Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thiên Đường Tiền Xu Tập 3

Thiên đường Tiền xu có đối thủ cạnh tranh! Đó là điều chẳng ai ngờ tới, bởi bánh kẹo nơi đây mang sức mạnh thay đổi cả vận mệnh người sở hữu chúng. Nhưng Cửa hiệu Tai ương đã xuất hiện. Ma thuật hay không thì bánh kẹo ở đây cũng không hề kém cạnh. Chỉ có điều, trong khi bánh kẹo Thiên đường tiền xu đưa đường chỉ lối con người ta đến những gì tươi sáng, thì các món hàng của Cửa hiệu tai ương lại có thể khơi dậy những mảng tối sâu nhất trong tâm hồn mỗi người. Để rồi, một cuộc đấu kẹo vô cùng ly kỳ  bắt đầu, mở ra một thế giới ngỡ chỉ có trong mơ, ma mị và lôi cuốn ta tới tận trang cuối. *** Hiroshima Reiko, sinh tại tỉnh Kanagawa, Nhật Bản và là một tác giả sách thiếu nhi lừng danh. Năm 2005, bà đoạt giải Juniorboukenshousetsu với tác phẩm Suiyou no mori. Bà cũng là tác giả của vô số các tác phẩm văn học thiếu nhi, kỳ ảo nổi tiếng khác. jyajya, sinh tại Fukuoka, từng làm nhân viên cho một công ty phát triển các ứng dụng trên điện thoại. Năm 2011, jyajya bắt đầu ra làm thiết kế tự do và hiện đã lấn sân sang cả lĩnh vực vẽ minh họa. *** BÁNH XỐP CÓ NHÂN ĂN GIẤC MƠ Nobutaka đang ngồi trên xe buýt để tới bệnh viện. Ngay khi vừa nhận được điện thoại báo Marie phải nhập viện, Nobutaka liền phi ngay ra khỏi văn phòng. Nhưng giờ, cả khi đang tới chỗ con gái, lòng anh vẫn lo lắng khôn nguôi. Đối với Nobutaka, cô con gái Marie vừa tròn bốn tuổi là bảo bối không gì sánh nổi. Cô con gái rượu đáng yêu vô ngần của anh. Nhưng vài tuần nay, đêm nào Marie cũng bị những cơn ác mộng khủng khiếp hành hạ. Trong mơ, con bé bị những thứ đáng sợ rượt đuổi, bị ăn thịt, bị giày xéo. Đến bây giờ thì Marie vô cùng khiếp sợ mỗi khi phải đi ngủ. Nếu có ngủ con bé cũng lập tức hét lên rồi choàng dậy ngay. Sắc mặt Marie ngày một xanh xao, con bé gầy xọp cả đi. Lần này nhập viện chắc chắn cũng do thiếu ngủ. Nobutaka xót con lắm. Giá mà anh có thể chịu thay con thì tốt biết bao. Mà tại sao con bé lại suốt ngày gặp ác mộng vậy nhỉ? Đúng là sống trên đòi ai cũng một hai lần mơ thấy ác mộng, nhưng mơ thấy ác mộng hằng đêm như Marie thì kỳ lạ quá. Nghĩ thế nào cũng thấy lạ. Con bé chưa từng trải qua chuyện gì đáng sợ, anh cũng chưa cho con xem phim kinh dị bao giờ. Rốt cuộc là vì sao? Vì lo cho con gái mà gần đây Nobutaka không thể tập trung vào công việc. Hôm nay anh cũng phạm lỗi và bị sếp mắng. Phải làm gì đó thôi. Nhưng làm gì mới được chứ? Đúng lúc Nobutaka đang đăm chiêu suy nghĩ thì có ai đó tới bắt chuyện với anh. “Hình như anh đang gặp chuyện gì đó phiền lòng?” Nobutaka quay lại thì thấy ngồi ở ghế sau là một người phụ nữ vô cùng to lớn vận kimono. Mái tóc người này trắng muốt nhưng khuôn mặt lại trẻ trung, người phụ nữ vừa nở một nụ cười kỳ lạ vừa nhìn Nobutaka. Nobutaka giật mình. Chuyện gì thế này? Sao anh cứ có cảm giác như mình đang bị áp chế vậy. Người phụ nữ lại nhoẻn miệng cười tươi hơn nữa “Liệu anh có muốn hóa giải nỗi muộn phiền đó không? Nếu được hay là ghé cửa tiệm của ta đi? Sao, không tốn nhiều thời gian đến vậy đâu. Của tiệm của ta ở ngay bến xe buýt tiếp theo thôi.” “Khô... không, tôi đang đi tới bệnh viện...” Người phụ nữ nhìn Nobutaka chằm chằm. Nobutaka cảm thấy đầu óc trống trơn. Đến khi nhận ra anh đã thấy minh xuống xe mất rồi. Cứ vậy Nobutaka đi theo người phụ nữ vào một con đường nhỏ và tối. Ớ đó có một tiệm bánh kẹo nhỏ. Những món bánh kẹo bày la liệt, sáng lấp lánh. Hẳn Marie sẽ thích chúng lắm đây. Người phụ nữ quay người lại. “Chào mừng đến với Thiên đường tiền xu, vị khách may mắn của ta. Vậy quý khách đang phiền muộn vi điều gì thế? Dù là chuyện gì xin cứ nói với chủ tiệm Beniko ta đây.” Nobutaka chợt nghĩ. Không biết chừng ở đây lại có thứ mình muốn ấy chứ? “Có thứ gì xua đuổi được những cơn ác mộng không ạ?” Nobutaka rụt rè hỏi thử, vậy mà bà chủ tiệm gật đầu rõ mạnh. “Thế thì Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là hợp nhất rồi.” Nói đoạn, bà chủ tiệm lấy một chiếc bánh xốp từ cái thùng đặt trong góc ra. Chiếc bánh có hình đồng tiền cổ, trông vô cùng ngon mắt. Trên một mặt bánh màu nâu vàng còn có cả hình con thú kỳ dị. Con thú bốn chân hình thù thì giống chó lai sư tử đá gác cổng đền, nhưng mũi lại dài như mũi voi và còn có cả bờm sư tử nữa. “Đây là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ chứa đựng linh lực của thần thú Baku chuyên ăn ác mộng. Chỉ cần ăn bánh này vào, giấc mơ có đáng sợ hay tồi tệ cách mấy cũng sẽ bị đuổi đi hết.” Nobutaka nín thở. Là nó! Nó chính là thứ mình, à không, Marie cần lúc này! “Tôi, tôi