Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ba Ngày Ở Nhà Mẹ

Kết cấu Ba ngày tại nhà mẹ tôi (Giải Goncourt 2005) thật đặc biệt. Thoạt tiên là sáu "chương" (từ đầu đến trang 160) tuy tác giả không ghi là chương mà chỉ đánh số từ 1 đến 6. Người kể chuyện xưng "tôi", tự giới thiệu mình là François Weyergraf, vợ là Delphine, hai con gái là Zoé và Woglinde. "Tôi" đã gần sáu mươi, đã xuất bản mười tiểu thuyết và dựng năm bộ phim. Mẹ "tôi" thì đã tám mươi tám tuổi. "Tôi" bắt tay vào một cuốn tiểu thuyết mới, "… tôi đã tìm ra nhan đề trước khi bắt đầu viết, đó là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi". Tôi cần phải sáng tạo một nhân vật phụ nữ đã nhiều tuổi, một bà mẹ hư cấu, bà sẽ là mẹ của người kể chuyện chứ không phải mẹ tôi […] Trong tiểu thuyết của tôi, bà mẹ goá chồng" (Trois jours..., tr.75). "Tôi" chọn người kể chuyện là một nhà văn, như thế dễ viết hơn là chọn một kẻ sát nhân, một nhà phẫu thuật hay một bộ trưởng. "Người kể chuyện trong cuốn sách sắp tới của tôi đêm đêm giam mình trong một căn phòng để làm việc [...] Tôi chấp thuận cho phép ông ta thỉnh thoảng rời căn phòng […] Đi đây đi đó, làm tình, viết văn, thật là một tam vị nhất thể tuyệt vời!" (Trois jours..., tr.95, 99, 101). Nhưng rồi việc viết lách chậm như rùa. Vợ "tôi" hỏi: "Cuốn tiểu thuyết của anh đến đâu rồi?". Mẹ "tôi" sống ở Provence, miền Nam, lần gần đây nhất lên Paris, hỏi: "- Con đưa cho mẹ xem cuốn tiểu thuyết của con chứ? Nó đâu? - Bà muốn nói là bản thảo […] Tôi đã trả lời mẹ: - Con chưa viết xong được - Thế ít ra con đã bắt đầu viết chưa?” (Trois jours..., tr.156, 157).   Từ trang 163 đến trang 234, tiếp theo sáu "chương" ấy là trang bìa, trình bày hết cả trang, như một trang bìa thật, cuốn tiểu thuyết của "tôi", với đầy đủ tên tác giả là François Weyergraf, nhan đề cuốn tiểu thuyết là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi"… Sau trang bìa là ba chương đã hoàn thành, ghi rõ chương 1, chương 2 và chương 3. Phương thức tự sự chuyển sang ngôi thứ ba, lời kể của người trần thuật: François Graffenberg là một nhà văn; ông đã gần sáu mươi tuổi, vợ là Daphné, hai con gái là Chloé và Sieglinde. Ông định viết một cuốn tiểu thuyết lấy nhan đề là "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhân vật chính, người kể chuyện trong đó tên là François Weyerstein, cũng là một nhà văn, dự định viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi", nhưng mãi chưa xong vì những chuyện gặp gỡ, hẹn hò. Ông quyết định gác lại tất cả, về nhà mẹ ở mấy ngày để nghỉ ngơi đôi chút và hoàn thành tác phẩm.   Cuốn Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergraf mới được ba chương và dừng ở đây. Ba mươi trang cuối (tr.235-263) tiểu thuyết Ba ngày tại nhà mẹ tôi của François Weyergans được đánh số 7, nối tiếp với 6 "chương" mở đầu tác phẩm và trở về với phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất. "Tôi" được tin mẹ "tôi" ở Provence bị ngã chẳng ai biết, nên một mình nằm ngoài vườn, nay đang điều trị ở bệnh viện. "Tôi" liền về Provence. "Thế là tôi về sống ba ngày, ba ngày ấy tại nhà mẹ tôi. Tại nhà mẹ tôi mà không có mẹ tôi". Tiểu thuyết kết thúc bằng mấy dòng: "Tối nay tôi rất muốn gửi cho mẹ tôi một bản fax, tôi rất muốn viết báo tin cho mẹ là tôi vừa đặt dấu chấm hết cho quyển sách mà tôi đã quyết định hoàn thành, sau khi mẹ ngã, tôi về ở ba ngày tại nhà mẹ tôi” (Trois jours..., tr.255, 263).   