Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Casanova Ở Bolzano

Năm 1756, trốn thoát khỏi buồng chì kiên cố ở Venice, không cưỡng nổi sự thôi thúc bí ẩn của định mệnh, kẻ phiêu lưu khét tiếng và phong tình lừng danh của thế kỷ 18 Giacomo Casanova tìm đường trở về Bolzano, nơi chàng từng chạm trán Tử thần trong cuộc quyết đấu cùng vị hôn phu quyền lực của thiếu nữ Francesca tuyệt sắc. Lần trở lại này của Casanova khiến cả thành phố chấn động. Tin tức cũng lan tới lâu đài của Bá tước Parma, lúc này đã kết hôn cùng Francesca. Bá tước tới nơi chàng Casanova trọ để làm một cuộc thương lượng lạ lùng. Một bí mật sẽ vĩnh viễn trở thành kỷ niệm, một nỗi đau sẽ được gói lại lần cuối, để không gì còn xen vào cuộc sống của người đàn bà quý giá của đời ông...  Hư cấu và tưởng tượng, không vay mượn từ Histoire de ma vie của nhân vật có thực Giacomo Cassanova nổi tiếng trong lịch sử, Márai Sándor  đã tạo nên một kiệt tác văn chương tràn ngập hơi thở mãnh liệt, cám dỗ nồng nàn của cuộc sống, với những đối thoại lạ lùng, thông thái, đam mê, bất ngờ và đầy tính cách ngôn sâu xa xoay quanh một tình yêu khắc khoải. Casanova ở Bolzano chứng minh rằng Márai Sándor - một trong những bậc thầy xuất sắc của nền văn học Hungary và thế giới - đã in dấu ấn vô cùng đặc biệt trên diện mạo văn chương thế kỷ 20. *** Lời khen tặng dành cho Casanova ở Bolzano “Câu chuyện mê đắm về tình yêu, tình bạn và sự phản bội…  Phong phú, cám dỗ, nồng nàn và châm biếm.” - Elle   “Sâu sắc và đầy chiêm nghiệm… Tràn ngập niềm vui cuộc sống.” - Vogue “Sáng chói… Cuộc đấu phức tạp của những trí tuệ… Casanova ở Bolzano cung cấp thêm bằng chứng về sự xuất sắc bị quên lãng của tác gia lớn trong thời đại chúng ta: Márai Sándor.”  - Chicago Tribune *** Ghi chú Trong gương mặt và tính cách nhân vật của tôi chắc hẳn độc giả tưởng mình nhận ra diện mạo đặc trưng của Giacomo Casanova1 kẻ phiêu lưu khét tiếng vào thế kỷ 18. Thật khó cưỡng lại nổi sự nhận biết này, mà trong mắt một số người có thể nó cũng là sự phê phán. Nhân vật của tôi cực kỳ giống anh chàng liều lĩnh, vô gia cư và dẫu sao có lẽ vẫn bất hạnh, người vào nửa đêm ngày 31 tháng Mười năm 1756 đã dùng thang dây trèo từ buồng giam mái lợp chì của Công quốc Venice, còn gọi là buồng chì, xuống eo biển và cùng một tu sĩ đã bị tước quyền hành đạo tên là Balbi bỏ trốn khỏi lãnh địa của Nước Cộng hòa2 về phía Munchen. Điều biện hộ cho tôi là từ câu chuyện cuộc đời của nhân vật, tôi không quan tâm đến câu chuyện lãng mạn, mà quan tâm đến tính cách lãng mạn của anh ta. Vì thế những thứ khác, như thời điểm và hoàn cảnh cuộc trốn thoát, tôi không vay mượn từ cuốn Những hồi tưởng3lừng danh. Tất cả những thứ khác mà độc giả tìm thấy trong tiểu thuyết này, đều là chuyện hư cấu và tưởng tượng. M.S. *** Một đức ông, từ Venice Chàng từ biệt những người chèo thuyền ở Mestré; người bạn hư hỏng Balbi thiếu chút nữa đã làm chàng rơi vào tay cảnh sát ở đây, vì đúng lúc chiếc xe ngựa chở khách khởi hành thì chàng hoài công tìm kiếm, mãi rồi mới thấy anh ta trong một quán cà phê - đang vô tư nhâm nhi một cốc sô cô la - và tán tỉnh cô hầu bàn. Đến Treviso thì chàng hết sạch tiền; họ lủi qua cổng Saint Thomas ra cánh đồng, và theo sau những khu vườn, đi men theo ven những cánh rừng, lúc mặt trời lặn thì đến trước những ngôi nhà của Valdepiadene. Đến đây chàng rút con dao găm ra dọa người bạn đường khó chịu, hai người hẹn sẽ gặp nhau ở Bolzano, rồi chia tay. Cha Balbi buồn bã bước đi giữa những thân cây trơ trụi trong rừng ô liu; nom ông gầy guộc và nhếch nhác, vừa đi vừa ngoái nhìn lại bằng cái nhìn vụng trộm tăm tối, lủi thủi như một con