mua!” Dù nó có giá một triệu yên mình cũng mua! Nobutaka dứt khoát lôi ví ra khỏi cặp, làm tấm ảnh Marie phất phơ rơi xuống. Bà chủ tiệm nhặt tấm ảnh lên. “Ôi chà, cô bé dễ thương làm sao.” “Cảm ơn chị. Con gái tôi đấy. Con bé vừa tròn bốn tuổi.” “Ồ, ra là vậy. Đúng độ tuổi đáng yêu nhất đấy nhỉ... Nhưng mà đáng thương thay...” “Chị nói vậy là ý gì?” “Cô bé đang bị nguyền rủa đấy.” “Sao cơ!” Nobutaka suýt nữa thì hét toáng lên “Tự nhiên chị nói cái quái gì vậy?” Song ngay khi nhìn thấy khuôn mặt bà chủ tiệm, anh chẳng cất nên lời nữa. Nobutaka chợt hiểu ra. Rằng bà chủ tiệm đang nói sự thật. “Chị bảo Marie nhà tôi đang bị nguyền rủa ạ?” “Đúng vậy. Nhìn bức ảnh này ta thấy có tà khí... Người hay gặp phải những giấc mơ đáng sợ có phải là cô bé này chăng?” “Vâng, đúng vậy. Gần đây bỗng nhiên con bé thường xuyên gặp phải ác mộng. Mà đêm nào cũng vậy mới khổ chứ! Nhưng... nhưng mà bị nguyền thì... Marie mới chỉ bốn tuổi thôi mà? Sao lại có kẻ nào ghét con bé đến thế được!” “Những oán hận, căm ghét của con người có thể trỗi dậy từ những chuyện khôn lường, gây hại cho người không ngờ tới đấy.” Giọng bà chủ tiệm nhẹ bẫng. “Với những kẻ đi nguyền rủa người khác, đối phương có là trẻ con hay không cũng chẳng có nghĩa gì đâu... Hừm, lời nguyền này không phải do kẹo của tiệm ta. Có lẽ là Bánh nướng búp bê nguyền rủa của Cửa hiệu tai ương, hoặc là...” Bà chủ tiệm bắt đầu lẩm bẩm nói chuyện một mình, song Nobutaka đã không còn nghe thấy gì nữa. Cơn giận trong anh đang dâng lên cuồn cuộn. Đứa nào! Đứa nào đã làm chuyện này! Lại dám nguyền rủa Marie của tao, không thể tha thứ được! Tao sẽ trả thù! Tao sẽ tìm ra mày rồi cho mày mất xác luôn! Nobutaka siết chặt nắm đấm. Ô, bà chủ tiệm lên tiếng vẻ thích thú. “Chuyện này hiếm đây. Có vẻ như quý khách đã có một mong ước mới nhỉ. Một ước muốn mạnh mẽ không hề thua kém ước muốn ban đầu... Giờ quý khách muốn trả thù sao?” “Dĩ, dĩ nhiên rồi ạ!” “...Ta cũng có thể giúp quý khách cả việc đó nữa đấy.” Bà chủ tiệm khẽ nói, đoạn lấy từ chiếc tủ lạnh nhỏ trong góc tiệm ra một chai thủy tinh. Cái chai trông giống chai nước soda chanh, bên trong sóng sánh thứ chất lỏng màu vàng. Bà chủ tiệm lắc nhẹ, trong chai liền nổi lên những bọt đỏ nhìn y như lửa cháy vậy. “Đây là Nước gừng có ga phục thù. Thứ đồ uống này sẽ giúp quý khách tìm ra kẻ đã tấn công mình và trả đũa lại hắn. Dĩ nhiên ta đảm bảo nó sẽ có tác dụng. Uống thứ này nhất định ước muốn của quý khách sẽ thành hiện thực.” Mắt Nobutaka sáng rực lên trước những lời thì thầm của bà chủ tiệm. Có thứ này rồi mình sẽ bắt kẻ đã làm Marie khổ sở phải trả giá! Dĩ nhiên anh phải mua cả món này rồi. Thế nhưng khi Nobutaka định vươn tay ra với lấy cái chai thì bà chủ tiệm lại bất ngờ nói. “Như vậy là quý khách chọn mua Nước gừng có ga phục thù chứ không phải Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ đúng không?” “Hả?” Nobutaka chớp mắt lia lịa. Anh chẳng hiểu gì cả. Bà chủ tiệm chậm rãi nói tiếp. “Tiệm ta không bán hai món hàng cùng một lúc. Quý khách chỉ có thể chọn một trong hai, Nước gừng có ga phục thù hoặc Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi.” “Chuyện, chuyện này...” Nobutaka cuống lên. Anh thử nài nỉ xem có cách nào mua cả hai thứ không nhưng bà chủ tiệm dứt khoát từ chối. Nobutaka rên rỉ nhìn hai món đồ trước mắt. Nước gừng có ga phục thù và Bánh xốp có nhân án giấc mơ, mình buộc phải chọn một trong hai sao? Nước gừng có ga phục thù khiến Nobutaka không cưỡng lại được. Anh không thể kìm được ý nghĩ hung bạo muốn trả thù kẻ đã nguyền rủa Marie. Chỉ cần có Nước gừng có ga phục thù này, ước muốn đó sẽ thành hiện thực. Vậy nhưng... Nobutaka cố nén lòng căm hận, nhìn về phía Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Thứ Marie cần là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ. Nước gừng có ga phục thù có thể thay mình trừng trị kẻ đã nguyền rủa Marie, nhưng chưa chắc đã giúp con bé hết gặp ác mộng. Phải mua Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ thôi. Cuối cùng Nobutaka cũng hạ quyết tâm. “Cho tôi Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ.” “Vâng. Nó có giá năm mươi yên. Xin hãy trả bằng đúng đồng năm mươi yên.” Nobutaka nhìn vào chiếc ví đựng tiền xu. Vừa hay chỉ còn sót lại đúng một đồng năm mươi yên, anh liền đưa nó cho bà chủ tiệm. “Đúng là đồng xu của ngày hôm nay rồi, đồng năm mươi yên năm Chiêu Hòa thứ sáu mươi. Ta xin nhận. Bánh này giờ là của quý khách.” Bà chủ tiệm gói món Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ vào tờ giấy màu hoa anh đào tuyệt đẹp rồi đưa nó