Nhà văn có thật François Weyergans viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm là nhà văn hư cấu François Weyergraf (tạm gọi là cuốn A); nhà văn hư cấu này lại viết cuốn tiểu thuyết với nhân vật trung tâm hư cấu là François Graffenberg cũng là một nhà văn (tạm gọi là cuốn B). Đến lượt François Graffenberg lại viết cuốn tiểu thuyết với người kể chuyện là François Weyerstein vẫn là một nhà văn (tạm gọi là cuốn C) và nhà văn ấy đang loay hoay viết "Ba ngày tại nhà mẹ tôi" (tạm gọi là cuốn D). Các tiểu thuyết ấy đều lấy cùng một nhan đề và triển khai cùng một nội dung. Một dạng tiểu thuyết trong tiểu thuyết và theo kỹ thuật "lồng gương" đến mấy tầng. Hai cuốn C và D mới chỉ là những dự định. Cuốn B của François Weyergraf đã xong được ba chương, Cuốn A, tiểu thuyết "có thật" của tác giả "có thật" François Weyergans thì gồm bảy "chương" đánh số từ 1 đến 7 và cả ba chương chen ngang của tác giả cuốn B kia.   Xét về một phương diện khác, cuốn D mới chỉ được nhắc đến, chưa có tên nhân vật và cũng chưa biết là theo phương thức tự sự nào. Cuốn C theo phương thức tự sự ở ngôi thứ nhất, căn cứ vào câu: "Người kể chuyện trong tiểu thuyết của ông (tức François Graffenberg - P.V.T thêm) tên là Weyerstein" (Trois jours..., tr.201). Cuốn B theo phương thức tự sự ở ngôi thứ ba. Đọc cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh, “thật sự" của F. Weyergans, ngôn từ kể chuyện dường như cũng luân phiên thay đổi theo kiểu "lồng gương", từ ngôi thứ nhất (cuốn A) ở 7 “chương”, sang người trần thuật ở ba chương (cuốn B) và sẽ lại trở về với ngôi thứ nhất (cuốn C)...   Một cuốn tiểu thuyết về sáng tác tiểu thuyết của một nhà văn có dự định trong đầu mà cứ trì hoãn mãi viết không xong. Cái gọi là cốt truyện theo nghĩa truyền thống hầu như chẳng có. Ba ngày tại nhà mẹ tôi lôi cuốn hứng thú của bạn đọc về phía kỹ thuật biến hoá chủ thể tự sự trong tác phẩm. Ngoài ra, có những dấu hiệu khiến ai cũng phải băn khoăn: các nhân vật nhà văn trong tác phẩm đều có tên là François như tác giả, còn các họ Weyergraf, Graffenberg, Weyerstein đều na ná dắt dây nhau và gợi nghĩ đến Weyergans. Cũng có mối liên hệ tương tự giữa tên vợ (Delphine - Daphné) và tên hai con gái (Zoé - Chloé; Woglinde - Sieglinde) của Weyergraf và Graffenberg. Dù sao, đó vẫn chỉ là những nhân vật hư cấu; các chủ thể xưng "tôi" và người trần thuật trong tác phẩm vẫn không thể đồng nhất với nhà văn. Trong tiểu thuyết này, chủ thể "tôi" có đầy đủ cả họ tên, tuổi tác, lại có vẻ gắn với những mối quan hệ xã hội, vợ con, mẹ, tình nhân, nhà xuất bản... Nhưng các tên họ dắt dây nhau, nhoà vào nhau, các sự kiện lại rất mờ nhạt, cả cuốn tiểu thuyết chỉ quanh quẩn ý chính là mãi chẳng hoàn thành. Thật không dễ dàng hình dung để phân tích "tôi" như một nhân vật theo lối mòn trước đây..."   