoài nặng trái. Nhác trông, như những chiếc võng xanh ương, treo lửng, đu đưa bởi gió đồng. Trên những thửa ruộng lúp xúp chân lúa mới gặt, nước đọng từng vũng do sự nấn, nuối của những trận mưa rào mấy ngày trước. Xa xa, đôi ba cánh cò trắng soải chân, buồn bã, bay. Tựa chúng không chút bận tâm về việc hình ảnh chúng bị hắt lại từ những tấm kính không gian trong suốt, dựng theo chiều thẳng đứng; được chia lô bởi những thân cổ thụ cụt đầu, đã khô quắt; nhưng vẫn muốn phô diễn lần cuối, sự có mặt ngạo nghễ (dẫu tuyệt vọng) của mình. Nếu không kể tài xế, chiếc xe có bốn người cho ba hàng ghế. Hai phụ nữ. Một trung niên. Tóc ngắn. Bề ngoài, cô cho thấy là một người đã miễn nhiễm với tất cả mọi biến động thời thế, xã hội. Nhưng đôi mắt nửa nghiêm khắc, nửa tinh anh của cô, lại cánh giác những ai sáng ý rằng, đó là một người nhạy cảm mà, cái tâm từ của cô, lúc nào cũng sẵn sàng đào những hố, hầm cho cô sập bẫy-xót-xa. Ta cũng có thể nói, đó là người phụ nữ được sinh ra để quên mình, sống cho kẻ khác. Người còn lại, tóc dài. Còn trẻ. Nhưng dường như mái tóc của cô cũng tự hiểu rằng, nó không đủ tiềm năng cạnh tranh với chiều cao của cô. Chiều cao của một cây…liễu. Đó là một phụ nữ có nét đẹp sang cả của khối…nước đá. (Loại nước đá không tan dù cho bạn có phơi nó dưới ánh nắng hay, sức nóng ở độ nào!) Họ rì rầm nơi băng ghế áp chót. Chỉ trời hiểu họ nói gì, với nhau!?! Nơi băng ghế ngay sau lưng tài xế, là phần đất “quy hoạch” của hai người đàn ông. Người trẻ, ở khoảng tuổi trên dưới dưới bốn mươi. Nhưng những nếp nhăn đã thấp thoáng, không chỉ trên vầng trán bướng bỉnh mà, cả nơi đuôi mắt. (Tôi xin nói riêng với bạn mà không sợ sai rằng, đó là loại thanh niên đánh bạn sớm với những con rết nhiều chân.) ... Mời các bạn đón đọc Trên Ngọn Tình Sầu của tác giả Du Tử Lê.
Đường Xa Nắng Mới - Nguyễn Tường Bách
Đường Xa Nắng Mới là tập bút ký mới nhất của Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách, tập hợp những bài viết ký sự du hành của tác giả đến nhiều xứ sở lạ kỳ trên thế giới. Bắt đầu từ câu chuyện về ngôi làng nhỏ yên bình của mình ở nước Đức; bằng lối kể chuyện đầy mê hoặc, tác giả đã dẫn dắt người đọc du hành qua nhiều vùng đất lạ mà điểm dừng chân cuối cùng là mãi tận Kailash (Ngân Sơn) - ngọn núi thiêng được sùng bái nhất trên quả địa cầu. Hiếm khi đến những thành phố hoa lệ, hành trình của tác giả thường là những nơi “thâm sơn cùng cốc”, ví như bám theo lộ trình ngày xưa của đại sư Huyền Trang qua các sa mạc ở phía Tây Trung Quốc; tới nhiều điểm trên “con đường tơ lụa” nối liền Á - Âu; đi xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ hay lang thang trên những miền đất lạnh lẽo ở Bắc Âu. Đắm mình vào trang sách, độc giả như được cùng ông cảm nhận sức nóng của “Hỏa Diệm Sơn”; lắng nghe tiếng sóng vỗ trên Hồng Hải; hồi hộp chờ ngắm núi lửa thức giấc tại Sicilia hay đón mặt trời lúc nửa đêm tại Mũi Bắc (North Cape) - Na Uy. Không dừng lại ở những câu chuyện “đường xa xứ lạ”, sức cuốn hút mãnh liệt từ những trang viết của Nguyễn Tường Bách còn là nhiều phát hiện bất ngờ và thú vị về mỗi xứ sở, kết tủa từ trải nghiệm và tri thức. Ngôi đền Phật giáo lớn nhất thế giới mang đậm nét của Kim Cương Thừa lại nằm ở Indonesia-quốc gia có cộng đồng hồi giáo đông nhất thế giới. Cuộc chiến thành Troy lại không diễn ra trên đất Hy Lạp mà là Thổ Nhĩ Kỳ. Amsterdam là thành phố của những người không ưa khuôn phép, nơi mà người ta “sẵn sàng phá vỡ mọi lề thói, dám hợp thức hóa những điều cấm kỵ”. Nhờ vậy mà “lầu xanh, lầu hồng và cả khu vực tiêu thụ bạch phiến được ghi chính thức trên bản đồ thành phố”. Thăm Bồ Đào Nha, tác giả “chứng minh” một cách thuyết phục rằng giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Francisco de Pina chính là người đã sáng tạo ra chữ quốc ngữ chứ không phải Alexandre de Rhodes, một nhà truyền giáo người Pháp - học trò của ông. Đường Xa Nắng Mới xứng đáng có vị trí trang trọng trên kệ sách của những người đam mê du lịch thám hiểm, tâm linh. Ngay cả những ai ít xê dịch nếu suy ngẫm vẫn có thể chiêm nghiệm ra những điều tâm đắc. Đơn giản, với người viết, Đường Xa Nắng Mới là một tập bút - ký - tư - tưởng. *** Nguyễn Tường Bách, sinh năm 1948 tại Thừa Thiên Việt Nam Du học tại Đức năm 1967 Tốt nghiệp kỹ sư xây dựng năm 1975 Tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ thuật (Dr.-Ing) năm 1980 Từ 1980-1992: làm việc cho công ty ABB tại Đức Từ 1992-2010: Giám đốc một công ty xuất nhập khẩu tại CHLB Đức Từ 2010: nghỉ hưu Nguyễn Tường Bách là tác giả và dịch giả của những cuốn sách nổi tiếng đã xuất bản và tái bản nhiều lần tại Việt Nam. Ông vốn nghiên cứu khoa học, chuyển sang kinh doanh, rồi làm công tác dịch thuật và viết sách nhưng với ông thì “tôi cảm thấy hài lòng nhất với vai trò của một người viết. Công việc này tôi làm tốt hơn mảng khoa học, kinh doanh và dịch thuật bởi qua đó tôi tiếp cận được nhiều người nhất”. Ông chia sẻ: “Tôi có may mắn sống trong những nền văn hóa khác nhau. Tôi mong những người trẻ có cơ hội sống trong những nền văn hóa khác trong một khoảng thời gian hoặc dài hoặc ngắn, nói tiếng nói của người ta, tìm hiểu văn hóa của người ta, qua đó cảm nhận được tính cách của người Việt Nam rõ ràng hơn, khách quan hơn. Ra ngoài không phải là xa Việt Nam. Đi để nhìn lại, để tạo cơ hội nhìn rõ con người mình nhiều hơn. Có xa gia đình mới thấy yêu gia đình của mình thế nào, có xa đất nước mình mới thấy yêu đất nước mình như thế nào.” Tác phẩm đã xuất bản ở Việt Nam Đối diện cuộc đời - Jiddu Krishnamurti, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Phụ nữ, 2004 Con đường mây trắng – Anagarika Govinda, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Trẻ, 2009 Truyện cổ Phật giáo Tây Tạng: Sư tử tuyết bờm xanh - Sury Das, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Tp.Hồ Chí Minh, 2009 Mộng đời bất tuyệt, Nxb Văn hóa – Văn nghệ, 2011 Con đường mây trắng – Anagarika Govinda, Nguyễn Tường Bách dịch, Nxb Phương Đông, 2011 Đường xa nắng mới, Nxb Hội Nhà văn, 2012 Thiền trong nghệ thuật bắn cung – Eugen Herrigel, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Mộng đời bất tuyệt, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Đêm qua sân trước một cành