cho Nobutaka. Sau khi Nobutaka cẩn thận cất chiếc bánh xốp vào trong cặp, bà chủ tiệm liền nói. “Quý khách vẫn còn lưỡng lự gì chăng?” “Sao cơ ạ?” “Có phải quý khách vẫn hơi lăn tăn, lẽ ra mình nên chọn Nước gừng có ga phục thù thì hơn?” Bị nói trúng tim đen rồi. Bà chủ tiệm mỉm cười với Nobutaka đang đỏ bừng mặt. “Lời nguyền hoặc bùa chú một khi bị phá giải sẽ yểm lại chính chủ nhân của nó. Kẹo của tiệm ta nhất định sẽ phá giải được lời nguyền yểm lên con gái quý khách. Sau đó chuyện thế nào. Chắc quý khách cũng hiểu rồi chứ. “Ồ!” “Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ là một sự lựa chọn đúng đắn rồi. Cảm ơn quý khách đã mua hàng ở tiệm ta.” Bà chủ tiệm vừa cúi đầu, nơi ấy chợt tối om. Rầm. Sau một cơn rung lắc nhẹ, Nobutaka tỉnh lại. Rồi anh giật mình. Thế nào mà anh lại đang ở trên xe buýt rồi. Vội nhìn ra ngoài cửa sổ, bệnh viện nơi Marie nhập viện đã ở trong tầm mắt. Vậy vừa rồi là mơ chăng. Tuy hơi thất vọng nhưng Nobutaka vẫn mở cặp ra xem thử. Song lần lày anh thật sự nhảy dựng lên. Trong cặp anh vẫn có gói nhỏ bọc giấy màu hoa anh đào. Đúng là Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ rồi! Đó không phải là mơ! Vừa tới điểm dừng trước bệnh viện, Nobutaka liền phi xuống xe, phóng như bay tới phòng bệnh. Marie đang nằm rũ ra trên giường. Trông con bé còn tệ hơn cả sáng nay. Mắt con bé thâm tím lại, mặt thỉ trắng bệch như tờ giấy. Vợ anh, Sayomi đang ngồi bên cạnh dỗ dành con bé ngủ, song con bé mếu máo mà rằng “Con sợ ngủ lắm”. Nhìn thấy cảnh đó Nobutaka chỉ chực khóc. Song anh cố nặn ra một nụ cười rồi tới bên Marie. Vừa thấy Nobutaka, Marie liền tươi tỉnh hẳn lên. “Bố!” “Anh tới đấy à?” Sayomi cũng cất giọng như thể đã nhẹ nhõm được đôi phần. “Ừ, phải đến chứ. Marie, con ổn không?” “Ổn sao được! Họ tiêm con bé hai lần rồi đấy!” “Thế à, khổ thân con tôi quá. Nhưng không sao, bố mua bánh đến đây rồi. Một loại bánh vô cùng đặc biệt chỉ dành riêng cho Marie. Con ăn cái này rồi nhất định sẽ không gặp phải những giấc mơ đáng sự nữa.” “Bố nói dối.” “Thật đấy, bố hứa... Con cứ ăn thủ mà xem?” “... Vâng.” Nobutaka đưa Bánh xốp có nhân ăn giấc mơ cho Marie. Vừa cắn một miếng, mắt Marie đã sáng lên. “Ngon quá!” “Vậy hả. Tốt rồi. Của Marie cả đấy, con ăn hết đi.” “Cảm ơn bố ạ.” Marie nhồm nhoàm đầy một miệng bánh xốp, nức nở khen ngon quá, ngon quá. Lâu lắm rồi con bé mới lại ăn ngon miệng thế này... Nhìn bộ dạng ấy của cô con gái, Sayomi cũng phải tròn mắt. “Bánh gì... vậy mình?” “Bánh có phép thuật đấy. Nó chỉ dành riêng cho Marie thôi.” Marie nhanh chóng chén sạch cái bánh xốp. Thế rồi mắt con bé bắt đầu lờ đờ, chẳng mấy chốc đã nghe thấy cả tiếng ngáy khe khẽ. Cả Nobutaka và Sayomi đều nín thở nhìn con gái. Liệu con bé ngủ được bao lâu sẽ lại hét toáng lên, choàng dậy đây? Bao lâu nữa con bé sẽ lại vừa khóc vừa kêu la? Thế nhưng hai vợ chồng Nobutaka đợi mãi cũng không thấy động tĩnh gì cả. Marie vẫn ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng con bé còn cười khúc khích, hẳn là đang mơ gì vui lắm. Sayomi bật khóc, nắm chặt lấy tay Nobutaka. “Con bé ngủ rồi! Marie đang ngủ kìa... Đúng là chiếc bánh có phép thuật sao? Chuyện này là thế nào vậy? Sao anh có được thừ đó?” “Anh mua đấy. Trả tiền hẳn hoi.” Nobutaka bảo với Sayomi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho cô sau, rồi lại hướng mắt về phía Marie đang ngủ. Bây giờ anh chỉ muốn ngắm nhìn gương mặt say ngủ đó thôi. Marie được xuất viện ngay hôm sau. Nhờ ngủ được đẫy giấc nên má con bé đã hồng hào trở lại, quầng thâm dưới mắt cũng biến mất sạch. Chẳng những thế hình như con bé còn có một giấc mơ tuyệt vời lắm. Marie hào hứng kể cho Nobutaka. “Con được cưỡi lên một bạn thú hiền ơi là hiền rồi cùng bay trên trời đêm đấy! Bạn thú lạ lắm nhé! Bạn ấy có chiếc mũi như mũi voi nhưng lại không phải là voi, thân mình đầy lông màu vàng mềm mại lắm!” “Vậy sao. Giấc mơ tuyệt vời quá con nhỉ.” “Vâng! Thích lắm ạ! Bạn thú còn bảo từ giờ trở đi sẽ thường xuyên tới chơi với Marie trong mơ và bảo vệ Marie nữa cơ. Bạn ấy hứa vậy đấy!” Trước nụ cười của con gái, Nobutaka vừa vui mừng vừa nhẹ nhõm, cả người cả tim đều như muốn tan ra. Mọi chuyện chắc ổn cả rồi. Nobutaka yên tâm đi tới công ty. Anh vừa bước vào văn phòng, đồng nghiệp đã liên tục hỏi thăm. “A, anh Yokote. Hôm qua có chuyện gì thế?” “Con gái anh không sao chứ?” Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Tiền Xu Tập 1 của tác giả Hiroshima Reiko.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xứ Sở Của Những Người Ngáp - Azit Nexin
Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Tập truyện cười Xứ Sở Của Những Người Ngáp này gồm có: Xứ sở của những người ngáp Quê ta vạn tuế Có nên làm bác sĩ không, con? Không thể thành người Phải ho lao mới được Xót tiền dân Thanh tra sắp đến Cả một ổ Nếu tôi là đàn bà Những điều trớ trêu của kỹ thuật Chuyện vợ chồng Giá không có ruồi! Anh lính Mêmét làng Êmét Lỗi tại anh Chỉ mỗi đồng lương Ông vua và con rệp béo nhất thế giới Chiếc đèn đường và phố chúng tôi Chúng ta cũng bay lên mặt trăng Lũ người chúng ta! Giấc mơ Mỹ Chuyện đó không liên quan đến tôi Nhà hiền triết và hai người bạn Người thay cả dàn nhạc Ngài - Còi Thôi thì ở lại Lên giá đến nơi rồi! Biết ơn vạn bội Chỉ tại trời mưa *** Khi anh bị mất việc, cuộc sống của anh bắt đầu gặp khó khăn. Nhưng giải thích cho những ông bạn ưa tò mò biết nguyên nhân tại sao anh mất việc, mới thật khó khăn hơn nhiều. Không! Lần này nhất định tôi sẽ chẳng hở cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với tôi cả. Mọi lần, có chuyện gì không may là tôi cứ hay đi kể lể với những người quen, vì hy vọng biết đâu có thể có người giúp đỡ tôi! Nhưng cũng có khi chỉ vì muốn cho khuây khỏa nỗi buồn. Nhưng khốn nỗi, cứ mỗi lần như thế tôi lại bị họ lục vấn đủ điều, cố tìm cho bằng được nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi, để rồi cuối cùng, chẳng biết thế nào, chính tôi lại bị xem là kẻ có tội trong mọi chuyện không may ấy! - Đấy, - Họ bảo tôi - giá mà anh không làm như thế, như thế, như thế... thì đời nào ông chủ lại đuổi. Mà một khi anh đã cả gan làm những chuyện như vậy, thì lỗi là tại anh rồi còn quái gì! Chính anh có lỗi thôi! Cuối cùng, bao giờ họ cũng kết án tôi như vậy, và vẻ hài lòng hiện rõ ra mặt. Hôm ấy tôi vừa đi ngoài phố vừa miên man suy nghĩ về chuyện làm ăn, thì bất thình lình có người đập mạnh vào vai. Tôi ngoảnh lại hóa ra ông bạn Ôxman Kêman. Anh ta vui vẻ đi bên cạnh tôi. Chợt nhìn thấy bộ mặt buồn rầu thiểu não của tôi anh cụp ngay mắt xuống, thay đổi hẳn vẻ mặt và bảo: - Tôi hiểu!... - Anh ta nói một cách ấp úng. Nghĩa là anh biết chuyện tôi bị đuổi khỏi chỗ làm. Nếu vậy thì không thoát được rồi! Thế nào anh ta lại sắp tra khảo tôi, tìm cách chứng minh cho tôi biết rằng chính tôi là kẻ có lỗi đấy cho mà xem! Cái vẻ mặt buồn rầu giả tạo thật chẳng ăn khớp một tí nào với cái ánh mắt long lanh vui sướng mà anh ta không che giấu nổi. Tôi cố làm ra vẻ không hiểu câu “Tôi hiểu” của anh ta và hỏi: - Anh làm sao thế? Hay có chuyện gì không vui? - Không, tôi chẳng làm sao cả! Nhưng tôi nghe nói là anh lại vừa bị mất việc thì phải. - Anh ta đáp. - Cũng không sao! - Tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, vì không muốn tiếp tục cái vấn đề này. - Sao lại không sao? - Anh ta đứng ngay giữa phố, mồm cứ bô bồ kêu “trời ơi”, rồi đề nghị tôi: - Thôi, chúng mình vào tiệm làm một tách cà phê đi, rồi cậu kể cho tôi xem đâu đuôi thế nào nào? - Có gì đâu mà kể! - Tôi đáp. - Sao lại không có gì đâu! Chà, xem cậu bắt đầu giống ai rồi nào? Thôi, ta đi đi! Cậu cứ kể hết cho mình nghe, rồi tự khắc cậu sẽ thấy khuây khỏa ngay thôi mà. - Anh cứ làm như có thể thay đổi được cái gì không bằng. - Cậu làm mình giận đấy... Chả lẽ mình không phải là bạn cậu hay sao? Thế là tôi đành vào quán với anh ta. - Nào bây giờ thì cậu kể cho mình xem có chuyện gì xảy ra đi! - Anh ta nói, khi chúng tôi bắt đầu nhấm nháp ngụm cà phê. - Lão chủ vừa đuổi tôi... - Vì sao? - Thì tôi biết được vì sao! Anh đi mà hỏi lão ấy! - Cậu có hay đi làm muộn không? - Cuộc hỏi cung bắt đầu. - Không, bao giờ tôi cũng đến rất đúng giờ. - Có bao giờ cậu không hoàn thành công việc không? - Không. Ai lại dám cãi lại ông ấy. Sốt ruột, Kêman bắt đầu nhấm nháp móng tay. - Thôi đúng rồi, chắc cậu đòi tăng lương phải không? - Đâu có... - Hay là... cậu có câu nói gì đó về ông ta, chẳng hạn có ý chê trách ông ta...? - Ồ, không đời nào? Tôi bị hỏi vặn một hồi nữa bằng những câu đại loại như thế. - Chà! Chà!... Thế thì vì quái gì cậu bị đuổi được nhỉ? Hay là... có khi nào cậu nhìn ông ta chằm chằm như cậu đang nhìn mình bây giờ không? - Tôi không biết. Nhưng... có thể là có... - Thôi thế thì đích thị rồi! Tớ đã bảo mà! Nhất định là phải có lý do mà lại, chứ không đời nào tự dưng người ta lại đuổi cậu cả! Chính lỗi tại cậu chứ không phải tại ai hết! Cậu cứ nhìn người ta chằm chằm như muốn ăn sống nuốt tươi thế thì ai mà chịu được! Nói thật chứ... Lỗi là tại cậu thôi! Nói xong câu ấy, anh ta thấy trong người nhẹ nhõm hẳn. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Sở Của Những Người Ngáp của tác giả Azit Nexin.
