Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love

Thể loại: Tình cảm, tử tù + trại giam, đề tài xã hội, cuộc sống, nhân sinh Số chương: 19 chương full Nội dung: Một thiếu nữ mới hai mươi ba tuổi thế nhưng đã phải kết thúc cuộc đời tươi đẹp của mình, bước chân ngừng lại trong chốn lao tù... Vân Du đã giết hại hai mạng người, vừa vào Trại giam lại có định tự sát... Đồng Văn, một bác sĩ trẻ điều trị tâm lý cho tù nhân trong Trại giam, mang ác cảm đối với những tù nhân giết người. Và định mệnh đã sắp đặt cho hai con người mang nỗi đau trong quá khứ, bí mật không thể nói, được gặp gỡ nhau vào thứ ba hàng tuần, với tư cách bác sĩ điều trị tâm lý và bệnh nhân trong bộ áo tù nhân... Thông qua những dòng nhật ký trị liệu, họ - từ con người hứng chịu tổn thương - trở thành người chữa lành cho đối phương. "Yêu thương thật sự phải là thứ tình cảm có trách nhiệm." - ----------------------------- Đôi lời của tác giả: Tôi nhớ trước đây có tác giả nào đó đã nói thế này, trích lược thôi: "Con người thường gánh lấy nỗi đau do con người gây ra. Thế nhưng cũng nhờ con người mà những nỗi đau đó được xoa dịu...", có lẽ nó thích hợp với câu chuyện này. Đây không hề là câu chuyện tình lãng mạn, lâm li hay cao trào ngược luyến, mà chỉ là một tác phẩm rất thực, ý nghĩa nhất mà tôi viết từ trước đến nay. Một thứ tình lặng lẽ âm thầm giữa hai con người trong vai trò đặc biệt và cũng trong bối cảnh thật đặc biệt - Trại giam, nơi tối tăm lẫn tội lỗi. Là câu chuyện nước mắt của những phụ nữ trong buồng giam nữ số 5, của người mẹ trẻ vì cứu con mà giết người; của cô gái đôi mươi lầm lỡ; hay của người mẹ bụng mang dạ chửa bởi cái đói nghèo nên phạm tội... Khi hoàn thành tác phẩm, tôi cảm giác bản thân mình cũng đã trưởng thành hơn, cũng để hiểu: Làm người chưa bao giờ dễ dàng, phải dũng cảm đến dường nào để không phải làm tổn thương ai. Và rằng: Sống, chính là phải vượt lên trên những nỗi đau. Có lẽ đó cũng là nghĩa vụ của con người! "Án tử một tình yêu" hoàn thành vào năm 2017 nên thời gian trong truyện sẽ không phải năm 2019, và tôi cũng lấy mốc diễn ra câu chuyện là năm 2011 trước khi nhà nước ban hành luật tử hình bằng tiêm thuốc độc. *** Ngày... tháng... năm... Có một loài chim luôn hót vào đầu hạ, lúc sẩm tối, hoặc là sau cơn mưa hoặc vào các đêm trăng sáng. Tiếng hót lại nghe thê thiết, não nề. Nó khiến người ta nghĩ về nỗi mất mát, nhớ về những điều đã qua, thời gian và cả sự vô thường. Lần đầu tiên bước chân vào nơi lạnh lẽo âm u ấy, tôi đã không ngừng tự hỏi, lí do gì mình lại ở đây? Tôi đã gây ra tội lỗi gì để đến bước đường cùng này? Tôi phải chịu đựng sự giày vò, dằn vặt mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút. Chúng ám ảnh tôi trong những giấc ngủ chẳng tròn. Nước mắt không ngừng chảy mỗi đêm bằng cả ngàn ngày cộng lại, tôi chờ đợi đến lúc bản án tử được đề ra. Tôi sợ. Nhưng phải thanh thản đón nhận. Vì tôi, thật sự là kẻ có tội. Nhật kí tù nhân 3969. ***** Tháng 8 năm 2017. Buổi sớm đầu thu ở Trại giam nằm trên một con đường thuộc Sài Gòn, vang lên tiếng khua lịch kịch lạnh tanh từ ổ khóa gỉ sét, phá tan sự tĩnh lặng buồn bã ở nơi này. Bác sĩ Đồng Văn cầm theo chồng hồ sơ bệnh lí, khẽ lách mình đi qua khoảng trống vừa đủ giữa cửa hàng rào mục với bức tường ố vàng cao sững. Văn chậm rãi tiến vào bên trong khoảng sân vắng vẻ sau khi cảm ơn bảo vệ. Dưới làn gió thu mát dịu, Văn vận áo khoác xanh sậm với những đường sọc xám. Hai mép áo ép sát vào mỗi khi anh co người lại, giấu bên trong bộ blouse trắng, thứ màu riêng biệt và xa lạ giữa không gian lạnh lẽo âm u ở Trại giam. Vài phút băng qua bãi đất trống, tốc độ đôi chân nhanh hơn, Văn sắp đến nhà của quản giáo khu giam nữ. Dừng lại ở bậc tam cấp xi măng cao nhất, Văn gõ cửa bằng âm thanh thật đều, đôi vai hơi chùng xuống cho vài giây chờ đợi. Chẳng quá lâu cửa mở nhanh, xuất hiện một phụ nữ trung niên khoác bộ áo cảnh phục màu xanh lá cây quen thuộc thể hiện cho công lí và thật thi pháp luật. Đó là chị Ngà, cán bộ quản giáo khu giam nữ tại đây. Nhác thấy gương mặt Văn đứng trước cửa lúc trời còn tờ mờ sáng, chị ngạc nhiên hỏi: - Bác sĩ Văn đến tìm chị sớm vậy? Văn chậm rãi đưa chồng hồ sơ bệnh lí cho chị Ngà, mỉm cười bảo đây là kết quả kiểm tra của các phạm nhân nữ hồi tuần trước. Chị Ngà khẽ lướt mắt qua từng hồ sơ xem còn sót ai không, rồi tự dưng chậc lưỡi: - Bác sĩ Văn nhọc công quá, để lát chị qua khu bệnh xá lấy cũng được mà. - Em sắp đến gặp Phó giám thị Dũng, tiện thể qua đây đưa chị luôn. - Bác sĩ gặp Phó giám thị có chuyện gì sao? - Cũng chỉ là báo cáo tình hình tâm lí của một phạm nhân nam bên khu II. Lát, em phải đi gặp một người, sợ là không kịp đến lúc Phó giám thị đi họp về. Sự tò mò trong đôi mắt quản giáo Ngà hiện lên rõ rệt. Văn chẳng che giấu gì, nói rằng chốc nữa anh sẽ đi gặp Hoàng Oanh. Tức thì đôi mắt chị Ngà sáng lên do mừng rỡ trước cuộc tái ngộ sắp diễn ra giữa những người xưa: - Thế à? Mèn ơi, cũng lâu lắm rồi đấy! Bé Oanh vẫn khỏe chứ? - Bé Oanh sống với chú Thạch rất tốt, năm nay nó sẽ vào trường trung học. - Tốt rồi, thế này thì Vân Du cũng yên lòng... Chưa kịp nói hết câu thì sự ngập ngừng tràn ra đầu lưỡi khiến âm thanh mắc lại cuống họng, quản giáo Ngà phát hiện mình vừa nhắc lại cái tên không nên nhắc trước mặt Văn. Chị càng tự trách hơn khi thấy nỗi buồn xuất hiện trong mắt anh. Đối diện, như hiểu sự im lặng đột ngột đó, Văn cất tiếng: - Em cũng nghĩ vậy. Hẳn, Vân Du rất vui khi con gái có cuộc sống tốt. Dẫu khỏa lấp bằng nụ cười nhẹ nhàng