chó ghẻ bị chủ xua đuổi. Khi cha cố đã đi khuất, chàng đi vào thành phố, bằng một bản năng mù lòa và đáng tin cậy chàng hỏi chỗ ở trong nhà của viên chánh cẩm. Bà vợ ông ta, một phụ nữ thuần hậu, tiếp đón chàng, cho chàng ăn tối, rửa các vết thương cho chàng - trên gối và trên mắt cá chân máu đã đông lại, trong khi chạy trốn, lúc nhảy từ những mái nhà lợp chì, khuỷu tay và gối chàng bị xước -, và trước khi đi ngủ chàng được biết ông chánh cẩm đang đi vắng, ông đang săn lùng chính chàng, kẻ chạy trốn. Lúc rạng sáng chàng bỏ đi. Chàng ngủ ở Pergine, sang ngày thứ ba thì đến Bolzano trên xe ngựa, vì giữa đường đã moi được của một người quen sáu đồng tiền vàng. Balbi đã đợi chàng. Chàng thuê phòng trong một quán trọ có tên là Con Hươu. Chàng không có đồ đạc gì, quần áo rách mướp, chiếc áo đuôi tôm may từ thứ lụa màu nay chỉ còn lại những mảnh tơi tả, không có áo khoác ngoài. Ở Bolzano, trên những con phố hẹp gió tháng Mười một đã bắt đầu quất mạnh. Người chủ quán lúng túng nhìn những vị khách rách rưới. -      Những phòng đẹp nhất ư?! - ông ta lúng túng. -      Những phòng đẹp nhất! - chàng đáp khẽ, dứt khoát. - Và hãy chú ý đến đồ ăn đấy! -      Ở đây các người hay nấu với các thứ mỡ đã ôi, thay vì dầu, và từ khi rời khỏi Nước Cộng hòa ta chưa được ăn ở đâu một miếng cho tử tế! Hãy quay gà trống thiến và mái tơ vào bữa tối, không phải một, mà ba con, với hạt dẻ. Và kiếm loại vang Cyprus. Ngươi nhìn quần áo ta ư?... Ngươi tìm hành lý của ta ư? Ngươi ngạc nhiên vì ta đến đây tay không ư? Tin tức không tới đây hay sao? Ngươi không đọc Leyden Gazette sao!... Đồ ngốc! - chàng gào lên giọng khản đặc, vì giữa đường chàng bị cảm lạnh, và cơn ho đang hành hạ phế quản chàng. - Ngươi không nghe tin một nhà quý tộc Venice và thư ký cùng đám gia nhân vừa bị cướp ngoài biên giới ư? Cảnh sát còn chưa tới tìm ta ư? -      Dạ chưa thấy, thưa đức ông, - người chủ quán hốt hoảng đáp. Balbi bụm miệng cười. Cuối cùng đúng là họ đã được những phòng đẹp nhất: phòng khách, hai cửa sổ có cánh mở ra quảng trường chính, những đồ gỗ có chân mạ vàng và gương Venice đặt trên lò sưởi. Giường kiểu Pháp có màn che. Balbi ở phía cuối hành lang, gần một cầu thang hẹp và dốc dẫn lên tầng áp mái của những người hầu. Cách bố trí như thế làm chàng rất mãn nguyện. -      Thư ký của ta đấy, - chàng giới thiệu Balbi với ông chủ quán trọ. -      Cảnh sát, - người chủ quán trọ nói như thanh minh. - Ở đây cảnh sát cũng rất nghiêm. Họ sẽ đến đây ngay. Họ xem xét tất cả những người lạ mặt. -      Bảo với họ rằng, - chàng đáp qua loa - có khách quý. Một đức ông... -      Nhưng dù sao! - người chủ quán cố nài, và cúi đầu thật thấp, tay cầm chiếc mũ, tò mò và lễ phép. - Một đức ông, từ Venice! - chàng nói. Chàng nói điều này như thể thông báo một phẩm tước đặc biệt nào đó. Đến mức Balbi cũng phải chú ý tới âm điệu của chàng. Rồi bằng nét chữ nhọn và thành thục, chàng viết tên mình vào quyển sổ lớn. Người chủ quán hồi hộp đến đỏ mặt: day day thái dương bằng những ngón tay mập mạp, và không biết nên chạy đi gọi cảnh sát hay quỳ mọp xuống để hôn tay chàng? Thế là ông ta cứ đứng một chỗ, bối rối và im lặng. Rồi ông châm đèn và đưa các vị khách lên tầng trên. Những người phục dịch đã xếp dọn các phòng: mang nến đến trên những giá đỡ lớn mạ vàng, nước nóng đựng trong các bình bạc, những chiếc khăn lau Limburg bằng vải bông. Chàng bắt đau chậm rãi cởi quần áo, như một đấng quân vương, giữa đám hầu cận: chàng đưa từng chiếc áo bẩn cho người chủ quán trọ và những người hầu phòng, chiếc quần lụa dính máu bết vào da thịt phải dùng kéo cắt ở phía ngoài hai bên ống quần, chàng ngâm chân khá