Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nữ Phi Công

Kristin Hannah là một gương mặt tiêu biểu ở đề tài viết về người phụ nữ và gia đình. Với văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động, bà đã có những 20 tác phẩm thuộc top bán chạy theo bình chọn của tạp chí uy tín New York Times. Cuốn tiểu thuyết tình cảm "Nữ Phi Công" được nữ tác giả đầu tư rất nhiều tâm huyết để khắc họa chân thực cuộc hơn nhân đang trên bờ vực của sự tan vỡ thời chiến tranh của Michael và Jolene Zarkades. Họ đã bên nhau suốt 12 năm, những áp lực trong cuộc sống cứ thế đè nặng lên đôi vai của đôi vợ chồng khiến họ dần nảy sinh nhiều hơn những mâu thuẫn, mối đe dọa rạn nứt ngày càng hiện rõ. Câu chuyện tiến triển khi Jonene nhận được lệnh đi tập trung chiến đấu bởi cô vốn là một nữ quân nhân. Anh chồng luật sư Michael phải học cách xoay xở với cảnh gà trống nuôi con. Liệu chiến tranh và sự xa cách có trở thành một tác động xấu hơn cho cuộc hôn nhân này? Jolene và Michael sẽ hành xử như thế nào, cứu vãn hay buông xuôi? *** Đây là tác phẩm thứ hai của nhà văn Mỹ Kristin Hannah mà tôi đọc, và một lần nữa, cái nhìn thấu suốt của một tác giả viết về phụ nữ, gia đình cùng văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động của bà đã chinh phục tôi hoàn toàn. “Nữ phi công” (tựa gốc là “Home Front”) không có cái kinh hoàng và ám ảnh của một thời kỳ chiến tranh loạn lạc như Sơn ca vẫn hót, thế nhưng nó vẫn đủ sức lay động tâm hồn bất kỳ ai bởi cái cách mà nó đi sâu vào bóc tách những diễn biến tình cảm và tâm lý của những con người bị tác động bởi chiến tranh ngay giữa thời hiện đại này, cùng những giá trị làm nên một gia đình toàn vẹn. Cuốn sách là bản hòa ca mang nhiều cung bậc cảm xúc, dành tặng cho những nam và nữ quân nhân Mỹ - những người anh hùng thực sự - đã dành trọn cuộc đời và tính mạng của mình để bảo vệ và giữ gìn cuộc sống cho người dân. Nhân vật chính của “Nữ phi công” là Jolene, một người lính lái máy bay của quân đội Hoa Kỳ, vợ của luật sư Michael và là mẹ của hai cô con gái: Betsy 12 tuổi và Lulu 4 tuổi. Mở đầu câu chuyện, tác giả Kristin Hannah đã vẽ nên một bức tranh chân thực đến nhói lòng về thực tại của một cuộc hôn nhân đang trên bờ vực đổ vỡ, và những khủng hoảng mà Jolene phải đối mặt trong việc làm vợ, làm mẹ của một cô con gái đang ở lứa tuổi nổi loạn. Lớn lên giữa một gia đình lộn xộn, với một người cha nghiện rượu và một người mẹ yếu đuối, luôn đi theo van xin tình yêu của chồng, Jolene từ thuở bé đã rèn luyện cho mình một tính cách vững vàng, can đảm, không ngại khó khăn và vô cùng mạnh mẽ. Tính cách ấy chính là điều đã cuốn hút Michael về phía chị, nhưng giờ đây nó lại là một trong những nguyên nhân khiến chị và anh cách xa nhau. Không biết làm gì với cuộc đời mình, và với niềm đam mê mong mỏi muốn được bay, Jolene đã gia nhập quân đội, trở thành nữ phi công, tự hào với chính những gì mình đã đạt được với cương vị là một người lính. Nhưng niềm đam mê ấy, những câu chuyện của đời quân nhân, chị đã không thể nào chia sẻ được với Michael. Anh là một luật sư, một con người ngồi phòng máy lạnh, mặc áo sơ mi là phẳng phiu đi làm, là người thuộc “giới tinh hoa” của xã hội. Anh ở trong cái thế giới được bảo bọc của mình và không có chút xíu hiểu biết thực sự nào về sự nghiệp của vợ mình cùng niềm tự hào của chị về cái thế giới của những chuẩn úy và đại đội. Cái chết của cha anh - người cha đã gắn bó với sự nghiệp làm luật sư của anh suốt bao năm - là giọt nước làm tràn ly khiến cuộc hôn nhân của Michael và Jolene càng ngày càng đến bờ vực đổ vỡ. Chị quá mạnh mẽ, quá can đảm, quá tự tin, với một sức sống và sự kiên cường rạng ngời, và chị lại ở bên cạnh anh, một người đàn ông đang đau khổ vì mất mát của mình, chán ngấy những lời khuyên nhủ “mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi” của vợ. Đơn giản, Michael cảm thấy quá yếu đuối và ngộp thở khi sống cùng với người phụ nữ không cần phải dựa dẫm vào anh, một người có thể tự đứng trên đôi chân của mình và khiến anh không còn được cần đến. Cho đến cái ngày Mỹ tuyên chiến với Iraq sau sự kiện 11/9 kinh hoàng, và Jolene nhận lệnh điều động ra chiến trường lái máy may Black Hawk. Sự yên bình giả tạo của một cuộc hôn nhân đang gặp khủng hoảng bỗng chốc nứt toác, để lại một gia đình với những thành viên tức giận trước quyết định thực hiện lời hứa với quân đội của Jolene. Chị sẽ ra đi, đến Iraq, chiến đấu cho cuộc chiến mà nhiều người Mỹ cho là phi nghĩa và chẳng khác hành động giết người. Và trên tất cả, chị lại còn là một người lính nữ, người đã dũng cảm và mạnh mẽ đặt sứ mệnh mình được giao phó với tổ quốc, với nhân dân Mỹ lên hàng đầu, lên trên cả hạnh phúc gia đình mình, trách nhiệm làm mẹ và một cuộc hôn nhân đang rất cần được sửa chữa. Trường đoạn khi Jolene chuẩn bị ra trận, trải qua những ngày cuối cùng ở bên gia đình trước khi tham chiến là một trong những trường đoạn gây xúc động nhất của toàn bộ câu chuyện, khi độc giả có thể thấy được sự hy sinh cao cả và những gì Jolene chấp nhận bỏ lại ở quê nhà và bỏ lỡ trong cuộc đời hai con gái của mình để lên đường làm nhiệm vụ. Chị là một người phụ nữ phi thường, người đã tôn vinh và sống đúng với những giá trị làm nên một người lính Mỹ chân chính, dù điều đó có nghĩa là chị sẽ không được thấy nụ cười của bé Lulu trong suốt một năm ròng, sẽ không được cùng Betsy trải qua lần đầu tiên cô bé hành kinh, sẽ không được nấu đồ ăn sáng cho con, được đưa con đến trường. Và còn đó Michael, người chồng mà chị yêu đến đau đớn, đến rúng động tâm hồn, yêu từ thuở ban đầu khi họ mới gặp nhau, khi chị còn là cô bé 17 tuổi, xơ xác sau cái chết bất ngờ của cha mẹ và không một xu dính túi, đến gặp