GS. Phùng Văn Tửu   Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà Nội  *** François Weyergans sinh năm 1941 ở Bỉ, mẹ là người Pháp và bố là người Bỉ, nhưng chủ yếu sống ở Paris. Ông xuất thân là một nhà làm phim, tốt nghiệp IDHEC (Trường Điện ảnh quốc gia), đạo diễn cuốn phim ăn khách một thời Je t'aime, tu danses (Anh yêu em, còn em thì nhảy múa).   Dầu vậy, Weyergans được thiên hạ biết tiếng nhiều nhờ sự nghiệp văn chương hơn là nhờ mấy tác phẩm điện ảnh lẻ tẻ.   Ông bắt đầu nổi danh với tư cách là nhà văn vào năm 1973 qua cuốn Le pitre (Thằng hề). Trong số các tác phẩm đáng chú ý khác của ông còn có Le radeau de la Méduse (Chiếc bè Méduse), La vie d'un bébé (Hài nhi), Je suis écruvain (Tôi viết văn), La démence d'un boxeur (Võ sĩ điên rồ, giải Renaudot 1992), Franz et François (Franz và François).   Năm 2005 này, ông cùng lúc cho ra mắt hai cuốn Trois jours chez ma mère vừa trúng giải Goncourt và cuốn Salomé (Salomé, tác phẩm đầu tay, khởi thảo năm 1968).     Tác phẩm đoạt giải:   "Có thể rồi một ngày nào đó tôi cũng sẽ trách mình, không phải vì ít trò chuyện với mẹ, bởi hầu như chiều nào tôi cũng nói chuyện qua điện thoại với bà, mà là vì ít đến thăm bà, nhất là mấy năm sau này. Đã thượng thọ, vậy mà người mẹ yêu quý của tôi vẫn còn tỏ ra rạch ròi hơn tôi nhiều. Trong điện thoại, bà không ngớt tóm gọn tình thế: "Tóm lại, mẹ thật ít có dịp trông thấy con trên đời"".   Chính vì vậy mà, thay mặt tác giả, nhân vật François Weyergraf mong muốn được "ba ngày về với mẹ" cho phải đạo làm con.   Đây là một cuốn tiểu thuyết có cấu trúc phức tạp. Người kể chuyện François Weyergraf "bịa" ra một tác giả tên là François Graffenberg, ông Graffenberg này lại "bịa" ra một nhân vật là François Weyerstein; mỗi François lại truyền cho François khác cái xung năng sáng tạo của mình.   Ngay từ đầu, độc giả đã gặp lại nhân vật có họ na ná với họ Weyergans trong cuốn Franz et François xuất bản 8 năm trước. François Weyergraf là nhà làm phim và nhà văn (hệt như tác giả), 60 tuổi, luôn luôn thao thức, trăn trở, bất an trong lòng, nhưng rất ư uyên bác, chẳng khác gì nhà văn Bỉ danh tiếng Franz Weyergans, cha của tác giả.   Nếu như qua Franz et François, tác giả đã tỏ lời vừa kính phục vừa ganh ghét cha mình, thì cuốn Trois jours chez ma mère như một bức thư bày tỏ tình cảm gửi tới mẹ già.     Mẹ và con   Bà nay 91 rồi, nhưng vẫn minh mẫn và còn sung sức. Qua điện thoại, bà không ngớt thăm hỏi, chăm sóc đứa con trai ở tuổi 60 như nó còn bé dại. Bà dặn nó phải viết nhiều hơn, bớt hút thuốc, không thì phổi bị thủng lỗ chỗ. Một nhân vật kỳ diệu.   Nhớ tới thời bà... chưa già, vừa góa chồng là bà cặp kê ngay với một ông láng giềng chủ một xí nghiệp có vợ con. Bà cũng chẳng ngại la cà trong các quán bar, nhảy nhót với những kẻ lạ mặt. Vóc dáng, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của bà lúc nào cũng trẻ trung, sống động, khiến cho nhiều người tưởng bà với con mình là vợ chồng chung gối với nhau.   Thế nên Francois Weyergraf/Weyergans hết mực yêu quý, tôn sùng mẹ mình. Chúng ta nghe rõ đằng sau chữ "maman" (má, mẹ, u...) mỗi khi tác giả thốt lên trên trang giấy từng cung bậc rung động của ngòi bút.   