lâu trong cái chậu rửa bằng bạc, người ngả trên một chiếc ghế bành, lim dim ngủ vì mệt mỏi, nom tã tượi và thế thảm. Thỉnh thoảng chàng chợt ngủ trong một khoảnh khac, lẩm bẩm, hét lên một tiếng. Balbi, ông chủ quán, những người hầu phòng há miệng đi đi lại lại quanh chàng: người ta đang trải giường trong buồng ngủ, kéo kín các rèm cửa, tắt gần hết nến. Đến giờ ăn tối họ gõ cửa rất lâu. Sau bữa ăn chàng lại đi ngủ ngay; chàng ngủ đến trưa ngày hôm sau, với gương mặt vô tư và bình thản, lạnh lùng như người mới chết một ngày. Một đức ông, các cô gái bảo nhau rồi ai vào việc nay, khe khẽ hát, cười và thầm thì với nhau, trong bếp và dưới hầm, họ đi rửa xe và lau bát đĩa, chẻ củi, mang nước uống, họ nói nhỏ hơn, đưa ngón tay che miệng, lại khúc khích cười, rồi lại làm mặt nghiêm và truyền nhau cái tin ấy, vẻ quan trọng và cười cợt: một đức ông, đúng, một đức ông, từ Venice. Đến tối thì có hai viên cớm chìm đến quán; tên chàng, đáng ngờ và quyến rũ, hấp dẫn và nguy hiểm, vừa được mạ vàng bởi tin tức về cuộc phiêu lưu lớn, cuộc tẩu thoát, đã thu hút đám mật vụ ở khắp các thành phố. Và họ muốn biết tất cả. Hắn ta ngủ ư?... Không có hành lý gì à? -      Một con dao găm, - chủ quán nói. - Ông ta đến với một con dao găm. Chỉ có thế. -      Một con dao găm, - họ nhắc lại, vẻ am hiểu và ngơ ngác. - Loại dao gì thế? - họ căn vặn. -      Dao găm Venice, - chủ quán đáp vẻ hâm mộ. -      Không còn gì khác? - họ hỏi. -      Không, - chủ quán trọ đáp. - Không có gì khác. Một con dao găm. Chỉ có thế. Tin này làm hai viên cớm chìm bất ngờ. Họ đã không ngạc nhiên nếu chàng tới đây với đầy chiến lợi phẩm, đá quý, túi đựng, vòng cổ và nhẫn quý tháo ra từ ngón tay của những phụ nữ nhà lành trên dọc đường đi. Tiếng tăm chàng đã đến trước, như một kẻ dẫn ngựa đi tiền trạm, và bố cáo tên chàng. Sáng ra đức giám mục đã thông báo cho viên chánh cẩm, và yêu cầu trục xuất ngay vị khách nguy hiểm. Ở Tirol và Lombardia, buổi sáng sau lễ cầu kinh, buổi tối trong các quán rượu, người ta đã kể cho nhau nghe về cuộc tẩu thoát của chàng. -      Hãy cẩn thận với hắn! - đám cớm chìm nói. - Chúng tôi muốn biết hết hắn nói gì. Phải rất chú ý hắn. Hắn có nhận thư không, và nhận từ ai? Hắn có gửi thư không, và gửi cho ai? Hãy để ý đến nhất cử nhất động của hắn! Hình như, - họ thì thầm, dùng bàn tay chụm lại làm loa ghé sát vào tai ông chủ quán, - hắn có người che chở. Cả đức giám mục cũng chẳng làm gì nổi hắn. -      Trước mắt, - ông chủ quán nói với vẻ từng trải. -      Trước mắt, - những tay cớm chìm buồn bã nhắc lại. Rồi họ nhón chân bỏ đi, gương mặt bí hiểm và đầy lo âu. Ông chủ quán ngồi xuống trong phòng nước, thở dài. Ông không thích những người khách có tiếng tăm, những người gây nên sự chú ý của đức giám mục và cảnh sát. Ông nghĩ tới đôi mắt của vị khách, đen ánh lửa tăm tối và than hồng bập bùng uể oải trong đôi mắt ấy, và ông sợ. Ông nghĩ đến con dao găm, con dao găm Venice, đồ vật duy nhất của người khách, và ông sợ. Ông nghĩ đến tin tức theo sau vị khách, và bắt đầu rủa thầm. -      Teresa! - ông cáu kỉnh gọi. Một cô gái, đã bận áo khoác ngoài buổi tối, bước vào. Cô mười sáu tuổi, một tay cầm cây nến đang cháy, tay kia kéo hai vạt áo ngủ trước ngực. -      Nghe đây! - ông thì thầm, bảo cô bé ngồi xuống gối. - Ta chỉ tin con thôi. Chúng ta có một vị khách nguy hiểm. Teresa, ông khách này... -      Từ Venice đến? - cô bé nói giọng học trò, như hát. -      Đúng, từ Venice, từ Venice, - ông nói hốt hoảng. - Từ trong tù. Từ lũ chuột. Từ dưới giá treo cổ. Nghe đây, Teresa. Hãy chú ý xem ông ta nói những gì. Tai mắt con hãy luôn luôn ở cạnh lỗ khóa. Ta yêu con như con gái ta. Con là con nuôi ta; nhưng nếu ông ta gọi vào phòng thì con đừng ngại. Con sẽ đem bữa sáng cho ông ấy. Hãy coi chừng đức hạnh của con và hãy chú ý. -      Vâng, - cô bé đáp. Rồi vẫn cầm cây nến trên tay, cô bé đi về phía cửa, nhẹ nhàng như một cái bóng. Đến trước cửa, cô bé than, kéo dài giọng như giọng trẻ con: -      Cháu sợ. -      Ta cũng thế, - ông chủ quán nói. - Giờ con đi ngủ đi. Trước đó hãy đem cho ta rượu vang đỏ. Nhưng đêm đầu tiên tất cả đều trằn trọc.   