anh ở văn phòng hỗ trợ trẻ vị thành niên khi anh còn là sinh viên năm nhất đang đi thực tập. Giờ đây, tình yêu đó hình như đã chết trong lòng Michael, hóa thành thứ trái đắng khiến những ngày cuối cùng trước khi chị đi chiến đấu trở thành địa ngục với cả anh và chị. Michael là một người chồng ích kỷ, anh chưa lần nào thể hiện lòng tự hào của mình dành cho vợ và công việc mà chị làm; giờ đây, anh lại còn chì chiết chị, buộc tội chị là một người mẹ không tốt khi đành đoạn bỏ lại con và chồng mình - người chồng suốt ngày ngập ngụa trong công việc và hiếm khi nào dành thời gian cho các con - để tham gia chiến tranh như thể đây là một hành động tự sát. Và trên hết, chắc hẳn anh đã rất sợ, sợ cái trách nhiệm vừa phải làm cha, vừa phải làm mẹ mà sắp tới anh phải lãnh nhận thay vợ mình. Nhưng nỗi sợ lớn nhất, nỗi sợ mà phải tới cái buổi lễ chia tay gia đình để các quân nhân đi tòng quân, anh mới nhận ra, là nỗi sợ sẽ mất chị, được hình thành từ cái nhận thức muộn màng nhưng đáng sợ về chiến tranh, về cái thứ rồi đây Jolene sẽ phải đối mặt. Chiến tranh, dù ở thời đại nào, đều là một thứ chứa rủi ro và cái chết. Và đó là thứ Jolene sẽ phải dấn thân vào, sẽ phải chạm đến hằng ngày, hằng giờ ở Iraq: bom rơi, đạn lạc, thiết bị gây nổ bất ngờ, những mảnh thịt người không còn rõ hình dạng văng tứ tung sau một vụ nổ bom, đồng đội ngã xuống, máu, mùi thuốc súng, nỗi hoang mang không biết mình sẽ còn sống được bao ngày nữa, liệu mình có còn toàn mạng và toàn vẹn thân thể để trở về với gia đình, với những người thân yêu. Chiến tranh là thế đấy, nó khắc nghiệt, xấu xí và đau đớn vô cùng, nhưng nó là viễn cảnh mà Jolene đã chọn, sự lựa chọn đã thay đổi không chỉ chị mà còn Michael. Kristin Hannah một lần nữa đã thể hiện cái nhìn sâu sắc và thấu suốt của mình về những vấn đề của gia đình, đặc biệt là những gì mà các gia đình quân nhân phải trải qua khi một thành viên của họ phải đi làm nhiệm vụ, thông qua cái cách bà miêu tả tình cảnh “gà trống nuôi con” của Michael, quá trình chật vật thích ứng với trách nhiệm chăm sóc con cái - điều mà anh luôn lãng quên trong suốt bao năm. Và nếu như Jolene đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt ở ngoài phương xa, không biết liệu có thể trở về, thì Michael cũng có một trận chiến của riêng mình để chiến đấu: trận chiến để đảm bảo các con mình vẫn duy trì một cuộc sống bình thường với sự giúp đỡ hết sức mình của mẹ anh - bà Mila - một người phụ nữ vô cùng tâm lý, và là người duy nhất từng thấu hiểu, ủng hộ quyết định ra trận của Jolene. Trận chiến ấy song hành cùng việc anh theo đuổi vụ xét xử một anh chàng cựu quân nhân bị khép tội giết vợ, giúp Michael nhận ra một sự thực mà anh đã quá ngu ngốc, quá ích kỷ để mà nhìn thấy trước đây: anh yêu Jolene, anh vẫn còn yêu chị, làm sao mà anh có thể hết yêu chị, người phụ nữ can đảm vô cùng, xinh đẹp vô cùng, người đã cùng anh xây dựng gia đình trong suốt 12 năm qua. Ấy vậy mà anh lại để chị ra trận với cái lời nói “Anh không còn yêu em nữa” in dấu trong đầu chị, đẩy chị đi xa khỏi anh, làm tổn thương chị, phí hoài những ngày quý giá trước khi chị đi chiến đấu cho nước Mỹ với muôn vàn khó khăn và nguy hiểm trong nỗ lực vô vọng để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng của Jolene, trong nỗi khổ đau không nói thành lời của một người vợ luôn yêu anh nhưng anh thì lại luôn lạnh nhạt. Để rồi cái điều Michael sợ hãi cuối cùng cũng đến, khi anh hay tin vợ mình bị thương nặng sau khi máy bay của chị bị bắn rơi và phát nổ. Cảm xúc của câu chuyện dâng cao với sự kiện ấy, khi trận chiến tiếp theo mà Michael phải đối mặt chính là trận chiến của ý chí và tình yêu, của một người chồng muốn sửa sai và hàn gắn lại mối quan hệ tưởng chừng đã nát tan của hai người, một trận chiến đi vào cốt lõi của gia đình mà họ đã xây dựng, cùng nền móng tình yêu đã giúp họ xây dựng nên gia đình mình. Và trận chiến ấy hoàn toàn không hề dễ dàng để chiến thắng, khi mà Jolene không còn là người phụ nữ trước khi chị ra trận: chị vụn vỡ thành trăm mảnh bởi những gì chị đã trải qua ngoài chiến trường, bởi cái chết của những đồng đội, bởi vụ rơi máy bay kinh hoàng, bởi khói, máu và mất mát. Chị mang theo về nhà một cơ thể không còn toàn vẹn và một tâm hồn còn nứt toác, vụn vỡ hơn. Đó là một trận chiến với đầy những nước mắt, đớn đau, sự sợ hãi đến từ hai cô con gái của Jolene, khi chúng không biết chuyện gì đã xảy ra với tính tình và tâm lý của mẹ chúng, khi chúng chỉ biết rằng mẹ không còn như trước kia, luôn nóng tính, la mắng chúng và dường như không còn yêu chúng nữa. Và Michael, anh bền bỉ với tình yêu dành cho Jolene, cho người vợ luôn xinh đẹp và can đảm trong mắt anh, mặc dù giờ đây chị không còn là người phụ nữ như trước đây anh đã biết. Những nỗ lực để hàn gắn, để Jolene trở lại là mình, là cô chuẩn úy mạnh mẽ, tràn đầy tự tin đã khiến tôi khóc không biết bao nhiêu lần. Tôi khóc cho cái số phận và những gì Jolene đã trải qua, cho những mất mát mà chị đã phải gánh chịu, cho nỗi sợ cùng sự tức giận mà chị cảm thấy về những gì chị tưởng là lòng thương hại dành cho người vợ tật nguyền của Michael, cho những gì chị tưởng là ý thức trách nhiệm của một người chồng khi Michael không rời bỏ chị mà lại quyết định ở bên chị, luôn luôn, cầu xin chị tha thứ cho anh và muốn câu chuyện của họ bắt đầu lại từ đầu. Tôi khóc khi Jolene, với nỗi thương cảm dành cho chính bản thân mình cùng sự mạnh mẽ, không muốn dựa dẫm và ai luôn sẵn có trong con người chị - người phụ nữ làm bằng thép và được trui rèn trong lửa - đã gạt phăng những nỗ lực của Michael nhằm hàn gắn vết thương lòng anh đã gây ra cho chị và cuộc hôn nhân của họ. Để rồi sau đó, chị đã mất rất nhiều thời gian