thanh thản nhưng nỗi buồn sâu thẳm vẫn ngự trị trong đáy mắt tối đen do đứng ngược chiều sáng, Văn không thể che giấu được quản giáo Ngà. Người phụ nữ này chợt hiểu, có lẽ sau ngần ấy năm chàng bác sĩ trẻ thuở xưa chưa một lần thôi đau. Lẽ nào, có những yêu thương trải qua nhiều năm cách biệt chẳng hề vơi bớt mà ngày càng sâu đậm? Chị Ngà liền hỏi sang lí do Hoàng Oanh đến gặp Văn là gì. Chàng bác sĩ ba mươi ba tuổi trả lời với giọng đều đều: - Em cần đưa lại cho bé Oanh cuốn nhật kí của Vân Du, năm nay con bé đã mười hai tuổi rồi. Đó là lời hứa của em... Tiếng chuông điện thoại thình lình vang lên. Giấu tiếng thở dài đặc trưng, quản giáo Ngà đến bên bàn, nhấc máy nghe. Văn nhìn chị quay lại với nét mặt biểu hiện ý nghĩa rằng chị sẽ phải rời khỏi đây bây giờ. - Có rắc rối ở dãy nhà khu giam nữ, chị phải qua đó xem sao. Bác sĩ gặp bé Oanh thì gửi lời hỏi thăm của chị nhé. Dặn dò xong câu cuối cùng, quản giáo Ngà liền đi như chạy về phía dãy nhà khu giam nữ. Còn lại một mình, Văn bước chậm rãi xuống từng bậc tam cấp, thả bộ ra khoảng sân vắng vẻ. Nắng sớm lấp liếm sắp chảy tràn lên chân, Văn đảo mắt nhìn quanh. Không phải tò mò quan sát, mà chỉ để nhớ. Một thời gian dài, Văn ít khi đến đây. Mỗi lần có việc, quản giáo Ngà sẽ đến bệnh xá tìm anh. Văn nhìn cảnh vật hiện tại, cứ ngỡ khung cảnh sáu năm trước đang tái hiện. Vẫn lớp cỏ úa bên dưới bị giẫm đạp không mọc lên nổi. Vẫn bóng cây cao uể oải cho một cái vươn mình trong nắng sớm. Vẫn là những luống rau, bụi hoa do các phạm nhân nữ thay nhau trồng vào giờ lao động. Cuối cùng, vẫn bốn bức tường vàng ố bao bọc xung quanh, phía trên là dãy hàng rào kẽm sắc bén từng làm chùn chân nhiều kẻ liều lĩnh muốn bỏ trốn. Chỉ một bức tường, bên kia và bên này, ấy vậy tạo nên hai thế giới khác xa nhau. Tự do và tù đày. Chỉ một giây phút lầm lỡ thôi, ai đó sẽ mãi mãi bỏ lại sau lưng bầu trời rộng lớn xanh ngát, bỏ lại tháng ngày sống trọn vẹn kiếp người để bước chân vào đây. Trại giam, nơi không biết đã đón nhận bao nhiêu kẻ tội lỗi, dường như mất hẳn bốn mùa xuân hạ thu đông. Tồn tại duy nhất ở đây là ngày sang đêm, chờ đợi quyện với nước mắt. Đằng sau chấn song sắt đen, mỗi người mang trong mình câu chuyện riêng, bi kịch riêng mà chẳng ai giống ai. Gió nổi. Những đám mây bị đánh tan ra trôi lãng đãng vô tư lự, trả lại cho bầu trời vùng trong xanh yên ả, sắc màu đó mang đến sự an nhiên lạ lùng. Một cánh bướm màu xanh dương thẫm hiển hiện dưới đáy mắt Văn, bay chấp chới qua hàng rào kẽm trên bức tường. Con vật mê chơi bay lạc vào chốn tù đày u ám. Sự phát hiện thú vị làm chàng trai trẻ tiếp tục nhìn theo đôi cánh rực rỡ kia rung rinh trong gió. Con bướm đậu lên khóm hoa nghiêng ngả bên dưới, vui đùa là bản năng của loài phù du. Gió thổi mạnh hơn, mang theo những chiếc lá trên cành cây trụi lơ. Gió vô tình hất nhẹ con bướm xanh vướng vào cành hoa. Nó mắc kẹt, giãy cánh mãi. Cái nhìn của Văn đong đầy phân vân giữa việc giúp đỡ hay để con bướm tự thoát ra. Nhưng Văn sẽ không thể biết được kết quả của hai điều đó khi một bàn tay mềm mại luồn qua khóm hoa, nhẹ nhàng tháo đôi cánh xinh đẹp ra khỏi sự mắc kẹt. Con vật mang ơn, bay là là xung quanh người đó. Một cô bé mười sáu tuổi. Cho em tự do, không phải tù đày Quên đi năm tháng hao gầy thương anh Em ở bên này một bức tường ranh Đêm ngày trông ngóng mong manh chờ người... Cô bé cất tiếng hát, giọng trong trẻo bay vút. Tưởng chừng như thứ thanh âm réo rắt không bị xiềng xích đó vượt qua bức tường chết chóc lạnh lẽo, qua hàng rào kẽm giam cầm đến với bầu trời cao. Không gì bó buộc được cô. Văn đứng chết lặng, sững sờ đến mức không rõ hình ảnh đang thấy là thật hay mơ, là người hay chỉ là ảo ảnh nhóm lên từ nỗi thương nhớ tràn trề. Cô bé đứng gần bụi hoa mặc chiếc váy trắng dài qua đầu gối, gương mặt nghiêng nhẹ bừng sáng, mái tóc ngắn mềm mại phủ ót cùng một đôi vai mỏng manh. - Vân Du... Sau tiếng gọi thân thương phát ra từ bờ môi Văn, cô bé với chiếc váy trắng tung xòe đã quay qua nhìn với đôi mắt phẳng lặng tựa bờ hồ thu. Cô hơi nghiêng đầu, nở nụ cưởi êm đềm với anh. Điều ấy khiến Văn càng thêm choáng ngợp trong niềm hân hoan đường đột này. Với sự xúc động mãnh liệt, Văn đã không biết đôi chân mình đang tiến lại gần. Vân Du vẫn đứng yên, sự im lặng toát lên người cô tạo thành một lớp vỏ bọc đơn độc giống hệt năm xưa. Tại thời khắc này, Văn khao khát muốn ôm trọn lấy Du, cảm nhận hơi ấm da thịt lan tỏa vào nhau, điều mà khi Du còn sống anh không bao giờ được làm. Thế nhưng đôi tay xụi lơ, Văn mất hết sức lực để nhấc lên, để ôm cô... ***** Cuối tháng 3 năm 2011. Đêm mưa sáu năm trước thật khác với đêm mưa của những năm sau đó. Nó dữ dội, ướt át, vần vũ. Tiếng mưa nghe hệt âm thanh gào thét ai oán từ đất trời. Số phận có lẽ biết được một bi kịch thảm thiết sắp xảy đến nên để cơn mưa này là một điềm báo trước. Chẳng ai nhận ra giọng hét kinh hoàng của người phụ nữ len lỏi qua màn mưa buốt giá, tê tái. Thứ âm thanh ám ảnh phát ra từ bệnh viện đa khoa. Ngay cửa phòng bệnh, dáng cô hộ lí ngồi sững bất động, hoàn toàn lả đi như mất hết sự sống, riêng đôi mắt vẫn mở trừng trừng phản chiếu nỗi bàng hoàng và hai bàn tay bấu chặt vào thành cửa đến nỗi tươm máu. Những người xung quanh từ y tá, bệnh nhân cho đến người thăm bệnh, ngạc nhiên khi thấy cô hộ lí chẳng hiểu vì sao lại thét lên thất thanh rồi ngồi bệt dưới đất như bị đột qụy. Trước đó, ai nấy đều giật mình vì nghe tiếng la của những người trong phòng bệnh, họ chạy ra ngoài đầy sợ hãi. Tất cả liền chạy đến. Và khi đưa mắt nhìn vào phòng, lập tức họ đồng loạt mang những hành động không khác cô hộ lí ban nãy. Sững sờ. Hãi hùng. Thậm chí, có người yếu bóng vía đến nỗi ngất lịm. Ở giữa căn phòng trắng lạnh lẽo, được mô tả bằng mùi thuốc sát trùng nồng nặc và mấy dụng cụ y tế kim loại khô khốc, bóng dáng cô gái trẻ đứng nghiêng người toát lên hơi nồng tanh tưởi của máu. Dung dịch đậm đà mùi sắt đó vấy bẩn quần áo cô mặc, lên gương mặt từ mang tai xuống cằm, lên cả những sợi tóc ngắn lòa xòa hơi rối. Nơi nhuốm máu nhiều nhất, là bàn tay phải cô đang cầm kéo. Mũi kéo sắc lẹm, chết chóc. Dưới đất có hai thân thể nằm bất động. Mọi cử động trên người cô gái trẻ đều đứng yên, giống hệt bị hóa đá. Duy nhất một thứ nơi cô đang chuyển động, nhen nhúm sự nhận thức hiếm hoi. Đôi mắt. Với cái nhìn sâu, tăm tối như đáy hồ nhưng vẫn le lói chút hoang mang. Như kiểu, khung cảnh man rợ bày ra trước mặt lúc này không phải do cô cố ý gây nên. Dù vài phút trước thôi, chính cô đã đâm mạnh chiếc kéo vào hai cơ thể ấm nóng, kết thúc mạng sống của họ. Buông kéo. Cô xoay người thật chậm, chẳng khác gì khúc cây gãy bị đau, ánh mắt vô hồn sâu hun hút vô tình lướt qua mấy chục gương mặt xa lạ xuất hiện ngay cửa phòng, giờ đây chỉ còn những nét nhăn nhúm hãi hùng. Nhưng không có ý dọa họ, cũng không có ý thể hiện bản thân là kẻ cuồng sát, cô đang tìm kiếm một bóng hình nhỏ bé mà nãy giờ mình đã để vụt mất khỏi tầm mắt. Cái nhìn đau đáu mong mỏi khiến người ta nghĩ, thứ mà kẻ sát nhân đó đang tìm hẳn vô cùng quan trọng, biết đâu đấy là phần tốt đẹp duy nhất còn sót lại trong trái tim tội lỗi. Vài phút sau, bờ môi trắng bệch nứt nẻ chợt mấp máy, nụ cười nhẹ nhõm lướt qua khi cô thấy trong góc tường đứa con gái nhỏ đang ngồi co người, trông giống lưng tôm. Mái đầu của nó tựa lên hai đầu gối, đôi mắt tròn nhìn khung cảnh máu đổ người chết mà không chút sợ hãi, chỉ ngơ ngác. Bóng đổ từ chiếc tủ cao ngay bên cạnh chảy tràn trên thân hình và nhấn chìm nó vào màn tối. Mau chóng, con bé nghe tiếng ai gọi tên mình, bằng hơi thở mệt mỏi: - Hoàng Oanh, lại đây với mẹ. Bé Oanh ngước nhìn cô gái đứng trước mặt với cơ thể mềm ngặt nhưng vẫn cố đứng vững, như chống chọi lại bất hạnh do số phận đè xuống. Từ nãy đến giờ, nó thắc mắc không hiểu cô gái vừa giận dữ vừa đâm kéo vào hai người kia để rồi sau đó bị nhuốm máu trên quần áo ấy, có phải mẹ Du? Vì khi nghe tiếng la đau đớn của bà ngoại kế thì nó bỗng sợ. Tuổi còn nhỏ không cho phép nó nhận thức được ý nghĩa hành động mà mẹ gây ra cho bà. Nhưng giờ nghe tiếng gọi quen thuộc đó, bé Oanh chắc mẩm mẹ Du đây rồi. - Mẹ Du ơi! Vân Du đón con gái vào lòng, không bận tâm nó sẽ khó chịu với mùi tanh đeo bám trên người mình. Du vùi mặt vào mái tóc thơm ngát của con vì muốn lưu giữ mùi thơm êm đềm này thật lâu bởi hiểu rõ, lát nữa thôi cô phải rời xa Oanh. Một thời gian dài, hay cũng có thể suốt đời Du sẽ mãi mãi không gặp lại con được nữa. Không lâu sau, công an được gọi đến. Họ giải tán đám đông hiếu kỳ rồi ập vào căn phòng nơi diễn ra cuộc sát hại. Dáng vẻ ai nấy đều thận trọng dè dặt vì họ nghe người gọi điện nói với giọng đứt quãng về "một tên sát nhân cuồng loạn". Khung cảnh khiến người ta muốn choáng ngất vì mọi thứ đều nhuốm máu, bên dưới hai xác người nằm im lìm, cơ thể ngập trong dung dịch màu đỏ. Nhưng khi nhóm công an lia mắt sang tên giết người thì gương mặt họ được vẽ lên bởi sự ngạc nhiên, là một cô gái ngoài đôi mươi đang ôm đứa trẻ tầm sáu tuổi. Cả hai có vẻ quyến luyến không rời. Trông cứ như thể đây là cuộc đoàn viên mỹ mãn, và nó thật đối lập với không gian chết chóc ghê rợn. Nhóm công an đứng tần ngần vài giây, thình lình nghe tiếng giục gấp gáp của ai đó trong đám đông đang hồi hộp quan sát sự việc: - Con nhỏ tóc ngắn giết người đó! Gì mà ác dữ vậy trời! Công an mau bắt nó nhanh đi, kẻo nó điên lên giết luôn đứa trẻ, tội nghiệp! Hai người công an bước đến kéo xốc Du đứng dậy, để hai tay cô ra phía sau. Hai người khác đẩy bé Oanh lùi ra. Không hề kháng cự, Du đứng yên như khúc gỗ, mặc công an tra còng số tám lạnh ngắt vào tay mình. Khi người ta cảm nhận rõ rằng mọi thứ kể từ giờ đã kết thúc thì hành động kháng cự chẳng còn ý nghĩa nữa. Du đờ đẫn, mất luôn cảm giác đau dù bị những bàn tay thô cứng bấu siết vào người mình. Về phía bé Oanh, nó ngó cảnh mẹ mình tự dưng bị ba bốn người đàn ông xa lạ dẫn đi, vẻ mặt ngẩn ngơ. Ngay chính nó cũng đang bị kìm giữ. Bé Oanh bỗng liên tưởng đến mấy câu chuyện cổ tích mẹ Du hay kể, về việc kẻ xấu xa thường bắt những đứa trẻ nhỏ đi mất. Tức thì, nó gào khóc giãy giụa: - Bỏ ra! Bỏ ra đồ xấu xa! Mẹ Du, cứu con! Mẹ Du ơi! Nghe bé Oanh vừa khóc vừa gọi, bấy giờ Du mới sực tỉnh, hồn trở lại xác kéo theo sự tỉnh táo quay về. Lập tức đưa mắt nhìn con gái, Du thảng thốt: - Oanh! Oanh à! Chờ mẹ nhé! Nhận thấy nữ tội phạm có ý muốn chạy đến chỗ đứa bé gái, hai người công an bên cạnh giữ chặt Du hơn, đồng thời kéo cô ra khỏi phòng. Đám đông đứng xem dần tản ra tránh đường cho công an áp tải tội phạm ra ngoài xe. Vài âm thanh bàn tán trỗi dậy khe khẽ như tiếng vỗ cánh vo ve của lũ ruồi muỗi bay khắp không gian bốc mùi tử khí nơi đây. Họ đang tự hỏi nguyên do gì khiến cô gái trẻ măng này xuống tay giết chết hai mạng người. ***** Tiếng chuông điện thoại đổ vang nghe đứt quãng, giữa căn phòng tĩnh mịch chìm trong bóng tối, cùng lúc bên ngoài sấm rền vang não nề. Chuông kêu dai dẳng khô khốc làm bật tung một giấc ngủ mơ màng chỉ vừa thiếp đi khoảng vài phút. Mí mắt cục cựa kèm theo âm thanh trở mình uể