mai, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Lưới trời ai dệt?, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 Mùi hương trầm, Nxb Thời đại & Phương Nam Book, 2013 *** Tập bút ký bạn đọc đang cầm trên tay là tập hợp những bài viết nhân những chuyến du hành của tác giả tại nhiều nơi trên thế giới. Một số bài trong này đã được đăng tải trên các báo và tạp chí xuất bản tại Việt Nam trong những năm gần đây. Đặc biệt, trong phần 2 tập bút ký là những bài viết về chuyến hành hương Ngân Sơn (Kailash), được thực hiện trong mùa hè 2011. Nếu những trải nghiệm trong tập sách này gây được chút thú vị và cảm khái cho người đọc thì đó là niềm vui cao quý cho tác giả. Cuốn sách này được ra đời là nhờ: – Túc duyên kết hợp thành những sự kiện mà sau khi chúng hình thành, tác giả mới kinh ngạc nhận ra. – Những con người đã gặp trên vạn nẻo đường mà tác giả không thể kể hết. – Kinh sách, thông tin, tài liệu về các điều được nhắc đến trong sách. Các nguồn tư liệu quý báu đó được tìm thấy trên đường đi, bằng các cuộc trò chuyện, trong kho sách báo hay trên mạng của những ân nhân vô danh. - Bruno Baumann, nhà thám hiểm người Áo, với những tác phẩm giá trị về Tây Tạng và Ngân Sơn mà tác giả đã học được nhiều điều bổ ích. Bruno Baumann cũng cho phép tác giả được sử dụng tấm ảnh độc đáo của ông để làm bìa cho cuốn Đường xa nắng mới này. - Đỗ Thị Vinh, người bạn đời đã cùng chia sẻ tất cả trên đường du hành và cũng là người đọc lại, góp ý và chỉnh sửa bản thảo cho tác giả. Tác giả trân trọng bày tỏ lòng biết ơn. Nguyễn Tường Bách   Mời các bạn đón đọc Đường Xa Nắng Mới của tác giả Nguyễn Tường Bách.
Bè Tre Việt Nam Du Ký - Tim Severin
Bè tre Việt Nam du ký là một câu chuyện khác thường kể về Tim Severin cùng thủy thủ đoàn đã tạo nên lịch sử hàng hải bằng cách vượt Thái Bình Dương trên một chiếc mảng tre. Mục đích của họ là thử nghiệm lý thuyết cho rằng những người đi biển châu Á đã tới được châu Mỹ vào khoảng hai nghìn năm trước đây. Kinh nghiệm của họ đã cung cấp cho các nhà “thám hiểm xa lông” về một trong những chuyến đi biển đáng kể nhất từ trước tới nay, và đưa ra một viễn cảnh độc nhất, đó là cái gì sẽ xảy ra khi các lý thuyết lịch sử được đưa ra thử nghiệm tới nơi tới chốn.  *** "Bè tre Việt Nam du ký vô cùng thú vị vì Severin là một nhà văn giàu kinh nghiệm đồng thời cũng là một thủy thủ. Ông biết cách chế biến các câu chuyện, nhào nặn cho nó hồi hộp hết mức có thể với những chuyện gặp cướp biển và cá voi ăn thịt. Việc chọn tre nứa trong rừng rậm nhiệt đới Việt Nam và chằng buộc các tấm buồm, nỗi phấn khích khi tóm được một con cá lớn cũng như thất vọng khi thấy cá độc không ăn được - đó chỉ là một vài cảnh đáng nhớ trong bản tổng kết của nhà văn về chuyến đi khó nhọc, hàng tuần lễ thủy thủ đoàn dầm dề trong nước. Ngày qua ngày, bão kế tiếp bão, sự sinh tồn của chiếc mảng trở thành vấn đề cấp thiết nhất. Vậy nó kéo dài được bao lâu trước khi tre nứa ngậm đẫm nước, trước khi các mối lạt mây buộc bằng tay mục ruỗng và tuột mất?"  - New York Times Book Review Mời các bạn đón đọc Bè Tre Việt Nam Du Ký của tác giả Tim Severin.