để lại có thể tin tưởng anh và mở lòng với anh. Và tôi đã khóc khi chứng kiến Jolene chiến đấu trong cuộc chiến của riêng chị, cuộc chiến với PTSD (viết tắt của Post Traumatic Stress Disorder, là chứng trầm cảm sau sang chấn, rất phổ biến ở các cựu chiến binh), với mặc cảm tội lỗi về vụ rơi máy bay khi chị đã không thể bảo toàn tính mạng cho các đồng đội, với việc chấp nhận tình trạng cơ thể không toàn vẹn hiện tại của mình, với những khó khăn mà chị phải trải qua trong quá trình làm quen với cơ thể mới và hòa nhập với cuộc sống sau chiến tranh, với tương lai được bay trở lại vô cùng mờ mịt, với việc xác nhận lại định nghĩa về bản thân chị: chị còn là chuẩn úy Zarkades nữa hay không, hay chỉ là một khối thịt vô dụng và tật nguyền; chị có còn là mẹ của lũ trẻ hay không, hay là một mụ phù thủy luôn khiến chúng sợ hãi mỗi khi tiếp xúc với chị. Tương lai mờ mịt nhưng không phải là không có hy vọng, và hy vọng ấy được thắp lên bởi chính Michael, người chồng đã hoàn toàn lột xác khỏi cái mác ích kỷ để trở lại là người đàn ông Jolene luôn yêu và mãi yêu, người chồng giờ đây vô cùng tự hào về chị, về những gì chị đã trải qua vì tổ quốc và nhân dân Mỹ. Jolene, cùng với cô bạn thân Tami, người cũng là phi công lái máy bay và cùng chị tham chiến ở Iraq, là đại diện cho những người nam nữ quân dân anh dũng và đáng được tôn vinh của Hoa Kỳ, những con người đã sống cuộc đời mình để hoàn thành trọn vẹn lời hứa với quân đội, với đất nước, cho dù điều đó có nghĩa là họ đang đặt bản thân mình, cơ thể mình, tính mạng của mình vào vòng hiểm nguy. Đã có những hy sinh quá lớn, những mất mát đớn đau phải cần thật nhiều thời gian mới có thể nguôi ngoai, những gia đình mất đi một thành viên, những đứa trẻ phải lớn lên mà không có cha hay mẹ. Nhưng cuối cùng thì, sứ mệnh giữ gìn bình yên cho tổ quốc, cho nhân dân vẫn là một sứ mệnh cao cả và phải luôn được đặt lên hàng đầu. Chính điều đó đã biến những người quân nhân trở thành những người anh hùng của đời thực, những người cũng như chúng ta, cũng dễ bị tổn thương, cũng có những phút giây yếu đuối, những lo lắng, hãi sợ và bất ổn trong tâm hồn. Cái họ cần là sự quan tâm, là gia đình ngập tràn tình yêu, là những sự giúp đỡ về vật chất và tâm lý, để họ có thể tiếp tục tỏa sáng và đóng góp cho xã hội, cho bình yên của đất nước và cuộc sống của người dân. *** #Review #Nữ_phi_công “Có những điều bạn học được tốt nhất trong bình yên. Có những điều chỉ học được trong dông bão ...” Thật sự không hiểu sao một quyển sách hay, nhiều cảm xúc như thế lại ít được nhắc tới. Nếu không tình cờ biết Nữ Phi Công được viết bởi tác giả của Sơn Ca Vẫn Hót thì Boog đã bỏ qua nó. Thật mừng vì Boog đã đọc và không bỏ lỡ một tác phẩm hay. Bằng những câu chữ đầy cảm xúc, tác giả đưa bạn tới cuộc sống hôn nhân đầy dông bão, những mất mát đau thương của chiến tranh mà Boog đọc thấy có một sự đồng cảm ghê gớm. Jolene Larsen là một quân nhân, một phi công trong quân ngũ. Mà phụ nữ trong quân ngũ thường ít, ít nhiều có khó khăn hơn nam giới. Thật sự Boog có chút ngưỡng mộ đối với những phụ nữ trong quân đội mà lại là phi công ( rất ngầu đấy chứ). Tuổi thơ của cô chịu tổn thương vì chứng kiến những cuộc cãi vã, đập phá khi say rượu của ba mẹ. Họ cũng sớm ra đi do tai nạn trong một lần say rượu. Những tưởng cuộc hôn nhân của cô với Michael - một luật sư tài năng sẽ phần nào bù đắp cho tuổi thơ không trọn vẹn của cô. Nhưng, sau 12 năm chung sống, nảy sinh những vấn đề mâu thuẫn, những bất đồng quan điểm, sự không hiểu nhau trong gia đình. Những vấn đề phát sinh trong việc chăm một cô bé 4 tuổi ngây thơ, có chút nhõng nhẽo, một cô bé 12 tuổi đang bước vào ngưỡng cửa trưởng thành, gặp nhiều vấn đề rắc rối trong các mối quan hệ trong trường trung học đã dẫn tới hôn nhân của họ có nguy cơ bị đổ vỡ. Trước thềm hôn nhân đổ vỡ, là một quân nhân, Jolene nhận được lệnh điều động tới vùng chiến sự Iraq. Đối mặt với nguy hiểm, chứng kiến sự ra đi của những người đồng đội, những người bạn, bản thân bị thương, bỏ lại một phần thân thể nơi chiến trường cô bị tổn thương ghê gớm. Làm sao có thể có một cuộc sống bình thường khi đã trải qua những mất mát, tổn thương đau đớn ấy. Không chỉ mất mát về thân thể, sự ám ảnh của cuộc chiến trong mỗi giấc mơ, trong mỗi đau đớn hàng ngày còn khủng khiếp hơn. Nữ Phi Công miêu tả khắc hoạ rất sâu sắc, rất hay về những đấu tranh nội tâm, những đau đớn, tâm lý các nhân vật. Bên cạnh những mối quan hệ về hôn nhân, gia đình, con cái, cha mẹ, tình đồng chí, đồng đội Boog rất thích tình bạn giữ Jolene và Tami. Tình bạn có thể nói là tri âm tri kỷ, chia sẻ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, hiểu nhau tới từng chân tơ kẽ tóc. Nữ Phi Công là một bài ca về nghị lực, về tình thương yêu xoa dịu nỗi đau. Mất mát, đau thương và hàn gắn, đừng để khi mất đi mới hiểu được giá trị của tình yêu, tình cảm gia đình quý giá. Hãy nói yêu thương, đừng nói yêu thương quá muộn. Mời các bạn đón đọc Nữ Phi Công của tác giả Kristin Hannah & Đinh Thanh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đợi anh ở Toronto - Nguyễn Thu Hoài