oải, Đồng Văn xoay người nằm ngay ngắn trên giường, nén chặt giấc ngủ mà khó khăn lắm mới đến với mình, trong từng nhịp thở đều đều. Văn mở mắt chớp chớp vài cái cho quen với bóng tối, lòng tự nhủ chẳng rõ chủ nhân cuộc gọi là quản giáo Ngà bên khu giam nữ hay quản giáo Thái bên khu giam nam. Văn nhanh chóng ngồi dậy, đôi mắt vừa mới mở đang cố tìm kiếm trong bóng tối đen kịt chiếc điện thoại bàn với từng hồi chuông réo rắt. Đưa tay chụp lấy, anh bắt máy. Giọng của quản giáo Thái đầy thúc giục bên kia, bảo rằng có một phạm nhân tinh thần không ổn định nên Văn hãy qua khu phòng giam. Văn đứng dậy, vớ lấy áo khoác dày màu xám, bước ra khỏi phòng bệnh xá. Bên ngoài mưa giăng lối mịt mùng khiến đêm tối càng thêm tối đen như mực. Không tiếng động nào tồn tại giữa chuỗi âm thanh va đập của hàng ngàn giọt nước lạnh giá buông xuống đất. Mưa trong Trại giam thường lạnh lẽo, rét mướt hơn bên ngoài rất nhiều. Màn mưa dữ dội cũng không làm Văn bận tâm khi cầm dù chạy băng qua khoảng sân rộng ngập nước lênh láng. Dọc theo dãy hàng rào ngăn cách, bóng đèn neon vàng vọt trên cao hắt ra thứ ánh sáng leo lét, trở thành ngọn hải đăng giữa đêm mưa bão. Mặc mưa đổ xuống chiếc dù dữ dội như cú đánh của người lực lưỡng, Văn tiếp tục lội nước mưa ngập gần đến nửa ống quần, bằng những bước hối hả đến phân trại số II. Cùng thời điểm đó, người công an ấn mạnh Vân Du ngồi xuống ghế. Họ đang tiến hành làm giấy cho phạm nhân nhập trại. Lúc họ ngồi trên xe áp tải, mưa rất lớn và bây giờ vẫn chưa thuyên giảm, tiếng mưa rơi lộp bộp trên mái tôn của căn phòng không quá rộng nhưng yên ắng đến ngột ngạt này. Mời các bạn đón đọc Án Tử Một Tình Yêu - The Death Of A Love của tác giả Võ Anh Thơ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

24 Giờ Lên Đỉnh - Nguyễn Thị Anh Thư
Nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư, tác giả của cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, Cháy đến giọt cuối cùng, các tập truyện ngắn: Vạn liên thanh cho Hải Quỳ, Không nhan sắc, Thiếu học phí làm người, Năm thằng cao kều, Hải tặc một mắt… Khi mới gặp chị, tôi hỏi: Có gì mới không, đang viết gì? Này em làm thơ nhé (rúc rích), em làm thơ, sợ không? Thư cười trả lời tôi, rồi bấm điện thoại đọc thơ. Tôi bảo, chao ôi Tết nhất tưng bừng ngoài kia, mà hai “mụ” ngồi đọc, ngồi nghe thơ. Thơ của một nhà văn từng đoạt giải truyện ngắn hay của Tạp chí Văn nghệ Quân đội lúc 27 tuổi năm 1986, làm thơ ý tứ tỉnh như “sáo sậu”, tôi nén nghe câu thơ: Đường trần mỗi ngày mỗi tối/ loáng thôi sắp hết kiếp người. Một năm ở Nhà xuất bản Hội Nhà văn, công việc Nguyễn Thị Anh Thư biên tập hàng trăm đầu sách, thơ, văn xuôi của các nhà văn và các tác giả chuyên nghiệp, không chuyên nghiệp. Chị là bà đỡ cho rất nhiều tên sách như người mẹ đỡ đầu đứa con tinh thần vậy. Ví dụ như tên một bài thơ của cố nhà thơ Đồng Đức Bốn mới đầu lấy tên là Tân Cương, chị góp ý nên đổi là Tìm em ở bến sông Mê, tập thơ của tác giả Trần Văn Lan có tên Nghiêng 23 độ đổi thành tên Sông Ba mùa nhan sắc, hay tác giả Nguyễn Hoàng Kim Oanh có tập thơ mới đầu định đặt tên là Hồn quê chị góp ý đổi tên Khi hồng nhan hát thánh ca. Hoặc cũng tác giả này khi lần đầu tiên đến nhà xuất bản, chưa biết nên đặt tên tập thơ của mình là gì, chị đã sửa câu thơ Ngũ hành năm ngón tay hoa thành Ngũ hành năm ngón tài hoa rồi đặt tên cho tập thơ thành Nhũ ngọc tài hoa. Tác giả Thế Dũng trong tác phẩm Bên dòng sông tình sử có kể lại việc chị đã tận tình biên tập tiểu thuyết Một nửa lá số của anh như thế nào. Anh đã viết rằng: “…Nhưng rốt cuộc chương 43 đã được biên tập viên của NXB đặt tên là Vĩ thanh. Tôi đã hơn 2 lần cảm ơn nhà văn Nguyễn Thị Anh Thư vì điều này…”. Anh Thư đã từng thẳng thắn góp ý cho tác giả này bớt đi vài ba chương hoặc cắt đi vài trăm trang sách, để tác phẩm hay hơn, chặt chẽ hơn. Nhưng cũng có khi chị lại đề nghị tác giả khác viết thêm để tạo đất cho nhân vật sinh động, có hồn hơn (như Quyên của Nguyễn Văn Thọ). Không chỉ có những tác giả đã kể trên mà còn rất nhiều nhà thơ, nhà văn khác, đã một lòng tin tưởng gửi tác phẩm đến cho nhà văn Anh Thư đều được chị chăm sóc nâng giấc đứa con tinh thần của họ rất kỹ càng. Và thành quả là nhiều tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhà văn, như Nguyễn Quang Thân với Con ngựa Mãn Châu, Nguyễn Văn Thọ với Quyên, Nguyễn Hữu với Cõi thực… Tôi biết có những đêm dài mùa đông giá rét, chị ngồi lọ mọ cạo từng con chữ, cắt cắt, dán dán những tờ giấy can, để dùng đúng chữ như linh hồn của tác giả và tác phẩm. Ngày ngày chăm sóc đứa con tinh thần cho mọi người cầm bút, đó là công việc của cơ quan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, thời gian còn lại cho riêng mình để sáng tác, Anh Thư chỉ còn mỗi cách cắt bớt giấc ngủ của chính mình. Tôi cũng biết thời gian để hoàn thành tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, chuông đồng hồ của chị luôn để hai giờ sáng. Chị ngồi viết đến 6 giờ, ngủ đến 7 giờ, rồi dậy đi chợ, làm cơm trưa cho chồng con, chuẩn bị bữa tối sẵn, rồi mới đi làm… Vòng tròn cuộc đời tối mắt tối mũi, ngày tiếp cộng tác viên, giải quyết hàng loạt bản thảo đến 5, 6 giờ chiều. Về nhà làm tròn nghĩa vụ làm mẹ, làm vợ, rồi vừa xem phim, vừa ngủ lơ mơ đến 9, 10 giờ đêm lại lôi các tập bản thảo dày, đòi hỏi phải yên tĩnh ra biên tập. Đêm lại đêm, bật dậy ngồi viết là niềm vui của chị. Tôi nhớ năm 1993, hồi đó Nhà xuất bản Hội Nhà văn đang gặp khó khăn về kinh tế, nhà văn Nguyễn Kiên lúc ấy làm Giám đốc, chị Nguyễn Thị Anh Thư