Mời các bạn đón đọc Casanova Ở Bolzano của tác giả Márai Sándor & Giáp Văn Chung (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngày Thứ Tám Trong Tuần
Ngày Thứ Tám Trong Tuần là tiểu thuyết đầu tay của Marek Hlasko (1934-1969) — “nhà văn nổi loạn” nổi tiếng nhất của Ba Lan vào thời hậu-Stalin. Xuất bản lần đầu tại Ba Lan cách đây đúng 50 năm, tác phẩm một thời vang bóng này nói lên cuộc sống đương thời ngột ngạt, quá khứ nặng nề và tương lai mờ mịt của đông đảo những người trẻ tuổi bị gạt bên lề xã hội. *** "Không được. Bây giờ không được," Agnieszka nói, nàng đẩy mạnh tay của chàng thanh niên và khép chặt lại chiếc váy của mình. "Em muốn sao cũng được," người con trai đáp. Chàng nằm cạnh nàng trên bãi cỏ, nhìn qua bên kia bờ dòng Vistula. Giữa sông, một chiếc tàu kéo cục mịch đang mệt nhọc kéo ba chiếc xà lan, đầu máy hổn hển như nhịp tim của người già. Đêm đang xuống dần. Khí lạnh đông lại như sữa. Cây cối chung quanh sẫm lại. Chàng nằm yên cho đến khi cảm thấy bàn tay của Agnieszka đặt trên đầu của mình. Cô gái nói nhỏ: "Pietrek, em không muốn chuyện tầm thường. Nếu không yêu anh, có lẽ em không bận tâm đâu. Nhỡ có ai đến thì sao. Em không muốn người ta chà đạp lên những gì mà em xem là quan trọng. Anh phải hiểu như thế. Nếu mình phải giữ gìn một điều gì, thì đó chính là điều này." ... Mời các bạn đón đọc Ngày Thứ Tám Trong Tuần của tác giả Marek Hlasko.
Một Kiếp Lênh Đênh
Bối cảnh truyện là Sài Gòn những năm trước giải phóng, đầy hoa lệ mà cũng cực kỳ phóng túng. Ở đó, sau những ánh đèn chớp nháy đầy xa hoa là bao mảnh đời, số phận vật vã, nổi trôi. Liên là một trong số đó, số kiếp cô lênh đênh hết biến cố này lại sóng gió khác. Từ một cô bé ngây thơ như bao cô gái khác, chỉ vì cảnh nhà túng bấn, bố mất sớm mẹ đi bước nữa. Đến năm mười bốn tuổi, sự thô bạo và dâm tục của bố dượng đã buộc Liên bước chân ra lề đường, chấp nhận kiếp sống bụi đời. Như thứ nọc độc, nó chiếm lĩnh cô dần dần bằng những nét phù hoa giả dối, những ảo mộng cuộc sống trong tiện nghi vật chất với lối sống an nhàn, vương giả. Qua bà mẹ nuôi và cô chị kết nghĩa, từ lúc nào Liên đã thành thạo với cách kiếm tiền từ kinh doanh thân xác con người. Và rồi, chính lối sống ấy đã buộc cô phải trả giá bằng sự trinh trắng của mình. Từ đó, phần vì kế sinh nhai, phần để trả thù đời, Liên đã điên cuồng lao vào các cuộc tình đỏ đen. Cứ vậy, Liên ngụp lặn trong dòng đời ngầu đục, bất kể những biến thiên thời cuộc… Tiểu thuyết Một Kiếp Lênh Đênh đã đề cập phần lớn về góc khuất trong xã hội tạp nham đương thời. Đồng thời cuốn sách này cũng sẽ chạm tới trái tim bạn đọc để kiếm tìm sự đồng cảm với những số phận nghiệt ngã, đắng cay. *** Lối đi quen thuộc chứa chấp nhiều mạo hiểm... NGUYỄN KHẮC PHỤC Đọc “Một kiếp lênh đênh” của Thu Trang, tôi bỗng miên man nghĩ ngợi. Và gợi ra khá nhiều điều về nghề tiểu thuyết. Mà cụ Tố Như bảo “nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ cái nghề khó nhằn trên... Nghĩ cho cùng, văn chương, mà ráo riết nhất là tiểu thuyết, chỉ chăm bẵm vào việc mô tả, đào bới các khía cạnh của kiếp người. Vâng, cái kiếp người với tất cả những thăng trầm, biến