Đợi anh ở Toronto của nữ tác giả Nguyễn Thu Hoài được coi là "Bản tình ca mùa đông Canada" trong lòng đọc giả yêu văn chương, là một câu chuyện đẹp từ đầu đến cuối với màu tuyết trắng, nỗi buồn, niềm vui đều nhịp nhàng, hợp lý. Nguyễn Thu Hoài thuộc thế hệ 7X cuối cùng với những biến động lớn về cả nội tâm lẫn ngoại cảnh. Với ước vọng được kể chuyện, Đợi anh ở Toronto là câu chuyện đầu tiên được kể một cách say mê, hồ hởi lạ kì. Là cựu học sinh chuyên Văn PTTH chuyên Hà Nội- Amsterdam và là một thạc sĩ kinh tế nhưng cô luôn tin rằng: chỉ những chuyện dễ dàng mới có thể giải quyết bằng tiền, chuyện tình cảm mới thật là khó khăn. Là người Hà Nội, hiện đang định cư tại Toronto, cô yêu Hà Nội bằng cả trái tim nhưng Toronto là nơi cô dành cho những cảm xúc lãng mạn nhất cuộc đời mình. Vào những đông lạnh giá, tuyết trắng phủ ngập đường, trên một đất nước xa lạ. Cô - một cô gái Việt Nam nhỏ bé, gặp anh. Anh - lãnh đạm, rắn rỏi và rất thu hút. Ở bên anh, cô như lao đầu vào một trò chơi: những khi tưởng anh thích mình anh lại hờ hững, tưởng anh theo đuổi anh lại lặn mất tăm, tưởng anh tỏ tình anh lại muốn làm bạn. Cuối cùng, khi đã trong vòng tay vững chãi của anh, lại một lần nữa vụt mất anh. “- Vi, tôi rất cần em... - Anh bỏ lửng câu nói, ngừng lại lấy hơi, giọng khàn đi vì xúc động. Trái tim Vi run rẩy, hồi hộp. Cô hoảng hốt nhận thấy mình đang nín thở. Lẽ nào, đây chính là điều anh muốn nói với cô? - … rất cần… một người bạn như em… - Anh kết thúc câu nói của mình bằng một tiếng ho khẽ. Vi thấy hẫng một cái, hệt như cảm giác khi máy bay đang sắp sửa hạ cánh. Có điều, đối với cô đây không phải là một cuộc hạ cánh an toàn. Lòng tự trọng của cô có lẽ đã bị tổn thương đôi chút. Cô thấy tim mình nhói đau, ước gì cô có thể tan biến khỏi nơi này như một làn khói.” Nhiều người ví “Đợi anh ở Toronto” như một bản nhạc - một bản tình ca. Câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính Vi và Nguyên là một bản nhạc nhiều tiết tấu. Có khúc bối rối, gấp gáp theo tâm trạng của Vi lần đầu biết đến tình yêu; có khúc nhẹ nhàng, vui vẻ khi họ yêu nhau; có khúc trầm lặng như nỗi đau đớn khi tình yêu đi xa. Khúc nào “Đợi anh ở Toronto”cũng đẹp, cũng lãng mạn. Thế nên, có hàng vạn chuyện tình trên thế gian này, nhưng chuyện tình ở Toronto vẫn có thể khiến người đọc say mê dõi theo và hòa chung cảm xúc yêu đương với nhân vật.   *** Văn phòng ở downtown(1) Toronto của tập đoàn kiểm toán NKT chiếm trọn toàn bộ một tòa nhà hai mươi sáu tầng bề thế trên đường Front Street. Được làm việc ở đây là ước mơ mà Vi ấp ủ suốt bao nhiêu năm qua. Ước mơ ấy của cô cuối cùng cũng đã trở thành hiện thực. Vi vẫn còn cảm thấy lâng lâng như đang trong mơ. Cô không thể ngờ rằng, điểm dừng chân của cô trong cuộc hành trình tìm kiếm việc làm lại chính là ở đây, trong tập đoàn kiểm toán đa quốc gia rất nổi tiếng này… Đến bây giờ Vi mới thực sự cảm thấy quyết định chuyển sang học ngành kế toán của cô là một quyết định sáng suốt, vì đó là ngành dễ tìm việc nhất ở đất nước này so với các chuyên ngành kinh tế khác như tài chính hay marketing mà trước đây cô đã định theo học. Vi ngước nhìn một lần nữa biểu tượng của công ty với ba chữ NKT màu trắng giản dị, trước khi bước xuống đường, hòa vào dòng người đang tấp nập trên hè phố trong giờ tan tầm. Cô vừa nhận được quyết định tuyển dụng của công ty, trước hết với vị trí summer student(2). Đây hoàn toàn là một khởi đầu đầy hứa hẹn, bởi nếu quá trình làm việc được đánh giá tốt, cô sẽ có nhiều cơ hội có được một công việc toàn thời gian ổn định. Cô sẽ chính thức bắt đầu làm việc ở đây trong tháng năm này. Chỉ mới một tháng trước đây thôi, Vi vẫn còn mờ mịt về tương lai của mình. Hơn ai hết, cô nhất định phải tìm được một công việc để có thể tồn tại ở đây sau khi tốt nghiệp. Đó chính là yếu tố quyết định đến tương lai của cô và của cả gia đình cô nữa. Chính vì thế, hàng tháng trời nay Vi đã âm thầm chuẩn bị hồ sơ, học hỏi kinh nghiệm trả lời phỏng vấn, tích cực tham gia các công tác ngoại khóa, các buổi hội thảo… để có thể sẵn sàng cho cuộc chạy đua tìm kiếm việc làm. Cô đã cày nát các website về việc làm. Nhưng thật không may cho cô, thời điểm nền kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khủng hoảng. Các công ty liên tục cắt giảm người. Hiếm hoi lắm mới có một vài vị trí mà cô nghĩ là phù hợp với chuyên ngành học của mình thì lại đòi hỏi các ứng viên phải có kinh nghiệm. Trong hoàn cảnh ấy, sinh viên mới và sắp ra trường kiếm được việc làm hẳn đã là một kỳ tích, huống hồ cô lại là một du học sinh từ nơi khác đến, ngôn ngữ, văn hóa, mối quan hệ… đều hạn chế và không phải là thế mạnh. Cô chỉ có thể trông chờ duy nhất vào điểm số, khả năng làm việc và sự may mắn mà thôi. Giữa lúc Vi gần như mất hết hy vọng nhận được hồi đáp tích cực cho các hồ sơ mà cô đã gửi đi, thì một cơ hội bỗng mở ra cho cô. Hôm đó, khóa của cô nhận được thông báo: tập đoàn NKT sẽ có một buổi career boot camp(3) ở trường cô nhằm giới thiệu về tập đoàn và tìm kiếm những ứng viên xuất sắc cho các vị trí summer student làm việc ở Toronto. Vi không thể để lỡ một cơ hội hiếm hoi như thế. Cả đêm hôm trước cô đã ngồi rà soát lại toàn bộ hồ sơ, kiểm tra chi tiết từng thông tin, từng từ, từng chữ trong đơn xin việc, để đảm bảo bộ hồ sơ của cô được chuẩn bị một cách hoàn hảo nhất. Sáng hôm boot camp, Vi đến thật sớm để kiếm chỗ ngồi ngay hàng đầu tiên, gần với các diễn giả. Hôm nay, sau phần giới thiệu về tập đoàn, còn có hai nhân viên của NKT đến chia sẻ với các bạn sinh viên những kinh nghiệm cá nhân của họ trong quá trình được tuyển dụng và làm việc ở NKT. Vi phát hiện ra một trong hai nhân viên đang thuyết trình là người Việt, hay ít nhất cũng là người gốc Việt, căn cứ vào bảng tên đang cài trên ngực áo của người đó. Cô quyết định sẽ thử một nước cờ táo bạo. Số cô đúng là có quý nhân phù trợ. Vi nhanh chóng tiếp cận được chàng kiểm toán viên đó trong giờ nghỉ giải lao. Chọn đúng lúc đám sinh viên bắt đầu tản ra, và Nam (tên của chàng kiểm toán viên) đang ngồi một mình trước đống giấy tờ, chăm chú nhìn vào màn hình máy tính xách tay, Vi bèn tiến lại gần, cất lời chào bằng tiếng Việt: - Xin lỗi, em có thể hỏi anh một chút được không ạ? ... Mời các bạn đón đọc Đợi anh ở Toronto của tác giả Nguyễn Thu Hoài.