Hồi Ký Chính Trị - Dr Mahathir Moham
Phương Tây gọi ông là kẻ cứng đầu, phân biệt chủng tộc, bài do thái và ngạo mạn. Ngược lại, các nước đang phát triển lại vinh danh nguyên Thủ tướng Malaysia Tun Dr Mahathir Mohamad là một lãnh tụ nhìn xa trông rộng, một nhà lãnh đạo hiếm thấy, người đã đem lại cho nhân dân các nước thế giới thứ ba lý do để tự hào về dân tộc mình. Ngay cả những người chỉ trích gay gắt nhất cũng không thể chối bỏ sự thật rằng ông đã đem lại dũng khí cho những nước ít được chú ý đến nhất, chỉ cho họ con đường đến tương lai tương sáng hơn. Trong sự nghiệp chính trị của ông không phải là không có những tranh cãi. Trong 22 năm lãnh đạo đất nước, tên tuổi ông gắn liền với hai cụm từ: Độc tài và Nhà lãnh đạo truyền cảm hứng. Rất ít nhà lãnh đạo có khả năng chuyển đổi một đất nước mà nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thành một cường quốc công nghiệp – càng ít người có khả năng thành đạt được thành tựu này chỉ trong vòng hai thập kỷ ngắn ngủi. Trong cuốn sách này, với sự chính xác của một nhà giải phẫu, Dr Mahathir đã đưa ra những phân tích sâu sắc về lịch sử phát triển dân tộc và vai trò của ông trong công cuộc định hình một nước Malaysia hiện đại. *** Tác giả: Dr Mahathir Mohamad là cựu Chủ tịch Đảng UMNO, nguyên Thủ tướng thứ tư của Malaysia giai đoạn 1981 - 2003. Ông cũng từng đảm nhiệm vị trí Bộ trưởng Giáo dục; Bộ trưởng Công nghiệp & Thương mại Quốc tế. *** Tôi trở thành Thủ tướng thứ tư của Malaysia vào ngày 16 tháng 7 năm 1981. Giống như các nhà lãnh đạo tiền nhiệm trong Đảng Tổ chức dân tộc Mã Lai thống nhất (UMNO), tôi từng mơ ước trở thành thành viên trong Nội các, thậm chí mơ trở thành Thủ tướng. Nhưng tôi không thể tin rằng có ngày giấc mơ đó sẽ trở thành hiện thực. Trước giây phút đứng đối diện Quốc vương chờ tuyên thệ, tôi vẫn là ứng viên có rất ít khả năng đạt được vị trí cao nhất đất nước này. Những người có lá phiếu quyết định luôn lưỡng lự khi bầu cho tôi vì tôi không xuất thân từ tầng lớp quyền quý Mã Lai. Tunku Abdul Rahman Putra Al-haj, Thủ tướng đầu tiên của Malaysia là một thái tử, con trai của Tiểu vương Kedah (nay là một bang nằm ở vùng đông bắc bán đảo Malaysia). Ông cũng là nguyên Phó Ủy viên Công tố và Thanh tra Giáo dục ở bang này. Dòng họ Tunku được tất cả các tầng lớp xã hội nhắc đến đầy thiện cảm và thường có nhiều người đứng đầu các Bộ trong các ngành dân chính ở Kedah. Con đường tiến tới chức vụ Thủ tướng của ông không hề đi ngược với những tục lệ xã hội Mã Lai thời đó. Thủ tướng thứ hai của Malaysia, Tun Abdul Razak Hussein xuất thân từ gia tộc có nhiều chính khách xuất chúng. Cha ông là công chức cấp cao trong chính quyền bang Pahang, một bang nằm ở vùng bờ biển phía đông của bán đảo Malaysia. Bản thân Tun Razak cũng là ngoại trưởng bang Pahang trước khi ông tham dự nền chính trị quốc gia. Sau khi Liên bang Mã Lai được thành lập năm 1948, ông trở thành Thủ hiến bang. Nắm giữ vị trí thứ hai trong đảng UMNO, ông trở thành Phó Thủ tướng và là người kế nhiệm đương nhiên của Thủ tướng Tunku. ... Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Chính Trị của tác giả Dr Mahathir Moham.