Những Người Thích Đùa - Azit Nexin
Khóc mà cười, cười mà lại trào nước mắt - những câu chuyện chỉ có thể là của Aziz Nesin luôn đọc người đọc vào cái trạng thái lạ lùng như vậy. Tin rằng nhà văn trào phúng như người khổng lồ có sứ mệnh nâng đỡ cả thế giới trên vai, Aziz Nesin không viết những truyện cười vô thưởng vô phạt. Ông viết để xóa đi những bất công, phi lý trong xã hội con người. Tập truyện cười Những Người Thích Đùa này gồm có: Cái Kính Điệp Viên Ox - 13 Quê Ta Vạn Tuế Có Nên Làm Bác Sĩ Không Con? Không Thể Thành Ngưới Phải Ho Lao Mới Được Xót Tiền Dân Thanh Tra Sắp Đến Cả Một Ổ Nếu Tôi Là Đàn Bà Xin Mời Bác Cứ Đến Chơi... Những Điều Trớ Trêu Của Kỹ Thuật Những Người Thích Đùa Secmenđi Sinh Ngày Nào? Chuyện Vợ Chồng Hội Cứu Vớt Gia Đình Giá Không Có Ruồi! Nhỏ Và Đẹp Những Người Thích Đùa Cơn Ác Mộng Những Người Thích Đùa Anh Lính Mêmét Làng Êmét Lỗi Là Tại Anh! Nghĩa Vụ Đối Với Tổ Quốc Diễn Văn Trong Lễ Khánh Thành *** Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 — 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Thường được gọi với cái tên "Aziz Nesin", đây nguyên là tên cha ông, được Nesin sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün.   Mời các bạn đón đọc Những Người Thích Đùa của tác giả Azit Nexin.
Người Đàn Bà Trong Cồn Cát - Kobo Abe
“Người đàn bà trong cồn cát” được xuất bản vào năm 1961 và đem về cho tác giả Kobo Abe (1924-1993) giải văn chương danh giá Yomiuri của Nhật, đã đưa tên tuổi của Abe lên hàng quốc tế sau khi bản dịch Anh ngữ được phát hành. Ông là tác giả Nhật được dịch ra tiếng ngoại quốc nhiều nhất. Một cuốn phim cùng tên, do chính tác giả viết truyện phim và Hiroshi Teshigahara (1927-2001) đạo diễn, được trình chiếu vào năm 1964, cũng đã đoạt giải Special Jury Prize tại Cannes Film Festival, 1964. Năm sau, cuốn phim đã được đề cử, nhưng không trúng, giải Oscar cho Best Foreign Language Film Oscar, và giải Oscar cho Best Director. Đó là câu chuyện về một anh giáo viên vô danh tiểu tốt ở Tokyo, tên Niki Jumpei, và là một tay sưu tập côn trùng tài tử. Tuy nhiên, anh ta cũng có một tham vọng, đó là có thể tìm được một con côn trùng nào mà chưa ai kiếm ra, để tên anh sẽ được gắn liền với con côn trùng đó và được đi vào bách khoa tự điển. Ước vọng này đã đưa anh đến một làng ven biển vào một dịp nghỉ. Mải mê tìm côn trùng, anh không để ý là đã lỡ chuyến xe buýt cuối cùng về thành phố. Khi ngỏ ý với ba người đàn ông anh gặp trên đụn cát là liệu anh có thể nghỉ qua đêm tại nhà một dân làng nào đó để sáng mai tiếp tục đi kiếm côn trùng, họ liền tỏ ra sẵn sàng giúp và đưa anh ta tới một căn nhà xiêu vẹo ở duới sâu trong lòng một cái hố cát, phải leo xuống bằng thang giây. Tại căn nhà đó, một người đàn bà còn trẻ đã đón tiếp và cơm nước cho anh. Niki không ngờ đấy là một cái bẫy mà định mệnh đã dành cho anh. Nguyên ngôi làng này bị nạn bão cát đe dọa chôn vùi. Ngôi nhà của người đàn bà ở bìa làng sát biển, như một thứ tiền đồn, cần phải giữ cho đừng bị cát chôn vùi, vì nếu một khi cát chôn căn nhà đó thì sẽ tiến tới căn nhà kế và rồi dần dà cả làng sẽ bị xóa sổ. Xúc cát là công việc hàng đêm - phải làm ban đêm vì lúc đó cát ẩm, dễ xúc vào xô, để người ta tới kéo những xô cát này lên và đem đi bán. Ngoài sứ mệnh bảo vệ làng, qua tinh thần "Yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình”, châm ngôn của làng, người đàn bà được trả công bằng thực phẩm, nước và những thứ cần thiết khác. Từ ngày chồng và con của chị ta bị bão cát chôn sống một năm về trước, chị làm việc xúc cát một mình không xuể. Và người ta đã lừa bắt cóc Niki để điền vào chỗ nhân sự thiếu hụt đó. Khi biết ra, Niki đã tìm mọi cách để thoát. Thoạt đầu anh ta trói người đàn bà lại làm áp lực dân làng. Đáp lại, dân làng ngưng cung cấp nước và thực phẩm cho hai người. Niki đành làm cái việc xúc cát trong khi âm mưu tìm cách trốn. Một lần anh ta đã leo lên được trên miệng hố và tìm cách thoát khỏi ngôi làng, nhưng bị bắt lại và buộc phải tiếp tục cái việc xúc cát ban đêm để rồi ban ngày cát khô bị gió thổi tiếp tục đe dọa ngôi nhà của người đàn bà, như nhân vật Sisyphe trong huyền thoại Hy Lạp bị buộc làm cái việc vô tận: đẩy một hòn đá lên đồi, chờ nó lăn xuống chân đồi, rồi lại đẩy lên, cứ thế, không được ngừng. Dù vậy, Niki cũng vẫn chưa bỏ cuộc. Biết rằng nước là vũ khí dân làng dùng để khuất phục anh, nếu anh không chịu ngoan ngoãn làm theo ý họ, họ sẽ cúp nước, Niki tìm cách triết nước từ cát ẩm. Cũng trong thời gian âm thầm nghiên cứu việc này, Niki và người đàn bà, như lửa gần rơm lâu ngày phải bén, trở nên gần gũi hơn, sống với nhau như vợ chồng. Khi người đàn bà mang bầu và khám phá ra là đã mang thai ngoài dạ con, dân làng phải thòng cái thang giây xuống để kéo chị ta lên đưa đi nhà thương cấp cứu. Niki ở lại cái hố. Anh ta đã không tin ở mắt mình khi thấy dân làng sau khi đưa ngưòi đàn bà đi nhà thương đã không rút cái thang lên. Anh mon men lại bên cái thang, rồi leo lên mà không gặp một trở ngại nào. Lần đầu từ khi bị bắt cóc bỏ xuống hố cát, anh ta nhìn thấy biển. Niki đi lang thang trên miệng hố, rồi lại leo trở xuống hố cát. Anh xem xét công trình triết nước và thấy nước uống được giữ lại trong thùng chứa, như vậy dự án triết và trữ nước của anh đã thành công. Anh ta không cảm thấy có nhu cầu phải thoát thân ngay. Anh nghĩ anh sẽ ở lại để cho dân làng biết về việc này. Cuốn truyện