cải, ái, ố, hỉ, nộ... chính là cốt liệu làm nên tác phẩm; chính là chất men gây hứng khởi (và cả buồn, vui, bi phẫn cùng hi vọng...) cho văn sĩ; chính là chỗ quy chiếu để ta xem nhà văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thế sự xoay vần ra sao, yêu cái gì, ghét cái gì, muốn cái gì phải chết, phải bị diệt vọng, cái gì phải còn lại, phải phát triển và đơm hoa kết trái... Tóm lại, dù “tiểu thuyết là cỗ máy tri giác thực tại” (theo định nghĩa của nhà văn Pháp Lu-i A-ra-gông), hay là “tấm gương đặt trên một cỗ xe, kéo lê trên đường cái, phản chiếu mọi sinh hoạt của đời sống” (theo cách nghĩ của Phốc-nơ, tiểu thuyết gia Hoa Kỳ)..., hay tiểu thuyết là gì gì đi nữa, “kiếp người” vẫn cứ là lý do đầu tiên và mục đích cuối cùng, khiến các nhà văn cầm bút, canh cánh bên lòng trước những cảnh ngộ éo le, bi thiết, niềm vui sống, tình yêu, lòng căm hận, bài ca bất tận của lao động sáng tạo, tinh thần hướng thiện, lòng sùng bái Mẹ Thiên Nhiên và cuộc vật lộn mưu sinh, những xô xát, tranh chấp giữa tốt-xấu, hay-dở, đúng-sai..., hăm hở tạo dựng lại một “thế giới ảo” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn, trên trang giấy, từ những mảnh vụn tưởng chừng rời rạc, ngẫu nhiên của hiện thực. Cái thế giới ảo ấy vừa bắt rễ, nảy mầm từ mảnh đất đời sống, vừa vươn cành lá xum xuê đón nhận ánh sáng mặt trời, tổng hợp nên chất “diệp lục tố” - cái chất huyền diệu biến “sự bịa đặt” (hư cấu) thành tác phẩm văn chương, “thật” hơn cả cái “thật” xuất phát điểm của nó... Trong cuốn sách của mình, Thu Trang quả là đã bắt ta theo dõi một “kiếp” lênh đênh trong tiểu thuyết thật hơn “kiếp lênh đênh” mà ta từng thấy trong đời. Mà lại lênh đênh trong trận cuồng phong những năm nửa sau thế kỷ 20 trên đất Nam Việt Nam. Liên, nhân vật chính, người đàn bà trong trại giam, sống lại trong hồi tưởng quá vãng, với bao ngậm ngùi, tủi hổ, trách móc và cũng không ít những lời biện hộ trắng trợn, đổ vấy cho “hoàn cảnh”... Ta hiểu, lắng nghe mà vẫn có thể cảm thông, thương xót và hy vọng một cái kết khả dĩ hơn, sẽ đến với con người có cái “kiếp lênh đênh” ấy. Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến tàu thuỷ chạy ven biển, chở những người miền Bắc di cư vào Nam, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Trong đó có gia đình của cô bé Liên. Rồi bố chết, mẹ đi bước nữa, gặp phải ông bố dượng chẳng ra gì, cô bé từ tổ ấm bước vào một cô nhi viện Công giáo và từ đó, bước thẳng vào giang hồ. Những gì xảy ra như một hậu quả lô-gich, Liên trở thành vũ nữ trong vũ trường, thành một thứ “gái bao” cho những ông Tây, ông Mẽo và khách làng chơi. Cứ thế trượt mãi xuống dưới đáy xã hội. Sau 1975, Liên cố gượng lại nhưng “hoàn cảnh xô đẩy” và cuối cùng, “nàng kiều nữ - sản phẩm kiêm nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới” tạm dừng chân trong một trại giam, trò chuyện, thổ lộ với tác giả về “cái kiếp lênh đênh” của mình... Giọng văn (qua lối tự thuật của nhân vật chính) giản dị, chân thật, gợi cảm u sầu, tiết tấu nhanh và ít khi bận tâm chẻ sợi tóc làm tư (gần gũi với lối ta thường bắt gặp ở một số cây bút di cư sau 1954). Nhưng có điều đáng ái ngại: chính trên những lối đi quen thuộc, nhà văn rất dễ gặp nhiều mạo hiểm khi độc giả dường như đã đoán biết trước những gì mà các nhân vật chính sẽ phải nếm trải và nhận lãnh... Nhưng Thu Trang đã không bắt đồng nghiệp và độc giả của mình phải thót tim lâu. Chị đã vượt qua những mạo hiểm trên một cách bản lĩnh mà vẫn hồn nhiên, tươi tắn chứ không đến nỗi phải gồng mình... Phường Quan Hoa - Cầu Giấy Một đêm chủ nhật N.K.P. Mời các bạn đón đọc Một Kiếp Lênh Đênh của tác giả Thu Trang.