Adeline Bên Sợi Dây Đàn - Thang Vũ Đình
Một cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ. Một chàng trai xuất thân danh giá, nhưng lại bị ghẻ lạnh. Một người theo đuổi giấc mơ, tràn đầy hy vọng về cuộc sống, hy vọng tìm ra người tài trợ bí mật ở đất nước Hàn Quốc xa xôi. Một người trốn tránh hiện thực, thờ ơ với tất cả, một mình cô độc trong ngôi nhà gỗ. Truyền thuyết kể rằng: Có một vị quốc vương tên là Pyg­malion, tạc nên một bức tượng thiếu nữ vô cùng xinh đẹp và đặt tên là Ade­line. Thiếu nữ ấy đã trở thành người bạn duy nhất trong cuộc đời của quốc vương, ngài cầu khấn thần linh, chờ đợi kỳ tích của tình yêu… Tiếng đàn của vận mệnh ngân lên nơi đất khách, Nàng Ade­line liệu có thức tỉnh được trái tim đã ngủ say? Tình yêu có làm nên kỳ tích??? *** Một buổi chiều mùa hạ dịu mát, những cơn gió nhẹ nhàng lướt qua người, không để lại bất kỳ cảm giác nhớt dính nào. Mặt trời đỏ lựng hắt lên ánh hào quang, nhuộm không gian thành sắc đỏ của anh đào, rực rỡ nhưng không chói mắt. Những bông hoa sen kiêu hãnh nở trên hồ nước trong sân trường, không hề bận tâm đến những chú cá nhỏ đang làm nũng dưới mặt lá xanh mơn mởn, quẫy mình tạo thành những gợn sóng lăn tăn. Thỉnh thoảng có mấy tia sáng nghịch ngợm hắt qua song cửa sổ, rọi chiếu vào phòng nhạc. Những hạt bụi bay bay dưới ánh nắng, như đang thì thầm to nhỏ về tiếng đàn du dương trầm bổng. Phòng nhạc trống trải nhưng sáng sủa. Cách bài trí giá để bản nhạc và bàn ghế ở đây theo phong cách cổ điển. Mùi hương của gỗ lan tỏa khắp mọi nơi. Giữa phòng nhạc là một cây đàn tranh cổ tao nhã. Một cô gái thanh tú hơi ngả người về phía trước, hai mắt khép hờ, những ngón tay nhẹ lướt trên dây đàn. Phấn tùng hương lẫn với tiếng đàn bay lượn trong không trung, càng tăng thêm phần hấp dẫn cho người chơi đàn. Mái tóc đen nhánh dài đến eo được vén gọn gàng sau tai. Mười ngón tay dài và trắng mịn. Ngón tay lướt nhẹ tạo thành đường cong hoàn mỹ trong không trung rồi lại từ từ hạ xuống. Những nốt nhạc như nhảy múa giữa không trung, tiếng nhạc du dương trầm bổng say đắm lòng người. Bản nhạc kết thúc, tiếng vỗ tay vang lên giòn giã. Người phụ nữ trung niên đứng trước cửa sổ, quay lưng về phía cô gái lúc ấy cũng quay người lại, mỉm cười và nói: “Rất tốt, rất tốt”. Người phụ nữ nhìn cô học trò giỏi giang của mình với ánh mắt tán thưởng, không tiếc lời khen ngợi: “Bản nhạc Khổng tước đông nam phi(1)này rất khó. Cô còn lo không biết có phải mình chọn sai bản nhạc cho em không. Nhưng em đã hoàn thành rất xuất sắc, ngoài cả sự mong đợi của cô. Dù là kỹ thuật diễn tấu, cách biểu hiện tình cảm hay phương pháp biểu diễn đều rất tốt. Cô tin rằng chắc chắn em sẽ vượt qua vòng phỏng vấn vào trường cấp ba thuộc Học viện Âm nhạc Trung Quốc lần này”. “Thật ạ? Thật sự có thể được ạ?”. Hiểu Tranh nói, nhìn cô Diệp bằng ánh mắt rất chân thành. Đôi mắt to tròn dưới đôi lông mày rậm sáng lấp lánh, toát lên vẻ trẻ con đáng yêu. “Ừ, đúng rồi, trường mình có một suất trao đổi học sinh sang Hàn Quốc. Em đã nghe nói chưa?”. Cô Diệp bước lại gần, khẽ hỏi Hiểu Tranh. “Rồi ạ, nhưng em nghĩ chuyện ấy không liên quan đến em. Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của em bây giờ là vượt qua kỳ thi phỏng vấn của trường cấp ba Học viện Âm nhạc”. Hiểu Tranh gấp bản nhạc, ngẩng đầu nhìn cô Diệp với ánh mắt ẩn chứa sự tò mò. “Nếu em đến Hàn Quốc sẽ có thể gặp một người. Cô ấy là một trong những nghệ sĩ đàn tranh vô cùng nổi tiếng hiện nay”. Cô Phó chậm rãi nói. “Sao lại thế được ạ? Đàn tranh là nhạc cụ truyền thống của Trung Quốc. Nghệ sĩ đàn tranh giỏi nhất sao lại là người nước ngoài ạ?”. Hiểu Tranh ngạc nhiên hỏi. Cô Phó không nói gì, hướng ánh mắt ra ngoài cửa sổ, ngước nhìn bầu trời đêm u tối, dường như ký ức đang quay trở về với những năm tháng xa xôi trước đây. ... Mời các bạn đón đọc Adeline Bên Sợi Dây Đàn của tác giả Thang Vũ Đình.