kết thúc bằng một án lệnh của tòa tuyên bố người đàn ông đã chết sau bảy năm có tên trên danh sách người bị mất tích, để lại cho người đọc một câu hỏi “tại sao Niki chọn ở lại” to lớn, và những nhà nghiên cứu về tác giả và tác phẩm mặc sức lý giải tại sao! *** Trong khi Haruki Murakami và Banana Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe (1935 - 2007), tác giả đạt Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998, có viết: “Lớp nhà văn này đã tích lũy trong mình cảm nghĩ về thực hạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro, v.v., ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hóa đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941, Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đây Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhẩt các kỹ thuật của chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943, Kobo Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami, tác giả Rừng Na Uy, viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ của ông bao gồm Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng của Kafka càng rõ rệt trong hai tác phẩm Kabe (Bức tường) và S. Karuma Shino Hanzai (Tội lỗi của S. Karuma) sáng tác vào năm 1951. Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hóa thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh ta bị tòa án lôi ra phán xử. Năm 1947, Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chi thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết, Owarishi Michi No Shirube Ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi Đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của Đảng Cộng sản Nhật Bản. Những tác phẩm mang tính trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, Aai Mayu (Cái kén đỏ, 1950), Kabe (1951) và S. Karuma Shino Hanzai (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn F. Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiếu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant-garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không thực tế, và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau đây của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Dai - Yon Kampyoki (1959), Moetsukita Chizu (Tấm bản đồ rách, 1967), Mikkai (1977) và Hako Otoko (Người đàn ông trong chiếc hộp, 1974). Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Women in the Dunes (Người đàn bà trong cồn cát, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1964). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hóa, vong ngã trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã bị ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muốn loài, nhưng tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài, không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hóa thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thế chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thế thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Ở Người đàn bà trong cồn cát, người đọc khó mà phân định được thực hư, người nào là kẻ chạy trốn, người nào là kẻ lùng bắt, ai biết đâu là ranh giới giữa hư ảo và hiện thực. Kobo Abe đã giải thích những vấn đề tâm sinh lý, ý thức và tiềm thức... để cố gắng truyền đạt đến người đọc một cách cụ thế những hiện tượng có thực ở vùng sâu kín trong hay dưới tầng ý thức. Ông chú trọng đến ảnh hưởng của tiềm thức và vô thức đối với hành vi của con người. Kobo Abe đã sử dụng mọi dạng cảm xúc của con người, từ niềm tự hào và nỗi sợ hãi tới những khát khao tình dục và cả nỗi thất bại ê chề - tất cả, tất cả đều dồn vào nhân vật chính trong câu chuyện (Niki Jumpei), rồi thì qua đó mặc cho bạn đọc tiến hành một sự tự nhận thức (self-awareness) về sự phi lý của thân phận con người. [1] Tác phẩm Người đàn bà trong cồn cát ngay lập tức đã cuốn hút đạo diễn điện ảnh Teshigahara Huoshi, cuốn phim của ông dựa trên tác phẩm kể trên đã giành được thành công to lớn vào năm 1963. Tác phẩm điện ảnh này đã giành Giải thưởng Đặc biệt tại Liên hoan Phim Cannes. Diễn viên Kyoko Kishida, người khởi nghiệp điện ảnh qua vai thiếu phụ trẻ trong tác phẩm này, sau đó đã trở nên nổi tiếng trong phim Moomin và một số phim khác. Đạo diễn Teshigahara Huoshi còn cộng tác với Kobo Abe để dựng phim cho hai tác phẩm The Pitfall (Cạm bẫy khó lường, 1962) và The Face of Another (Khuôn mặt người khác, 1966). Abe còn sáng tác một số vở kịch và điều hành một công ty biểu diễn do ông thành lập ở Tokyo. Các chủ đề về trạng thái cô độc và bị xa lánh, ghét bỏ trong các vở kịch như Friends (1967) và The Suitcase (1973) của ông được diễn trên sân khâu có một cái gì đó rất gần gũi với các tác phẩm của Samuel Beckett và Harold Pinter. Sau khi nhà văn danh tiếng Yukio Mishima qua đời, Abe được xem như nhà soạn kịch chủ chốt ở Nhật vào những năm 1970. Nhà hát của ông, còn có tên Abe Kobo Studio, được mời lưu diễn tại New York City vào năm 1979. Abe mất vì bệnh tim ngày 22 tháng Giêng năm 1993, giữa lúc đang viết tiểu thuyết cuối cùng The Flying Man (Người bay), tác phẩm vừa mới xuất bản đã ngay lập tức được truy tặng giải thưởng trong năm 1993. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX. Hà Nội, Mùa hạ 2009 Chú thích: [1] J. Thomas Rimes trong A reader’s guide to Japanese literature, 1999. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Trong Cồn Cát của tác giả Kobo Abe.