mới đi học thêm một bằng đại học thứ 2 (đại học xuất bản) về, chị tình nguyện ra ngồi bán sách ở cửa hàng giới thiệu sách. Ngày đó, tôi làm ở Báo Lao động Thủ đô gần đó hay chạy sang ngồi bán sách với chị. Có hôm hai chị em ngồi bán sách chỉ để xem một khách hàng mua sách mở hàng có may mắn không, có bán chạy sách văn học không. Có người tôi dự đoán sai, có người Thư dự đoán đúng qua cách nhìn chân tướng. Không ngờ cách quan sát trực tiếp tinh tế đã giúp chị Anh Thư viết văn ngày càng đằm thắm và tinh tế hơn. Để viết cuốn tiểu thuyết 24 giờ lên đỉnh, để viết được về số phận của đàn bà, để viết về một vấn đề kinh tế đang nóng bỏng trong cuộc sống này, Anh Thư phải học, phải nghiên cứu rất kỹ mới dám đi vào nhân vật có nghề nghiệp không hề dán mác hay sắp đặt sẵn cho họ. Cái nhìn thấu tâm can đàn bà từ những câu chuyện như Không nhan sắc, đến Món giả cầy, cái khát vọng nhất mà Anh Thư đau đáu là nhân vật người đàn ông vừa tài hoa, lịch lãm, vừa biết trân trọng phụ nữ. Nhân vật như ước mơ ấy thì chỉ có văn chương xây dựng nên. Thật khó tìm trong đời thực. Hãy để bạn đọc khát khao, hãy để bạn đọc cùng hy vọng dưới trang văn của mình, chỉ ra những cái tàn ác không nhìn thấy, không dễ thấy cũng là nhiệm vụ của nhà văn. Để bạn đọc đọc sách, ngấm, và rút ra kinh nghiệm ở đời. Gần đây những bài thơ của Anh Thư làm gửi tôi đọc, tôi thấy chị còn run rẩy trước tình người, còn phẫn nộ trước cái ác như cây đàn một dây níu giữ trầm buồn. Thơ chị viết “tỉnh” như văn xuôi, nhưng tứ thơ lại biết dồn nén, nhà văn như Nguyễn Thị Anh Thư đã cày, đã vỡ vạc đất đai, để trồng cây như bao nhà văn Việt Nam gieo mùa vàng cho tác phẩm của mình *** 03 giờ 30 phút - 20 - 06 - 2008 Sáng sập cửa, nén giận - bật khoá - giập ga. Chiếc Mercedes Benz gầm cao đen bóng rú lên, quét một luồng ánh sáng đèn pha sáng loá, cắt toang mù sương trong cái sân lát gạch bát rộng thênh thang loáng đẫm sương đêm. Anh đánh mạnh vô lăng. Chiếc ô tô liệng một nửa vòng cuồng nộ lao ra cổng. Sáng biết chắc: ông Thưởng - cha của anh - một lão nông đã bảy mươi bảy tuổi gầy gò, nhưng cao lớn và rất săn chắc, ánh mắt vẫn sáng quắc như mắt chim ưng; cứ ngồi tỉnh khô trong cái ghế đại sẽ không thèm đưa mắt nhìn theo thằng con mình. Cái ghế đại chạm trổ lộng lẫy mà cha anh trong bộ đồ lụa Thái Tuấn màu nâu tây đang ngồi oai vệ trên đó là nằm trong bộ bàn ghế và trường kỷ làm bằng gỗ nu hay còn gọi là gỗ lut. Cây nu thuộc họ gõ đỏ, và đã được Unescô liệt vào sách đỏ vì sắp tiệt chủng. Gỗ nu trở nên vô giá, vì quá hiếm. Người ta khi đã trộm được, thường hay xẻ chúng ra nâng niu đánh bóng chỉ dùng chúng làm vật liệu quý cho những bức tranh gỗ, dùng để trang trí nhà thờ hoặc làm giả những viên đá hoa cương lát nhà cho các triệu phú, tỉ phú Đô la trên thế giới ở. Loại gỗ đó không có đường vân thành thớ hoặc lượn sóng như các loại gỗ cũng rất đắt đỏ khác. Gỗ nu có vân đặc biệt quý, chúng vặn xoắn những vòng ốc nhỏ xen kẽ thành từng mảng màu rất tách biệt, chỉ nhỉnh hơn đầu ngón tay màu đỏ thắm, màu nâu sậm, mầu vàng, màu ghi... Đôi lúc, màu sắc của chúng trông như những tảng hổ phách. Mùa hè, chạm tay vào, gỗ nu lạnh mát như đá. Nhưng mùa đông, khi ngồi lên chúng, ta vẫn cảm như được ôm ấp, và đâu đó như có hơi gỗ ấm áp đang thở. Vì vậy mà gỗ nu được định giá bằng tiền triệu trên từng kg, hoặc những trăm nghìn Đô trên mét khối tuỳ lúc và tuỳ thích. Tuy nhiên, vì gỗ nu quá rắn. Gỗ nu quá quánh chắc, cân lên nặng như đá thật. Nhất là khi nó được cấu tạo chỉ bằng những chỗ u gồ lên trên thân cây, cho nên thao tác mỹ nghệ trên nó cực khó. Nhưng bù lại, khi chế tác xong, đánh bóng lên, các hoa vân đặc biệt vặn xoắn dày đặc sẽ cho vật thể hoàn toàn là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ. Trông món đồ gỗ lúc ấy sẽ trong suốt như thể được cấu thành từ tổng thể các loại ngọc long lanh màu đỏ sậm, màu nâu, màu vàng hổ phách. Đặc biệt quý là khi các mảng màu ấy được tách bạch bằng những đường viền như được dát kim loại vàng lấp lánh. Và chúng phát sáng bằng chính những đường ốc vân vẩy kỳ lạ đó. Vì thế lúc đó người ta gọi loại gỗ này là hổ bì tức là da hổ. Nhưng giá cả của chúng lúc đó thì... Thôi!... Quên đi!... Cái giá trị của đẳng cấp nghệ thuật mới là vô giá! Sáng vẫn thường có khát vọng được sở hữu những gì là đỉnh nhất, nên ngay lập tức anh mê hổ bì. Anh mê nó đến điên cuồng, mê ngay khi lần đầu tiên nhìn thấy nó. Sáng cầu kỳ lặn lội đến gặp ông Vũ Văn Quý giám đốc công ty Hưng Long nổi tiếng tận làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh yêu cầu được chính kỹ sư hoạ sĩ Nguyễn Xuân Đức dựa theo mẫu Lu- y thế kỷ 16 của Pháp thiết kế sao cho bộ trường kỷ hổ bì của anh có thêm vẻ Việt Nam. Nó phải vừa dân tộc mà vẫn hiện đại để các đời sau, con cái cháu chắt anh vẫn có thể nhảy đầm bên nó mà không lố. Sáng đã mò mẫm tìm hiểu trên Internet, trong giới đồ gỗ mỹ nghệ và được biết chỉ riêng công ty đồ gỗ Hưng Long ở làng Đồng Kỵ, Bắc Ninh mới có khả năng thu gom được đủ một số lượng lớn gỗ hổ bì để chế tác nổi một bộ đại trường kỷ. Và cũng chỉ có Công ty này mới có bí quyết nhà nghề để thớ gỗ hổ bì trở nên mềm đi trong thời gian chế tác, còn sau khi hoàn thành rồi thì nó lại trở nên quánh chắc như đá thật. Tựa như bí quyết ngâm trứng vào dấm cho mềm vỏ cứng để trứng lọt dễ dàng qua miệng chai mà vẫn không vỡ lòng đỏ. Cũng phải mất đằng đẵng gần năm trời chờ đợi Sáng mới có được một bộ độc bản đại trường kỷ cực kỳ lộng lẫy, mà chắc hẳn khó có được một bộ thứ hai giống vậy. Anh đã