Ma Lực Tình Yêu - Johanna Lindsey
Cô ấy còn trẻ, ngọt ngào, là người thích hợp để lấy làm vợ, nhưng người đàn bà hấp dẫn anh phải trưởng thành, trần tục, kiểu người hiểu rằng anh sẽ chẳng bao giờ cho họ danh phận và sẽ không bao giờ như thế. Một khi anh rời bỏ họ, anh sẽ quên ngay và không bao giờ bận tâm để rồi tự hỏi bản thân liệu anh có bỏ lại họ trong đau khổ. Họ đã khuất khỏi tầm mắt, ra khỏi trí nhớ và không bao giờ thích hợp để nhét vào. - Chính những suy nghĩ đó về Amy Malory đã khiến Warren phủ nhận tình cảm của bản thân và từ chối tình yêu của cô giành cho anh. Thế nhưng, mặc cho anh cố gắng từ chối tất cả những cảm xúc khi nghĩ về Amy thì cô vẫn “cứ nấn ná lại một cách mạnh mẽ trong tâm trí anh”. Warren Anderson, người đàn ông 36 tuổi hấp dẫn nhất mà Amy Malory từng gặp, một thương nhân người Mỹ và cũng là anh vợ của chú cô. Anh nóng nảy, thích giễu cợt, ghét phụ nữ, ghét người Anh và đặc biệt, anh ghét người nhà Malory. Rõ ràng trong tất cả những người đàn ông độc thân xuất hiện trước Amy thì anh là người ít thích hợp với cô nhất. Thế nhưng Warren lại chính là người duy nhất khuấy lên cảm xúc của Amy, khiến cô không cần một quả cầu tiên tri cũng có thể tin tưởng rằng anh chính là người ông của đời mình. Amy xinh đẹp đã bị Warren hút hồn ngay từ những lần gặp đầu tiên. Nhưng mặc cho cô hấp dẫn và quyến rũ đến mức độ nào thì Warren vẫn đối xử với cô bằng một sự chán ghét và thái độ gay gắt. Với bản tính chinh phục và sự bướng bỉnh đến táo tợn đặc trưng của người nhà Malory, Amy đã tìm mọi cách để tiếp cận được trái tim của Warren. Qua câu chuyện của Georgina - em gái của anh (nữ chính trong cuốn “Gã cướp biển quý tộc”), Amy đã biết được về quá khứ của anh, về người đàn bà mà anh từng yêu và muốn kết hôn đã phản bội anh đi theo kẻ thù của anh như thế nào. Càng tìm hiểu về Warren, Amy càng bị thôi thúc bởi ý nghĩ muốn biến Warren trở lại là người đàn ông ngọt ngào và đầy lãng mạng như trước đây. Nhưng cuộc chiến giành giật trái tim của anh là không hề dễ dàng. Sự phản đối của dòng họ Malory tuy có gay gắt, âm mưu của những kẻ thù địch Warren tuy có độc ác nhưng cũng không khó vượt qua bằng chính Warren với ý chí sắt đá, sự cứng đầu quyết không chịu thừa nhận tình cảm thực sự của mình mặc cho cô có cố quyến rũ anh bằng cách nào đi nữa. *** Johanna Lindsey, tên thật là Johanna Helen Howard, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1952 tại Đức, nhưng lại là một trong những nhà văn nổi tiếng ở Mỹ. Bà được mệnh danh là một trong những tác giả thành công nhất trên thế giới về tiểu thuyết lịch sử lãng mạn. Các tác phẩm của bà thường xuyên lọt vào danh sách bán chạy nhất do New York Times bình chọn.   Lindsey xuất bản cuốn sách đầu tay vào năm 1977, với tựa đề Captive Bride, và ngay lập tức đưa tên tuổi của bà đến với các độc giả yêu văn học. Đó chính là độc lực để bà tiếp tục cho ra đời rất nhiều cuốn tiểu thuyết ăn khách khác.   Tính đến năm 2006, những tác phẩm của bà đã bán được trên năm mươi tám triệu ấn bản và dịch ra mười hai ngôn ngữ trên toàn thế giới.   Bằng lối kể chuyện hài hước song cũng không kém phần lãng mạn và bất ngờ, Johanna đã không hề khiến người đọc thất vọng với những câu chuyện của mình. Bà đã gắn kết những con người với hoàn cảnh và số phận hoàn toàn khác biệt, tưởng chừng như không bao giờ có thể ở bên nhau, và cho hộ một kết thúc viên mãn.   Không chỉ có vậy, giọng văn tinh tế và vô cùng đặc trưng của Johanna cũng là điều luôn hấp dẫn độc giả. Mỗi nhân vật của bà luôn được khắc họa với cá tính nổi bật. Ngoài ra, chính sự kiên cường của họ trong tình yêu cũng góp phần tạo ra nét đặc sắc cho ngòi bút của bà.   Mời độc giả đọc các tác phẩm của Johanna Lindsey đã và sẽ được Bách Việt xuất bản: Ma lực tình yêu (2012), Nàng công chúa lưu lạc (2012), Gã cướp biển quý tộc (2012), Em là của anh (2012), Hãy nói yêu em (2013), Người thừa kế (2015), The devil who tamed her, A rogue of my own, Let love find you. *** London, năm 1819. Cô hầu bàn mấy lần thở dài thườn thượt bởi ba quý ông trẻ tuổi và cực kỳ đẹp trai đã không yêu cầu thêm rượu, mặc cho cô ta đã cố hết sức thể hiện là mình luôn sẵn sàng phục vụ. Ấy thế mà cô ta vẫn lượn lờ quanh bàn họ, hy vọng rằng biết đâu một trong ba người lại thay đổi ý định, nhất là anh chàng có mái tóc vàng và đôi mắt xanh đầy gợi cảm kia, đôi mắt ấy hứa hẹn những khoái cảm tuyệt vời nếu tay cô ả có thể chạm vào người anh ta. Derek, mọi người thường gọi anh như vậy và trái tim cô ta đã nhảy múa ngay khi anh bước qua cánh cửa. Cô ta chưa bao giờ thấy người đàn ông nào đẹp trai như thế, cho đến khi chàng trai trẻ nhất trong ba người bước vào. Thật đáng xấu hổ, bởi người đó còn quá trẻ, mà với sự từng trải của cô ta thì những chàng trai cỡ tuổi này chẳng có chút hấp dẫn nào cả. Mặt khác, tia nhìn ranh mãnh lóe lên trong ánh mắt cậu ta làm cô hầu bàn thắc mắc, liệu cậu ta có biết cách làm cho phụ nữ sung sướng cho dù tuổi đời còn non trẻ hay không? Thực ra cậu ta có vóc người to cao hơn hẳn hai người bạn đồng hành, với mái tóc nhuốm màu đêm và đôi mắt xanh thẫm trong vắt, cậu ta nhìn hấp