Mộng Phù Du
Tác giả 'Rừng son' Candace Bushnell tái ngộ độc giả VN với 'Mộng phù du', câu chuyện về sức mạnh của nhan sắc và ý chí của người phụ nữ hiện đại. Tác phẩm nằm trong loạt sách của Chibooks ra mắt nhân Lễ tình yêu. Với “Mộng phù du”, Bushnell nêu cao tuyên ngôn: Chiến thắng dành cho những phụ nữ làm chủ đời mình; mặc dù vậy, mọi nấc thang danh vọng đều có giá của nó.Janey Wilcox - cô người mẫu đồ lót nổi tiếng của Victoria’s Secret, nỗ lực leo lên những nấc thang danh vọng trong xã hội New York bằng mọi giá. Quá trình đi tới đỉnh vinh quang đầy thử thách và đau đớn khi Janey bị lộ tẩy quá khứ rắc rối cùng vô số quan hệ tình ái không minh bạch. Mối quan hệ bạn bè với Mimi Kilroy - một nhân vật có vị trí hàng đầu trong xã hội New York, ông chồng tốt Selden Rose - người đứng đầu kênh truyền hình cáp Movie Time, người tình Comstock Dibble - giám đốc hãng Parador Pictures… đều chỉ là những bước đệm tạm thời cho Janey tiến lên phía trước. Thế nhưng, thành công của bất cứ ai sống trong thế giới hào nhoàng của Janey cũng đều là “một thành công kiểu Hollywood - bất ngờ, kỳ diệu, và choáng ngợp - được tạo ra để cuối cùng hủy hoại linh hồn của người nhận nó”. Qua cuốn sách, tác giả gửi thông điệp đến những con người đang sống trong “giấc mộng phù du”: “Trong tương lai, sẽ còn rất nhiều những giây phút thất vọng, khi khám phá ra mình bị bội phản, khi nhận ra rằng mới hôm nay mình thật “hot”, hôm sau mình đã đóng băng, và không ai nhận điện thoại của mình nữa…”. *** Review Mê Đọc Truyện Tình: Lâu rồi tớ mới đọc được một cuốn sách hay như này. Hành văn và cốt truyện đều hay song dịch thuật hơi kém một chút. Có thể do bản này người dịch còn chưa chuyên. Chắc chắn tớ sẽ mua bản gốc đọc Sách viết về một cô người mẫu .Cô tên Janey Wilcox. Phải bò từng bước trên nấc thang danh vọng . Thuở đầu, cô phải làm gái cho một ông trùm buôn vũ khí giàu nứt đố đổ vách. Mối tình với anh lái tàu đã kết thúc cuộc sống nhung lụa ấy. Cô trở về, bắt đầu làm người mẫu. Thời gian đầu rất khó khăn, đôi khi phải vay tiền các tình nhân. Trong lúc ấy, cô nhận được thư mời làm việc của Victoria’s Secret. Cuộc đời sang trang mới. Nổi tiếng, giàu có,... như cô hằng mong. Cô lấy chồng, ly dị và bắt đầu làm phim. Bản thân tớ thấy rất thích cô Janey Wilcox này. Một cô gái mạnh mẽ, khôn ngoan. Vẫn rất tình cảm và yêu cái đẹp. Thực ra con người cô không xấu, cô xấu là do cô buộc phải thế. để sống sót, để cho những người kia thấy cô không dễ dàng bị quật ngã, Phụ nữ thời nay nên như vậy. Không quá ủy mị, không quá khôn ngoan.  Sách lột tả bộ mặt thật sự của Hollywood Hoa Lệ. Đừng tưởng làm minh tinh là sướng, là giàu. Để có được điều đó, người ta phải đánh đổi quá nhiều thứ, đôi khi là chính bản thân mình.  Hành văn khá ổn, cốt truyện hấp dẫn, thực tế và lời văn giản dị khiến nó trở thành cuốn sách viết cho tuổi mới lớn rất hay.   *** Đó là đầu hè năm 2000, và ở thành phố New York, nơi những con phố lấp lánh bụi vàng lọt xuống từ những vụ mua bán hàng tỉ đô trong nền kinh tế đang hưng thịnh, vẫn là chuyện làm ăn kinh doanh như mọi khi. Thế giới yên bình bước sang một kỷ nguyên mới, tổng thống một lần nữa tránh được việc bị buộc tội, và hiện tượng Y2K đã xì đi như một chai champagne Pháp cổ. Thành phố ngời lên với tất cả vẻ huy hoàng vừa rực rỡ, vừa thông tục, vừa nhẫn tâm của nó. Và vào đúng thời điểm đó, cả thành phố đang xôn xao về Peter Cannon, một luật sư trong ngành giải trí đã quịt tới ba mươi lăm triệu đô la của vài khách hàng ngôi sao. Những tháng năm kế sau đó, sẽ còn có nhiều vụ scandal hơn, hàng tỉ đôla bị mất, và những vụ lừa đảo dân chúng Mỹ. Nhưng vào lúc này, “vụ Peter Cannon” đã liên đới tới đủ những cái tên mặt dạn mày dày mà ít nhất tạm thời làm thỏa mãn đám dân New York đói khát chuyên ngồi lê đôi mách. Một trong những nạn nhân là nhạc sĩ rock ba mươi mốt tuổi tên là Digger. Digger là một trong những người thành công với cái tên chỉ có một từ, như rất nhiều nghệ sĩ vĩ đại, có khởi đầu khiêm tốn kết hợp với vẻ ngoài hơi quái đản. Anh là dân ở Des Moines, bang Iowa, có mái tóc vàng bẩn thỉu và làn da trắng nhờ đến đáng sợ mà ta có thể nhìn thấy cả mạch máu xanh bên dưới, và thường đội mũ phớt mềm, đặc trưng riêng của anh. Vào một chiều thứ Sáu kỳ nghỉ Ngày Liệt sĩ, anh ngồi lặng im bên bể bơi trong căn nhà thuê mùa hè với giá 100.000 đô tại Sagaponack ở Hamptons, hút thuốc không đầu lọc và nhìn vợ mình, Patty, đang giận dữ nói chuyện trên điện thoại. Digger dụi điếu thuốc vào chậu hoa cúc (trong chậu đã có một đống nhỏ đầu lọc thuốc mà người làm vườn sau đó sẽ dọn đi), và ngả người ra chiếc ghế dài bằng gỗ tếch. Hôm đó trời khá đẹp và anh thực sự không hiểu cái vụ lùm xùm về Peter Cannon này là sao. Là loại người coi mục đích đời mình đứng cao hơn công cuộc săn đuổi tiền bạc bẩn thỉu, Digger không thể hiểu nổi giá trị đồng tiền. Quản lý của anh ước tính anh mất phải đến một triệu đô. Nhưng với Digger, một triệu đô là khái niệm trừu tượng không rõ ràng chỉ có thể hiểu được bằng những thuật ngữ âm nhạc. Anh hiểu rằng mình có thể kiếm lại được một triệu đô đó bằng cách viết một bài hát hit, nhưng vào cái buổi chiều dễ chịu hôm đó, chìm trong sự xa hoa biếng nhác của một ngày ở Hamptons, dường như chỉ mỗi mình anh là có thái độ thờ ơ lãnh đạm như thế. Patty, cô vợ yêu quý của anh, đang hoang mang lo lắng, và nửa tiếng vừa qua đã nói toàn chuyện ngớ ngẩn trên điện thoại với chị gái cô, Janey Wilcox, một người mẫu nổi tiếng của Victoria’s Secret. Khi anh nhìn qua bể bơi tới nhà chòi nơi Patty ngồi cúi xuống cái điện thoại, ngắm nhìn thân hình hơi đẫy đà của vợ trong bộ áo tắm một mảnh màu trắng, thì cô ngước lên. Hai mắt họ gặp nhau và cùng hiểu một điều. Patty đứng dậy và bắt đầu bước về phía anh, và như mọi khi, anh ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thuần Mỹ giản dị của vợ mình: tóc vàng ánh đỏ dài đến ngang lưng, cái mũi hếch xinh xinh với những nốt tàn nhang, và đôi mắt xanh tròn. Janey, chị gái cô, được mọi người coi là “người đẹp hoàn hảo”, nhưng Digger chưa bao giờ thấy như vậy. Mặc dù Janey và Patty đều có cái mũi hếch giống nhau, mặt Janey có gì đó vừa xảo quyệt vừa hoang dại không làm anh thấy cuốn hút. Và hơn nữa, anh coi Janey, với những giá trị khỉ gió về địa vị và tiền bạc, thái độ kiêu căng và xấc xược, và ám ảnh về chính bản thân, đơn giản chỉ là một ả khốn mắc bệnh ái kỷ. Mời các bạn đón đọc Mộng Phù Du của tác giả Candace Bushnell.