Mặt Chó Sói - Mishima Yukio
Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Hà Linh -  Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm".   Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Rodder lao ra ngoài, tay cầm súng lục. Ambler muốn lên tiếng cảnh báo đồng bọn, nhưng muộn rồi: Justus đập cho gã đàn ông một đòn chí mạng. Rodder ngã văng khỏi lan-can và đập mạnh thân hình xuống nước. Hài lòng, Justus theo những bậc thang trèo lên. - Bây giờ đến lượt các người đi tắm! - cậu nói lớn rồi cười. Nhưng chẳng còn mấy thời gian để mà tận hưởng mùi vị chiến thắng, việc đầu tiên là phải giúp Sandy và Bob trèo lên tàu, sau đó lao xuống cabin giải phóng cho Peter. Rodder bận bịu với việc giữ cho Ambler ngoi được cổ lên trên mặt nước. Khẩu súng lục của gã bây giờ nằm thật chắc chắn dưới đáy biển. - Kéo bọn tao lên tàu ngay lập tức, - Rodder ra lệnh. - Lũ chuột cống nhà chúng mầy! Bob lắc đầu, nhưng cũng ném cho Rodder và Ambler hai chiếc phao cứu hộ. Chầm chậm, con tàu bị gió và những dòng nước cuốn dần ra phía biển. Justus lại bước ra ngoài, đi sát phía sau là Peter. Hãnh diện, Thám tử phó cầm " người đẹp Helena" trong tay. - Cảm ơn các bạn, - Cậu nói rồi giơ bức tượng cho nó lóng lánh trong ánh nắng. - Cha, Rodder, gió lại xoay chiều rất nhanh! Rodder buông ra một câu chửi tục, trong khi Ambler loay hoay với chiếc phao cứu hộ. Thất bình tĩnh, Sandy vởi bộ chân nhái của cô. - Bây giờ mình sẽ gọi điện đàm cho cảnh sát, - cô gái nói. - Mình biết sử dụng loại máy đó. Justus gật đầu với cô. - Bạn bảo họ mang theo một cái lưới đánh cá, - cậu nói. - Bọn ta vừa bắt được cả hai con cá to sù. - Cậu ngồi xuống bên mép tàu, để cho hai chân thõng xuống, đu đưa nhè nhẹ. - Cái phương pháp đánh lạc hướng bằng thư gửi đã được ông phát triển nên từ thời còn ở New York, ông Rodder. Nó cũng có phần nhắm chứng tỏ là mình tài năng hơn cảnh sát, những người đã đuổi việc ông. Và chắc vì vậy mà ông cũng sữ dụng mặt nạ chó sói: ông có cảm giác như mình là một con chó sói bị đuổi ra khỏi đàn. Rodder ném cho cậu một cái nhìn huỷ diệt, nhưng chỉ giúp cho Justus nhận rõ là cậu phỏng đoán đúng. - lẽ ra chúng tôi phải nghĩ đến sớm hơn mới phải, - Peter bổ sung. Cậu ngồi xuống bên cạnh Justus. - Theo tắc thì kể cả hai tội phạm đầu tiên, vụ ăn trộm ở cửa hàng Outdoor World và vụ ăn trộm súng bắn tỉa cũng như những lời trích dẫn tứ bài hát đều chỉ nhằm hướng chúng tôi về phía lý thuyết của một vụ ám sát tổng thống. Đấy là hoàn toàn chưa kể đến cái mặt nạ tổng thống kia. Ambler, kẻ vừa chui được người vào giữa chiếc phao cứu hộ, giờ lên tiếng ngắt lời Peter. - Nhưng để tìm ra được lời của bài hát đó, bọn nhóc các cậu cũng phải cần rất nhiều thời gian! - Nhưng vẫn còn nhanh hơn là cảnh sát, - Bob chen vào. - Nhanh hơn cả các chuyên viên tâm lý. Justus cởi chiếc áo lặn ra. Bài báo mà cậu luôn mang trong người bây giờ ướt sũng, dán sát vào da thịt. Thận trọng, cậu gỡ mảnh giấy ra, nhưng lại ngay lập tức bóp nát nó. - Đáng tiếc, - Justus nói. - Giờ tôi không thể cho hai người xem được nữa. Đây là một bức ảnh rất thú vị, anh Ambler. Nó cho thấy anh đã quen ông Rodder từ thời còn ở New York, chắc là thời anh học đại học. Anh đã mê mẩn gã tội phạm kia. kể từ vụ nầy anh muốn kết hợp hai mục đích với nhau. Thứ nhất là vụ ăn trộm bức tượng và thứ hai… tại sao anh không ngửi được chị Harding, Ambler? - Cô ta cuỗm mất chỗ của tôi, - Ambler kêu lên và đạp chân, muốn lại gần con tàu thêm một chút. - Lẽ ra tôi là người nhận được công việc tại Los Angeles. Nhưng rồi đột ngột xuất hiện cái con bé hỉ mũi chưa sạch đó, mới từ trường đại học ra, và ngồi ngay xuống trước mặt tôi. Còn cái tay Cotta nhà các cậu lại chính là kẻ viết thư giới thiệu nó! - Tôi cũng đã đoán như vậy. - Justus gật đầu. - Và anh biết là chị Harding đã làm bài tốt nghiệp về vụ ám sát tổng thống Kennedy. Vì thế mà anh viết những bức thư theo hướng nầy. Nữ chuyên viên tâm lý từ đó không còn nghĩ được đến một thứ gì khác ngoài một vụ ám sát tổng thống. Bản thân chuyên viên tâm lý Harding trong vụ nầy cũng bị đẩy vào một góc tranh tối tranh sáng. Đối với anh, Ambler, dĩ nhiên là một