dẫn đến nỗi cô ta khao khát được khám phá. Chàng trai thứ ba trông có vẻ già dặn nhất, tuy không được đẹp trai như hai người kia, song cũng rất bảnh. Cô gái lại thở dài lần nữa, chờ đợi, hy vọng, rõ là thèm thuồng nhưng e rằng đêm nay cô ta đã đến giới hạn cuối cùng của sự chán nản, họ chỉ quan tâm đến rượu và câu chuyện của họ mà thôi. Lờ đi những ham muốn thường có trong suy nghĩ - những điều chẳng có gì mới với cả ba - họ đột ngột thay đổi chủ đề dưới cái nhìn khao khát của cô hầu bàn. “Cậu ta làm điều đó như thế nào, Derek?” Percy phàn nàn bằng cái giọng lè nhè. Anh ta đang ám chỉ đến người trẻ nhất trong nhóm, cậu em họ Jeremy của Derek. “Thằng nhóc này đang cụng ly với chúng ta, quỷ tha ma bắt cậu đi nếu cậu ta không làm thế, như thể ngồi đây chẳng có gì sai trái vậy.” Hai anh em nhà Malory cười nhe răng với nhau. Percy không hề biết rằng những tên cướp biển đã dạy cho Jeremy mọi thứ về rượu và đàn bà. Nhưng nó chẳng khác kiến thức gia truyền là bao, cũng không phải do cha của Jeremy, James Malory - Tử tước của dòng họ Ryding, đã từng là kẻ cầm đầu toán cướp biển với cái tên Hawke, mà là vì Percyval Alden hay Percy - cái tên mà bạn bè vẫn thường gọi, chưa bao giờ được nghe kể về điều đó. Percy già tốt bụng không thể giữ nổi bí mật để cứu rỗi linh hồn mình. “Cậu không biết chú James đã từng cảnh cáo mình về việc làm giảm số rượu của chú ấy à.” Derek nói dối một cách trắng trợn bằng vẻ mặt hết sức nghiêm túc. “Hay nói cách khác, những đứa nhỏ không được phép ra ngoài với mình.” “Trời, thật đáng sợ làm sao.” Percy đổi giọng, tỏ vẻ ái ngại khi thấy bạn mình cam đoan một thằng nhóc mười tám tuổi sẽ không được uống rượu ở cái bàn này. ... Mời các bạn đón đọc Ma Lực Tình Yêu của tác giả Johanna Lindsey.
Bão Thép - Nguyễn Khắc Nguyệt
Bão Thép - Tiểu thuyết viết về Binh chủng Tăng thiết giáp, gồm có:  +  Tập 1 –  Cơn lốc đầu mùa    ( 2009 )  +  Tập 2 – Áp thấp Đường số 9 ( 2010 )  +  Tập 3 – Tâm bão                     (  2011 )  +  Tập 4 – Trận cuồng phong    (  2012 ) *** Với tầm mắt nhìn xa trông rộng, ngay sau khi kết thúc thắng lợi chín năm kháng chiến chống Pháp, nửa nước được độc lập, tự do Đảng và Bác Hồ kính yêu đã nghĩ đến việc xây dựng một quân đội chính quy, hiện đại, đủ sức cùng toàn dân hoàn thành nhiệm vụ giải phóng nửa nước thân yêu và bảo vệ vững chắc độc lập, tự do của Tổ quốc.    Trong bối cảnh đó gần ba trăm cán bộ, chiến sĩ từ khắp các đơn vị đã được tuyển chọn để cử đi nước ngoài học tập về xe tăng, thiết giáp, một binh chủng hiện đại của lục quân. Và ngày 5 tháng 10 năm 1959 trung đoàn xe tăng đầu tiên của QĐNDVN đã được thành lập tại Quế Lâm, Trung Quốc. Đúng 17 giờ ngày 13 tháng 7 năm 1960 những chiếc xe tăng đầu tiên của QĐNDVN đã lăn vết xích đầu tiên trên Đất Mẹ thân yêu. Từ giờ phút đó bộ đội xe tăng đã có mặt trong đội ngũ điệp trùng của LLVT, cùng các quân binh chủng bạn thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của LLVT cách mạng. Với những ưu việt của mình, ngay từ khi mới ra đời xe tăng thiết giáp đã được xác định là lực lượng đột kích quan trọng của lục quân. Tuy nhiên, vì nhiều lý do cả chủ quan lẫn khách quan phải sau gần 10 năm thành lập, trải qua những cuộc đấu tranh rất gay gắt về quan điểm lực lượng TTG Việt Nam mới ra quân và đánh thắng trận đầu ở Tà Mây- Làng Vây tháng 2 năm 1968. Chiến thắng oanh liệt này đã mở ra một trang sử mới trong lịch sử chiến tranh Việt Nam và dựng xây lên truyền thống vẻ vang “Đã ra quân là đánh thắng” của binh chủng TTG. Những năm tiếp theo xe tăng thiết giáp đã từng bước khẳng định vị thế của mình trong các chiến dịch Đường Chín- Nam Lào, Cánh Đồng Chum năm 1971 và Quảng Trị, Tây Nguyên, Nam Bộ năm 1972. Từ đó binh chủng TTG đã có sự phát triển lực lượng vượt bậc, lớn nhanh như Phù Đổng, có mặt trên khắp các chiến trường. Cho đến cuộc Tổng tiến công nổi dạy Mùa Xuân 1975 Tăng Thiết giáp đã tham gia ngay từ trận mở màn ở Buôn Ma Thuột, các chiến dịch Huế- Đà Nẵng, Phan Rang- Hàm Tân và đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trong chiến dịch này TTG- như một cơn bão của thép và lửa- đã dẫn đầu 5 cánh quân tiến công Sài Gòn, dinh lũy cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn. Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30 tháng Tư năm 1975 hai chiếc xe tăng 843 và 390 đã húc tung cánh cổng Dinh Độc Lập, đại đội trưởng xe tăng Bùi Quang Thận cắm lá cờ chiến thắng lên nóc Dinh, chính ủy lữ đoàn xe tăng 203 thay mặt Quân giải phóng tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của chính phủ ngụy quyền Dương Văn Minh, viết nên trang sử hết sức hào hùng và oanh liệt.    Cuốn sách được viết ra nhằm tái hiện quá trình phát triển và trưởng thành của binh chủng TTG trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc ta. Thông qua đó ngợi ca tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lòng dũng cảm vô song và tinh thần lao động sáng tạo không ngừng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ xe tăng Việt Nam. Đồng thời cũng góp phần làm sáng tỏ một nguyên lý: “vũ khí dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ giữ vai trò quan trọng, còn quyết định vẫn là những con người sử dụng vũ khí đó”.    