Khúc Bi Tráng Cuối Cùng
Khúc Bi Tráng Cuối Cùng là một cuốn tiểu thuyết viết về chiến dịch Tây Nguyên tháng 3 năm 1975, một sự kiện có tính bước ngoạt cho sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ của quân đội nhân dân Việt Nam. Xuyên suốt câu chuyện là số phận và cuộc đối đầu giữa hai người từng là bạn. Giờ đây, họ cùng mang trên mình sắc áo của người lính nhưng lại chiến đấu ở hai đầu chiến tuyêtns đối nghịch nhau. Tái hiện thời khác cuộc chiến tranh diễn ra khốc liệt nhưng giọng văn vẫn cứ bình thản...nghẹt thở. Những hồi ức và thực tại được đan xen làm cho câu chuyện được gợi mở dần dần và tứ đó những mối quan hệ bạn bè, cha - con, nam - nữ đã tự bộ lộ nhiều điều nhân văn ý nghĩa. Có lẽ chính điều này đã làm cho người đọc bị lôi cuốn và ấn tượng mạnh mẽ hơn. Khúc bi tráng cuối cùng đậm chất lính nhưng không hào sảng, ngợi mà đặt cạnh niềm vui ngày chiến thắng là những đau thương mất mát đề người đọc chúng ta thấy được một góc cạnh chân thực của chiến tranh. Và chính vì có cái nhìn toàn diện và chân thực đến vậy cho nên tác phẩm của Chu Kai bao giờ cũng để lại nỗi ám ảnh day dứt trong từng câu chữ. *** Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Cũng mùa này, xuôi về phương nam chừng hai ngàn cây số đất trời lại oi nồng quá thể! Sài Gòn. Mấy tuần nay không hiểu sao cái thành phố vốn đã ngột ngạt như cái nồi hơi này lại càng trở nên nóng bức bởi những tin tức chính thức và cả không chính thức từ đâu đó dội về bởi một điều gì đó như sắp có giông có bão, sắp có sự đánh lớn của hai bên, rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay. Rồi bởi cả những sắc lính đủ loại võ phục đen đỏ trắng vàng chẳng rõ từ đâu trảy về đen kín, những đoàn xe quân sự hùng hổ với súng ống hườm hườm phóng qua phóng lại, làm cuốn bụi ban ngày, làm rách nát bóng đêm rồi tất tưởi cắn đuôi nhau lao về các vùng chiến thuật. Ngay cả tiếng rao mằn thắn bán rong của ông già người ba Tàu vốn đã trở thành quen thuộc dưới đường kia mà sao đêm nay cũng bỗng trở nên day dứt, buồn buồn như thể có điều gì bất ổn mơ hồ ở đâu đây sắp xảy ra. Giữa cảnh sắc ấy, vẻ u trầm, tĩnh mịch của một ngôi nhà được kiến trúc khá đẹp nằm sâu trong một ngõ nhỏ nhưng lại nằm khá sát dòng sông Sài Gòn với vòm hoa giấy hai màu đỏ trắng phủ kín mái cổng đã nổi lên như một nét lạ, độc đáo. Càng lạ và độc đáo hơn khi lấp ló trong màu hoa tươi rói đó là tấm bảng đồng với bốn chữ khắc sâu hiện lên vừa kiêu hãnh vừa duyên dáng khiến không ít ai qua lại không ngước mắt lên nhìn để rồi đành đánh rơi một chút bâng quơ trên miệng cười: “ Biệt thự Huyền Trang”. Ngôi biệt thự lúc này vắng tanh. Vắng đến nỗi nó dường như tách hẳn ra khỏi cái khung cảnh của một thành phố ăn chơi và có nhịp sống cuồng nộ vào loại bậc nhất Đông nam á này. Ngoài sân sỏi chỉ có một chú chó không biết giống gì mà to cao, kềnh càng qúa cỡ đang ngồi thè lưỡi ghầm ghừ vào hư vô. Trên gác, trong một căn phòng nhỏ được trang trí thanh nhã, bất cứ vật dụng gì cũng chứa chất cái hương vị đàn bà thoang thoảng, một thiếu phụ trên bốn mươi tuổi, đẹp sang trọng và uẩn buồn đang ngồi thầm lặng thả cái nhìn xa vắng qua khung cửa sổ ra khoảnh vườn xum xuê cây lá. Giữa lúc đó ở dưới đường, một chiếc Zeep lặng lẽ bon đến với tốc độ vừa phải rồi dừng nhẹ trước cổng. Một viên sĩ quan bước xuống, ráng chiều soi tỏ đôi quân hàm đại tá ba bông mai vàng gắn ngay ngắn trên ve áo. Đó là một người đàn ông trung niên, bộ võ phục không làm mất đi được vẻ nho nhã, trí thức, và bằng vào thái độ tự nhiên khi mở cánh cổng, khoan thai đi qua sân, gật đầu chào thân mật một ông già vận đồ bà ba nâu đang cầm cây kéo tỉa lá từ mảnh vườn sau đi ra, âu yếm vuốt ve chú chó đang mừng rỡ ngoáy tít đuôi, anh có vẻ là người thân thiết trong gia đình. Thiếu phụ nhìn xuống, mắt chợt ấm sáng. Đại tá theo cầu thang gỗ đi lên, đến trước thiếu phụ, anh khẽ nghiêng người, mỉm cười bỏ mũ, dáng khiêm nhường, kiểu cách của một sĩ quan cổ điển: - Tôi có việc phải ra Trung, tiện ghé thăm chị. ... Mời các bạn đón đọc Khúc Bi Tráng Cuối Cùng của tác giả Chu Lai.