mang nó về cho cha anh - ông Phương Văn Thưởng ở làng Hoàng Ngôn, xã Kỳ Nguyên huyện Tĩnh Hà trưng bày trong nhà. Và lúc này, cha Sáng đã lại ngồi thu chân, chễm chệ trên chiếc ghế vô giá đó. Cha anh cũng mê thích nó. Với anh, đó là niềm vui, lẽ đương nhiên của một người con hiếu thảo. Nhưng quá sớm! Đêm còn chưa qua, ngày còn chưa rạng. Và muôn lần như một, trước mặt ông chẳng khi nào thiếu cái chén sứ đồ Giang Tây chưa bao giờ vơi một thứ nước sóng sánh màu nâu cánh gián của rượu thuốc không ngâm tay gấu thì cũng cao hổ cốt do thằng con trai út - chính là anh - Phương Quang Sáng đích tay ngâm biếu. Giờ đây, ông súc miệng bằng thứ rượu quý ấy, kê mông lên chiếc ghế hiếm ấy, tay cầm chiếc điếu cày - vật bất ly thân tự tay ông gò bằng mảnh duyra thân chiếc máy bay - chiếc máy bay Mỹ đã bị chính ông cùng đội dân quân xã đã từng được phong là Đơn vị anh hùng các lực lượng vũ trang thời xa xưa bắn rơi trên cánh đồng làng Hoàng Ngôn; rúc lên hai hơi liền giòn tan nõ điếu cho ngây ngất tâm thần - để rồi thoả sức chê bai anh - cái thằng đã rước bằng được những cái thứ quý hiếm, độc nhất vô nhị đó về dâng ông ngự thưởng. Sáng biết cha mình sẽ lại xoè mồi lửa vào nõ điếu, rít thêm một hơi thuốc lào Tiên Lãng cháy cổ, phà khói ra một cách khoái trá lần nữa, rồi ông mới liếc xéo cái ánh mắt vẫn quen lia nhanh như chớp theo hướng anh đi, vẻ vừa kinh thường vừa giận dỗi, bất cần: - Đi đi! Mang hết cả đi! Sáng thừa biết cha mình đang nghĩ gì: “...Thôi, thôi, tôi xin ông! Ông muốn hành cái phép tắc, cái luật lệ, cái nghi lễ văn hoá văn hiếc, gì gì… của ông thì ông cứ mang đi đâu đó mà hành… nhé! Còn cái làng này nó chẳng thiết, mà tôi, tôi cũng chẳng cần.… Rõ là nhiễu sự! Rõ là… là… Cứ lớn chuyện ba cái thứ lặt vặt…Đang yên đang lành thì vẽ chuyện…” Và thể nào một viên thuốc lào nữa cũng lóe lửa đóm, nảy tâng tâng trên nõ. Chiếc điếu duya ra lại rú rít lên, gay gắt, bực bội, rồi phun khói lên… thoả mãn. Trời đất! Chuyện gì cha anh cũng cho là chuyện vặt, khỏi cần phải bày vẽ cho mệt người! Cha có biết rằng chính vì ý nghĩ lúc nào cũng ngại mệt, lúc nào cũng ngả theo cái chủ nghĩa tuỳ tiện được đến đâu hay đến đấy, việc gì cũng chỉ được nửa vời, không chịu cố gắng dồn tâm, dồn huyết để đi đến tận cùng ước mơ ấy như cha anh, của bao đời người ở cái làng bãi ngang này mà đã khiến cho cái làng Hoàng Ngôn của cha con anh chìm nghỉm, chẳng làm sao mọc mũi sủi tăm lên được trong thiên hạ không? Chao ôi! Cha hãy nhìn ra những tỉnh ngoài mà xem, có biết bao nhiêu địa danh lừng lẫy tên tuổi vì bề dày lịch sử văn hoá: những đền Hùng, đền Mẫu cội nguồn dân tộc bao đời; những thành cổ Tây Sơn, thành nhà Hồ, Lam kinh; những chùa Bổ, chùa Và, chùa Mía, chùa Tây Phương... thâm nghiêm, cổ kính; những cổng làng cổ Đường Lâm, chùa Cầu Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Tháp Chàm…Kỳ lạ... đến tận cái xứ Đồng Văn xa mù hẻo lánh cũng có riêng cho mình cả một phố cổ… chưa nói tới kinh thành Huế, đến cố đô Thăng Long... Cha có biết Bái Đính, Ninh Bình họ còn muốn vật sản văn hoá của địa phương mình có thứ vươn được lên đến tầm cỡ nhất Đông Nam Á không? Truyền thống văn hoá, di tích lịch sử vốn đã rất được những người dân các xứ ấy đời đời ngưỡng mộ, nâng niu, gìn giữ, vậy mà giờ đây họ vẫn chưa thoả, vẫn còn đang ra sức bồi đắp, khuếch trương rộng lớn thêm từng ngày. Nhưng, buồn thay, cha đã bao giờ chịu bước ra khỏi cái làng Hoàng Ngôn vốn chỉ là một dải đất bãi ngang hẹp như cái dải áo, kẹt giữa đôi bên bờ cát chát mặn và đầm lầy nước lợ này, để mở to mắt ra mà nhìn các làng quê rộng lớn, giàu có, khang trang, sang trọng của thiên hạ để mà kính phục họ, thèm được như họ, và buồn cho mình đâu! Sáng trút một hơi thở dài, cố xua ra khỏi người nỗi bực bội. Và anh, anh nữa - một Phương Quang Sáng - nhà doanh nghiệp về bất động sản và cổ phiếu mới phất với tài sản vài ba triệu Đô la Mỹ - một Phương Quang Sáng có bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh - Du lịch, hiện đang tu thêm một bằng Thạc sĩ nữa về Đông phương học - anh sống ở đâu mà chẳng được ở trong cái thế giới trọng Mỹ kim, thèm chất xám này chứ? Vậy mà tại sao, tại sao anh vẫn không sao bỏ được cái làng Hoàng Ngôn nghèo nàn, khốn khổ này. Tại sao, tại sao chứ? Vinh danh cho quê hương! Làm sao để có thể kêu gọi được tất thảy những con người cùng sống ở cái thôn Hoàng Ngôn vốn thâm căn cố đế đã có cái tính ương ương, gàn gàn này cùng có tâm huyết biến ý chí thành hành động tôn tạo vinh danh cho nơi chôn nhau cắt rốn của mình? Vậy mà, tiếc thay - cha anh - cái người thân thiết, ruột thịt gần gũi nhất của anh thì lại dường như cũng giống tất cả những người khác trong làng, cũng như chẳng hiểu gì, chẳng quan tâm gì đến điều tâm huyết của anh. Thậm chí ông lại còn có vẻ là một trong những người cảm thấy mệt mỏi và khó chịu nhất vì những việc anh đã làm. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Lên Đỉnh của tác giả Nguyễn Thị Anh Thư.
Bùn Pha Sắc Xám - Anthony Grey
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây. *** Bộ sách SàiGòn gồm có: Sài Gòn Một Nơi Để Nhớ Một Chốn Để Thương Sài Gòn Bùn Pha Sắc Xám Sài Gòn Hai Trăm Năm Cũ *** Anthony Grey là một nhà báo và tác giả người Anh. Là một nhà báo của Reuters, ông đã bị chính quyền Trung Quốc cầm tù 27 tháng tại Trung Quốc từ năm 1967 đến 1969. Ông đã viết một loạt tiểu thuyết lịch sử và sách phi hư cấu, trong đó có một số cuốn liên quan đến việc ông bị giam giữ. Mời các bạn đón đọc Bùn Pha Sắc Xám của tác giả Anthony Grey.