Năm 2009 là năm kỷ niệm 50 năm ngày thành lập binh chủng TTG, đồng thời cũng là năm kỷ niệm 65 năm thành lập QĐND Việt Nam. Cuốn sách này do một chiến sĩ xe tăng viết ra như một lời tri ân với Đảng, Bác Hồ, với các thế hệ đi trước đã dày công vun đắp nên truyền thống vẻ vang của binh chủng Tăng Thiết giáp, như một nén tâm nhang thắp cho những đồng đội đã hy sinh và cũng là món quà đối với tất cả những ai yêu mến binh chủng “Thép” anh hùng.  *** Những ngày cuối năm trôi qua thật nhanh. Chẳng mấy mà cái Tết Ất Mão đã tới sau lưng. Có vẻ như năm nay kinh tế khá hơn nên các phiên chợ cuối năm hàng hóa phong phú hơn hẳn. Bất chấp cảnh mưa phùn, gió bấc người ta lũ lượt kéo nhau đi chợ sắm Tết. Mà hình như năm nay bộ đội được về phép Tết nhiều hơn thì phải. Chợ nào cũng thấy nhan nhản những bóng áo xanh của lính. Biết tư lệnh Đào đã mấy năm không ăn Tết cùng gia đình nên chính ủy Sính gợi ý năm nay ông nên nghỉ mấy ngày phép vào dịp Tết. Trước thiện ý của người đồng cấp, ông Đào vui vẻ nhận lời. Ông dự định sẽ xin nghỉ phép trước Tết độ một tuần, đến Mồng Hai sẽ lên cơ quan trực thay cho các đồng chí khác đi nghỉ. Một phần vì đã lâu ông được ăn Tết cùng gia đình. Một phần vì thằng Hưng, cái thằng con nuôi của ông bà dạo vừa rồi bất ngờ viết thư lên thông báo với bố là ra Tết sẽ nhập ngũ. Cái thằng này ngày bé xanh xao, còi cọc lắm nhưng hai năm nay lớn phổng hẳn lên, trông cũng ra dáng đàn ông ra phết. Việc nó tự giác đi khám sức khỏe và chấp hành mọi quyết định của địa phương làm ông thấy phấn khởi. Như thế nghĩa là nó cũng biết nghĩ, biết bổn phận của mình với đất nước. Thực tình, bố con ông cũng ít khi nói chuyện với nhau nhưng ông tin rằng chính sự giáo dục bằng tấm gương của bản thân mình còn hơn vạn lần những câu giảng giải lý thuyết suông. Chuyện nó nhập ngũ ông cũng không có ý kiến gì, cũng chẳng tác động với địa phương hay xin cho nó về đơn vị mình. Ông muốn con đi lên bằng chính đôi chân của mình, không phải dựa dẫm vào ai. Và bước đầu nó đã làm được như vậy. Bà Hạnh thì không quan tâm nhiều lắm tới những chuyện xa xôi đó. Nó lớn rồi thì nó phải đi. Nó đi bộ đội thì cũng như cha nó, như biết bao thanh niên trai tráng ở cái làng này, ở đất nước này. Chỉ biết Tết này ông ấy được nghỉ hẳn một tuần và cả nhà đoàn tụ là bà vui rồi. Ngay từ hôm biết ông về ăn Tết bà đã đăng ký với ông anh họ xin đụng hẳn một góc con lợn hơn bốn chục cân. Gạo nếp, đỗ xanh, măng miến… cũng đã chuẩn bị đủ cả. Bà muốn cái Tết này phải thật tươm tất. Mọi năm ông ấy đi vắng, chỉ có mấy mẹ con ở nhà thì đơn giản một chút cũng được. Còn năm nay dứt khoát phải đàng hoàng hơn. Về nhà, thấy bà săm sắn chuẩn bị Tết ông cũng thấy vui vui. Cho đến lúc này ông mới thấy để chuẩn bị cho cái Tết của một gia đình không hề đơn giản một chút nào. Thời buổi chiến tranh, cái gì cũng khó kiếm, có thứ bà phải tích trữ từ mấy tháng trước rồi. Thằng Hưng thì đang bận đi thăm và chia tay bạn bè để chuẩn bị lên đường. Mấy đứa con gái thì mắt trước, mắt sau nhấp nhỉnh lên chợ thị trấn chơi. Thấy các con như vậy, ông bảo chúng cứ đi đi, năm nay đã có bố về, có việc gì bố sẽ làm cho. Nói như vậy, nhưng đến lúc vào việc thì ông cứ lúng ta, lúng túng như gà mắc tóc. Có bó giang bà bảo ông chẻ lạt gói bánh mà loay hoay mãi, được một bó lạt thì trăm cái lẹm cả chín chục. Bảo ông đi xiết đỗ thì đỗ cứ lăn lung tung, hạt vỡ vụn, hạt lại còn nguyên trông đến chán. Cuối cùng bà giao cho ông mỗi việc rửa lá dong. Ông vừa ngồi tỷ mẩn rửa lá, vừa nhìn bà tất bật đãi gạo, thổi đỗ, ướp thịt… vừa lẩm bẩm: “Thì ra, để làm được một cái bánh chưng thơm ngon, béo ngậy mà ông vẫn ăn ấy lại phức tạp đến thế. Cả một quy trình khép kín không thể bỏ qua một công đoạn nào”. Nghĩ đến đây, chợt ông nhớ lại hồi mới đi học lái xe tăng. Quy tắc lái thì học thuộc lòng rồi, bất cứ yếu lĩnh nào cũng phải thực hiện hàng loạt các động tác, thao tác theo một thứ tự nhất định. Nổ máy thì 13 thao tác. Khởi xe thì 5 thao tác v.v… Ấy thế nhưng anh em nhà ta lại hay khôn vặt, chỉ nhăm nhăm “ăn cắp động tác”. Chả là làm như thế thì vừa nhanh, đạt chỉ tiêu về thời gian vừa đỡ mệt. Trợ giáo của bạn nhắc mãi vẫn không chừa. Thế rồi, hiệu quả nhãn tiền của cái trò làm tắt ấy đã hiển hiện. Trong một lần lái xe, quy định khi sang số phải đạp “hai ly hợp” nhưng lính ta chỉ đạp một lần và kết quả là cái hộp số vỡ tung. Thế mới biết không phải ngẫu nhiên mà người ta lại đề ra cả một mớ quy trình, quy phạm rắc rối đến thế. Sau đận ấy, đoàn phải họp và ra nghị quyết kiên quyết chống làm bừa, làm ấu, chấp hành nghiêm mọi quy định trong quy tắc sử dụng trang bị. Nghĩ đến đây, ông bật cười. Thấy ông cười, bà ngẩng lên nhìn rồi nhăn nhó: “Rửa như ông thì ăn cả đất à”. Rồi bà nhặt lấy một cái lá, hướng dẫn ông từng động tác lau sao cho sạch mà không bị rách. Ông chỉ biết cười rồi lẩm bẩm: “Phức tạp đến thế kia à?”. Đúng là cả đời làm lính nên những việc thông thường nhất ông cũng không biết. ... Mời các bạn đón đọc Bão Thép của tác giả Nguyễn Khắc Nguyệt.