thắng lợi bổ sung. Tôi cũng phải công nhận rằng đến cả bản thân tôi cũng đã có ý nghi ngờ chị Harding. - Có thế chứ, - Ambler nói. - Ta đã khoái trá khôn tả khi nhìn hai con gà trống choai chọi với nhau. Một trận chiến cạnh tranh thật sự! - Nhưng mà chúng tôi có ba người, - Peter lên tiếng sau một cái liếc xéo về phía Justus. - Anh Ambler, làm thế nào mà anh ăn cắp được khẩu súng của cảnh sát? Trò leo tường bình thường ra vốn là đặc sản của Rodder? - Cái đó các cậu phải tìm ra thôi, các cậu thông minh lắm kia mà, - Ambler kêu lên. - Không thành vấn đề! - Justus thẳng lưng dậy. - Anh đâu có vào phòng qua đường cửa sổ. Chỉ giả bộ thế thôi. Anh muốn tô đắp thêm cho cái huyền thoại Mặt Chó Sói. Mãi sau nầy tôi mới hiểu ra. Những miếng kính cửa sổ nằm không đúng chỗ! Anh Ambler, anh đã mở cửa sổ từ phía trong phòng rồi sau đó mới đập vỡ kính. Những miếng kính vỡ đó nằm sát chân tường! - Đúng, đúng, phải! - Ambler mỗi lúc một bực bội hơn. - Bây giờ cho tôi lên. Tôi không ở dưới nầy lâu hơn được nữa! - Thế bằng cách nào mà anh vào được phòng đựng vũ khí? - Peter hỏi, không thèm để ý đến lời đề nghị của đối phương. - Chỉ là cái trò ăn cắp cỏn con thôi, - Ambler uể oải nói. - Tôi đã rút chiếc chìa khoá của tay hạ sĩ trực rồi lại kịp thời đút lại chỗ cũ. Đoạn dây đã được tôi buộc từ trên nóc nhà thõng xuống dưới từ trước. Bob nhận thấy cả đám mỗi lúc một bị cuốn ra xa bờ hơn. - Để mình ném mỏ neo xuống, - cậu nói. Justus gật đầu. Bob giơ cao mỏ neo và ném nó qua thành tàu. Vài giây đồng hồ sau, con tàu rùng mình nhẹ. Bây giờ nó nằm yên. - Ra là bọn mày biết tất cả, - Rodder kêu lên. - Thế bây giờ tao có thể hỏi chút được không? Nầy cái thằng béo lắm lời kia, tại sao mà mày lại chui vào cửa hàng của ông Laurent? Toàn bộ chuyện chó chết nầy khởi đầu từ đó! - Chút nữa đã, Rodder, tôi còn chưa hỏi hết! - Peter, Bob và Sandy nhìn Justus đầy khấp khởi. Cậu nói tiếp. - Tôi nghĩ là tiện thể ở đây, ta có thể giải thích luôn cả một câu chuyện khác nữa, Rodder. Đi cùng với " người đẹp Helena" là bức tượng của hoàng tử Paris, bức tượng đã biến mất cách đây vài năm. Cho tới nay chưa có ai nghi ngờ là ông có liên quan tới vụ ăn trộm đó! Nhưng thủ phạm cũng chính là ông, Rodder! Qua ánh mắt ngạc nhiên của Mặt Chó Sói, Justus thấy rõ: cậu vừa bắn trúng hồng tâm. - Đúng thế, cú điện thoại ban nãy của ông đã khiến tôi nghĩ đến khả năng nầy. Ông đã xoáy Paris trước đây vài năm. Và bây giờ ông muốn bán thêm cho nhà sưu tầm tư nhân giàu có của mình cả bức tượng quý báu thứ hai, người đẹp Helena. Cho một giá tiền đặt trước không nhỏ, ông lại một lần nữa lao vào trò ăn cắp! - Làm sao mà mày biết đó là một nhà sưu tầm tư nhân? - Rodder kêu lên, tiếng kêu đồng thời cũng là lời công nhận. - Chắc chắn phải là một người tư nhân, Mặt Chó Sói, - Justus trả lời. - Mà là một người có rất nhiều tiền. Người ta không thể bán những bức tượng đó ở thị trường tự do. Chuyên gia nào cũng biết chúng. Rodder đầu hàng. - Bọn mày thông minh thật đấy, mấy thằng nhóc! Đó là một người đàn ông giàu có trong ngành làm phim, nhưng tao thậm chí chưa biết tên ông ấy. Thế, bây giờ cho bọn tao lên tàu đi! Sandy trỏ về phía bờ biển, nơi có một con tàu cảnh sát đang lại gần. - Cha, - Justus chuyển sang lời kết luận. - Cái chuyến du lịch dễ chịu của hai người vậy là không thành rồi. Chắc là cú ăn trộm nầy sẽ mang lại đủ tiền để cả hai người sống thoải mái cho đến cuối đời? Hơn nữa vụ ăn trộm bức tượng Paris chắc chắn cũng còn để lại một vài dollar. - Đúng thế!, - Rodder gầm lên. - Và chuyện thối nhất là để cho lũ nhóc con bọn mầy chen vào giữa. Tất cả là lỗi của Scott! - gã nhìn Ambler, kẻ vẫn đang tiếp tục vùng vẫy bên cái phao cứu hộ. - Bây giờ mày vẫn còn tin đám nhóc con nầy là một luồng gió mát chứ? Ambler phun ra một ngụm nước biển, không nói nửa lời. Gã ta quá mệt, không còn sức đâu mà cãi cọ. Justus lại lật cho đoạn thang chĩa xuống nước. Con tàu cảnh sát bây giờ đã đến rất gần. Cậu thấy rõ thanh tra Cotta đứng trên boong. Chị Hannah Harding đứng cạnh ông và vẫy tay về phía họ. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Chó Sói của tác giả Mishima Yukio.