Trong Ánh Lửa Thù - Uyên Thao
Nhà văn Uyên Thao tên thật là Vũ Quốc Châu, sinh năm 1933 tại Hà Nội, bắt đầu viết văn từ năm 1952. Vào Saigon năm 1953, ông cộng tác với nhiều tờ báo cũng như những tập san văn học nghệ thuật. Sở trường của ông là sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật. Tác phẩm của nhà văn Uyên Thao gồm đủ thể loại trong đó có những tác phẩm đã in trên báo và xuất bản như hai cuốn tiểu thuyết “Những Con Cọp Cháy Móng” đăng trên Tạp chí Sinh Lực-Sài Gòn từ năm 1959 đến 1961, “Trống Trận” đăng trên Nhật báo Tin Sáng vào năm 1964 và cuốn dã sử tiểu thuyết “Trong Ánh Lửa Thù” đăng trên Nhật báo Người Việt California từ năm 1996 đến 1997, và tập thơ viết trong tù “Không Tên” 1992. Ông cũng là nhà phê bình văn học với hai tác phẩm “Thơ Việt Hiện Đại 1900-1960” gồm 6 tập do Nhà Xuất Bản Hồng Lĩnh ấn hành tại Sài Gòn năm 1970 và “Các Nhà Văn Nữ Việt Nam 1900-1970” do Nhà Xuất Bản Nhân Chủ ấn hành tại Saigon năm 1973. Ông cũng sáng lập và điều hành nhật báo Sóng Thần từ năm 1970 đến 1974. Ngay từ khi đặt chân lên đất Mỹ vào cuối năm 1999, nhà văn Uyên Thao đã nghĩ đến chuyện thành lập Tủ Sách Tiếng Quê Hương. Nhà văn Uyên Thao cho biết thêm là Tủ Sách Tiếng Quê Hương nhận được sự cộng tác của rất nhiều bạn bè ngay từ khi ông khởi xướng việc này. “Tôi sang đây hơi trễ nhưng ngay khi mình nghĩ tới tủ sách này thì tôi viết thư cho tất cả những người bạn cũ tôi có được địa chỉ thì hầu như ai cũng sẵn sàng tiếp tay, ai cũng sẵn sàng ủng hộ. Chính vì vậy mình mới có thể thành lập được tủ sách.” Tủ Sách Tiếng Quê Hương được thành hình vào đầu năm 2000 vài tháng sau khi nhà văn Uyên Thao đặt chân lên nước Mỹ và tác phẩm đầu tiên được phát hành vào tháng 9 cùng năm là tập truyện ngắn “Thân Phận Ma Trơi” của Nguyễn Thụy Long. *** S áu năm sau đêm Trung Chính đẫm nước mắt cầm kiếm lệnh phóng ngựa như điên rời Thăng Long, đại quân Thát Đát tràn qua bắc thùy. Giữa mùa đông năm Tỵ, Ngột Lương xua quân từ Quí Châu, Vân Nam tiến vào đất Đại Việt. Kỵ binh Thát Đát xoài vó dọc dẫy Tượng Sơn theo tả ngạn sông Thao ào ạt tiến về xuôi. Các cứ điểm phòng thủ của quân Đại Việt từ Ngã Ba Hạc tới Phù Lỗ bị tràn ngập mau chóng trước sức tấn cônc) như vũ bão. Cuộc chiến đấu giữ nước được chuẩn bị gần mười năm vẫn không ngăn nổi quân Thát Đát tiến thẳng về Thăng Long. Triều đình bỏ kinh thành cho Thát Đát chiếm đóng. Thế nước chông chênh như bánh xe đang lăn trên bờ vực. Nhà vua băn khoăn hỏi Quốc Sư Thủ Độ: - Tình thế này liệu còn cách nào vượt khỏi nguy vong chăng? Vị lão thần nghiêng mái đầu bạc trắng về phía nhà vua. Cặp mắt trĩu ưu tư của ông quắc lên. Giọng ông trầm trầm nhưng quyết liệt, nhấn rõ từng lời: - Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo! Hơn một tháng sau, quân Đại Việt từ các lộ Hông, Khoái, Trường An, Thiên Trường dồn về phản công địch tại Đông Bộ Đầu, khôi phục kinh thành. Ngột Lương chuyển quân qua hữu ngạn sông Thao, gom lực lượng tại Qui Hoá, chuẩn bị mở đợt tấn công thử nhì về Thăng Long. Các thám tử Thát Đát trong vùng được lệnh cấp tốc về gặp chủ tướng Ngột Lương để tường trình về địa thế và quân tình Đại Việt. Cùng lúc Ngột Lương cho dựng trại chờ hội quân, chủ quán Quốc Oai khách điếm một mình một ngựa băng rừng tiến sâu vào miền tây bắc Qui Hoá, hướng về căn cứ Khau Pho. Hai ngày sau đó, kỵ binh Thát Đát nhận chịu một cuộc tấn công chưa hề gặp trên khắp các chiến trường từng in dấu chân ngựa của họ. Trong lúc cánh quân triều đình của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn từ lộ Quốc Oai vượt Trung Ha tiến lên, nghĩa binh lộ Qui Hoá dưới sự dắt dẫn của thủ lãnh Lý Trung Chính xuất hiện như tiếng sét bất ngờ nổ giữa trời trong, cắt nát kỵ binh Thát Đát thành từng toán nhỏ. Cuộc phối hợp giữa quân triều đình và nghĩa binh Qui Hoá dồn lực lượng Thát Đát vào thế bị động hoàn toàn từ phút khởi đầu trận đánh. Lần đầu tiên đoàn kỵ binh bách thắng khắp hoang mạc Bắc Á vừa xéo nát đế quốc Ba Tư và chinh phục Đại Lý lâm cảnh tan vỡ kinh hoàng. Những chiến sĩ áo chàm chập chờn biến hiện như những bóng ma và dũng mạnh như một bầy sư tử. Ngột Lương phải ra lệnh mở đường máu thoát thân, cuốn vó chạy dài về phương bắc dưới sự truy sát bén gót của quân Đại Việt. Những ngày cuối cùng của mùa đông năm Tỵ cũng là những ngày cuối cùng của ba vạn chiến binh Thát Đát vừa hung hăng vượt bắc thùy Đại Việt ít ngày trước đó. Ngột Lương chỉ còn vài chục thân tùy cắm đầu chạy không kịp thở, cố tránh thật xa đoàn quân áo chàm của chàng trai có cặp mắt như bốc lửa và cánh tay gươm không hề mệt mỏi. Vào lúc chờ nghĩa binh thu dọn chiến trường để tập hợp về xuôi, Lý Trung Chính trầm ngâm trên yên ngựa nhớ lại những người từng sát cánh bên chàng. Chàng nhớ tới người chú họ Lý Bảo Tuấn hầu như không lúc nào rời chàng nửa bước. Với tuổi già bảy chục, ông vẫn giữ nguyên khí phách của viên tướng trẻ lừng danh Trung Dũng Hầu thuở trước. Luôn luôn xông xáo trên đầu các hàng quân, ông chỉ chịu ngưng khi nhận một mũi tên Thát Đát cắm suốt qua tim. Trung Chính thở dài nhủ thầm: - Dù sao thì chú cũng hài lòng vì đã dự phần làm sống lại trận Như Nguyệt ngày xưa. Mời các bạn đón đọc Trong Ánh Lửa Thù của tác giả Uyên Thao.
Những Dấu Chân của Mẹ - Hà Khánh Linh
“Những dấu chân của mẹ là tập 3 trong bộ ba tiểu thuyết Người kinh đô cũ (NXB Hội Nhà văn, 2004), Lửa kinh đô và Những dấu chân của mẹ (…). Hai nhân vật chính là Nguyễn Phúc Bửu Toàn và Đoan Thuận đã xuyên suốt tác phẩm. Bửu Toàn là một vương gia Tây học, làm Chánh văn phòng Tòa khâm sứ Trung Kỳ nhưng bí mật hoạt động cách mạng đã góp phần cùng nhân dân Huế và cả nước làm nên Cách Mạng Tháng Tám. Đoan Thuận là nữ sinh Đồng Khánh, nữ sinh Khải Định (thời đó trường Đồng Khánh chưa có ban tú tài), cô giáo trường Việt Anh đã tham gia cách mạng với lòng yêu nước thiết tha và nhiệt tình cháy bỏng của tuổi trẻ” (LTS của tạp chí Sông Hương). *** Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị  là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải Phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, thư ký toàn soạn rồi phó tổng biên tập tạp chi Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức… cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Campuchia… đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú. Trong khoảng 40 năm cầm bút cho đến nay chị đã xuất bản tám tập tiểu thuyết, bảy tập truyện và ký, hai tập thơ. Chị là một nhà văn trưởng thành trong chiến tranh chống Mỹ nên đề tài chiến tranh là đề tài được chị quan tâm nhiều nhất (…). Mấy năm gần đây chị mở rộng đề tài. Chị muốn tái hiện lại một số giai đoạn lịch sử quan trọng của Huế qua các tác phẩm dài hơi như tiểu thuyết Người Kinh Đô Cũ (dày 576 trang), Con gái người cung nữ … Về mảng đề tài này chị cũng đã có những thành công nhất định (…) Hà Khánh Linh là một nhà văn làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã vượt qua mọi chông gai, thử thách trên đường đời để tự khẳng định mình. Tôi rất đồng tình với điều mà chị tâm niệm: “Viết là một cách sống, một thái độ ứng xử trước cuộc đời” *** Đi thăm cô Minh Lý về gần ngót hai tháng rồi mà Anh Thi vẫn chưa vơi được cảm giác bàng hoàng lâng lâng bay bổng rất thực mà lại như mơ. Nhất là những ngày bên cô Minh Lý tâm trạng Anh Thi lúc nào cũng chao đảo giữa hai thái cực: hạnh phúc và đau khổ, vui mừng và tuyệt vọng, thỏa mãn và bức xúc... Thậm chí, trong niềm thương yêu kính trọng vào cùng vào hạn đối với mẹ thỉnh thoảng lại cộm lên một chút giận hờn. Rồi giận ba, giận anh Vĩnh Tuấn và giận cả chính mình. Từ sau khi có được Anh Thi - đứa con yêu quý mà Đoan Thuận gửi cho - quan ngài Nguyễn Phúc Bửu Toàn cứ ở nhà đợi Đoan Thuận, chứ không hề cất công đi tìm kiếm như buổi ban đầu Đoan Thuận bỏ nhà ra đi... Vì sao ba hành xử như vậy hở ba? Còn anh Vĩnh Tuấn, những ngày anh ở Sài Gòn, cự ly giữa anh với “dì Đoan Thuận” rất gần mà anh không hề hay biết. Những lần anh qua lại trên đại lộ Lê Lợi thênh thang cái biển hiệu mỹ viện Phúc Toàn ít nhất cũng một lần đập vào mắt anh, mà anh không hề có một chút suy nghĩ liên tưởng gì sao? Chưa bao giờ anh có ý định đi tìm gặp “dì Đoan Thuận” hoặc mơ gặp “dì Đoan Thuận” giữa Sài Gòn hoa lệ một thời sao?!... Khi những câu hỏi này được bật nên lời, thì anh Vĩnh Tuấn suy nghĩ một hồi lâu rồi cất giọng chậm rãi, rành mạch, mắt hơi trừng một chút với cô em gái Anh Thi - như thuở nào cô còn bé bỏng vậy: - Chúng ta ai cũng thương nhớ, mong chờ, day dứt, đau đớn, khắc khoải... không biết dì Đoan Thuận còn hay đã mất, nếu còn thì đang ở đâu? Như thế nào? Ra sao?... Có thể nói mấy chục năm qua không khí gia đình ta chưa có lấy một ngày vui thật sự, vì tâm trạng ấy luôn đè nặng lên tâm thức của mỗi người. Còn dì Đoan Thuận thừa biết tất cả những tình cảm ấy của mỗi một người trong chúng ta dành cho dì, thừa biết chúng ta đang ở đâu, làm gì... Nhưng dì đã chẳng hề coi trọng điều đó. Đối với dì thì những nguyên tắc của Tổ chức là cao nhất! Phương thức sống mà dì chọn lựa là tốt nhất! Dì sống vì lý tưởng mà dì đã chọn, vì ước mơ mà dì đã đạt được, vì nghĩa vụ mà Tổ quốc đã tin tưởng giao phó cho dì... Tất nhiên thiếu dì Đoan Thuận cách mạng vẫn thành công, nhưng chính dì muốn trong bản đại hợp xướng chiến thắng của dân tộc phải có sự góp mặt của dì. Chính dì đã từng nói với ba là dì có thể chết được rồi sau khi ba tiếp nhận tình yêu của dì. Con người khôn ngoan ấy đã không muốn chết bình yên trên chiếc giường của mình, trong ngôi nhà của mình. Con người ấy muốn sống một cuộc đời bằng nhiều cuộc đời cộng lại, nếu không muốn nói là nhân lên! Dì Đoan Thuận là như thế đó! Nếu anh không nhầm thì ngoài hai mươi tuổi ít nhất có một lần dì Đoan Thuận xác định đi vào chỗ chết, nhưng vẫn không chết. Đó là khi dì quyết định gửi em về Huế cho ba nuôi. Lời thư của dì viết cho ba anh đã thuộc lòng, và hẳn là em còn thuộc và nhớ hơn cả anh “... Sắp sửa vào chiến dịch mới. Tôi sợ lần ra đi này có thể không trở về, nên tôi đành phải gửi con tôi cho ngài nuôi dạy giúp...” Đó là mùa hạ năm 1948. Dì xác định mình có thể hy sinh. Nhưng ông trời còn để cho dì sống trên đời hai mươi năm nữa. Dì đã đi du học - như ước nguyện của ba ngày xưa mà vì quá yêu ba, nên dì không rời xa ba để đi học được. Dì học một ngành khoa học để làm đẹp cho bao người đàn bà con gái khác không được đẹp như dì. Cùng lúc, dì trở thành một cán bộ cách mạng hoạt động hợp pháp giữa thủ đô hoa lệ Sài Gòn trong một thời gian dài mà kẻ địch không hề hay biết. Thông minh, từng trải, đầy năng lực và dày dặn kinh nghiệm, hẳn là dì đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng được giao, để rồi cùng với đồng chí đồng bào làm nên một tổng tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 lịch sử. Ngày kết thúc chiến dịch, một tay dì đã cứu sống hai thương binh bị thất lạc, rồi sau đó tự tay đưa các anh ra vùng an toàn, khi trở về dì mới bị địch bắt. Dì mãn nguyện lắm rồi, em không biết đó thôi! Em trách anh ở Sài Gòn lâu sao không nhìn thấy biển hiệu Phúc Toàn, và nếu đã nhìn thấy sao không có chút suy nghĩ, liên tưởng, tìm tòi... Nói thật với em, dạo đó - và cả về sau này - thỉnh thoảng nhìn thấy chỗ của các bà các cô lui tới để làm đẹp, là anh vội vã tránh xa ra! Có thể nói đàn bà con gái cứ mãi lo trau chuốt cái dung nhan cho lắm vào, thì đầu óc càng rỗng tuếch!... Hẳn là dì Đoan Thuận hàng ngày đều có đọc báo Sài Gòn, anh luôn ký tên thật dưới các bài báo, lẽ nào dì không nhận ra? Sao dì không chủ động đến tòa soạn tìm anh? Em biết không, khi em lặn lội cả năm trời đi tìm dấu tích của mẹ - từ tập nhật ký của mẹ để lại - cho đến những vùng miền mẹ đã từng qua, anh thương em lắm, vừa thương ba không còn nữa để biết được tin về mẹ. Nhưng bây giờ anh nghĩ khác. Nếu ba còn sống đến ngày nay để biết tất cả những sự ứng xử như thế của dì Đoan Thuận, chắc chắn ba sẽ buồn lắm. Thà ba không biết được những điều đó. Thà ba nửa tin nửa ngờ rằng dì Đoan Thuận đang còn sống ở đâu đó, hoặc đã hy sinh vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Mời các bạn đón đọc Những Dấu Chân của Mẹ của tác giả Hà Khánh Linh.