Ông khao khát được ôm mẹ vào lòng, về ở với mẹ dầu chỉ "ba ngày" vậy mà cứ mải miết bận rộn. Lại nữa, cứ mong mang về dâng tặng mẹ cuốn sách viết về cuộc đời của bà, nhưng vì nó vẫn còn trong trứng nước nên tác giả ngần ngại không dám bước chân. Mà cũng có thể vì tác giả e rằng một khi đã phơi bày cuộc đời của mẹ mình trên trang sách, biết đâu bà lại chẳng bất thần trút hơi thở cuối cùng.   Rốt cuộc, "ba ngày về với mẹ" chỉ là một giấc mơ.     Mượn cớ   Hay chỉ là cái cớ cho phép tác giả nhẩn nha "tùy bút" trên 270 trang sách, một cách hấp dẫn, lôi cuốn, nhờ ở một văn phong điêu luyện, nhưng không kiểu cách. Thành quả của bảy năm ròng miệt mài với ngôn từ, chữ nghĩa, với tư duy, suy luận.   Viện Hàn lâm Goncourt đã đúng đắn khi trao tặng Goncourt, giải quan trọng nhất của văn học tiếng Pháp, cho tác phẩm Trois jours chez ma mère của Francois Weyergans. Trong số các nhà văn từng đoạt giải này có Marcel Proust, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras...   TRẦN THIỆN ĐẠO (Paris)    Mời các bạn đón đọc Ba Ngày Ở Nhà Mẹ của tác giả Francois Weyergans.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bỏ Chồng - Hồ Biểu Chánh
Qua tháng mười một, mùa mưa đã dứt rồi, lại có ngọn gió bấc thổi lao rao. Buổi chiều, ở Sài Gòn, khí trời mát mẻ, làm cho con người từ trẻ chí già đều khỏe khoắn trong mình, nên đi ngoài đường ai cũng lộ cái vẻ hớn hở tươi cười. Thế mà, Chí Thiện, năm nay đã được 28 tuổi, làm thơ ký toán cho một hãng buôn lớn tại đường Kinh Lấp, đúng 7 giờ tối, thầy ở trong hãng bước ra, bộ đi chậm rãi, mặt mày buồn hiu, dường như thầy tiếc rẻ hãng đóng cửa sớm không cho thầy làm việc thêm nữa. Tay ôm một cuốn sách với một tờ nhựt báo, thầy thủng thẳng đi lại đường Pelerin đón xe autobus mà về Đa Kao. Bước lên xe thầy ngồi dưới ngọn đèn điện sáng trưng, mở tờ nhựt báo ra mà xem, không ngó kẻ qua người lại hai bên đường, mà cũng không để ý đến những kẻ đi trên xe. Tới Đa Kao xe ngừng, thầy xếp tờ nhựt trình rồi bước xuống tránh xe kéo, xe máy mà quẹo lên đường Paul Bert. Gần tới căn phố chỗ thầy ở, thầy thấy con Sáu, là đứa con gái, đương đứng dựa cột điện mà chơi với con thầy, tên con Yến, năm nay đã được 6 tuổi. Bấy giờ thầy mới xăn bước, đi riết lại. Con Yến kêu “ba” rồi chạy đón, ôm bắp vế thầy. Thầy cuối xuống, ôm mặt con mà hun, đưa cuốn sách với tờ nhựt báo cho con cầm, rồi nắm tay dắt con đi vô nhà. Trong nhà đèn sáng trưng, nhưng từ trước ra sau đều vắng hoe, không nghe tiếng, không thấy dạng một người nào hết. *** Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... Mời các bạn đón đọc Bỏ Chồng của tác giả Hồ Biểu Chánh.
Điệu Nhảy Của Shokupan - Mitsuki Nagasu
“Nếu cứ trốn tránh khó khăn để được tới nơi an nhàn, thì một lúc nào đó ta sẽ phải trả lại cuộc đời những gì mình đã vay mượn.” Shokupan – cái tên thân thương được hàng triệu người dân xứ sở hoa anh đào trìu mến phong tặng danh hiệu “truyền nhân” của “chú chó quốc dân” HACHIKO. Cứ 10 học sinh trung học tại Nhật Bản, thì 9 người đọc cuốn sách này ! Tất cả đều chung một cảm nhận: “Thật tuyệt vời khi được đọc nó trước khi bước vào ngưỡng cửa trưởng thành!” Ngay sau khi ra mắt,  “Điệu nhảy của Shokupan” ngay lập tức đã tạo nên tiếng vang trong cộng đồng học sinh và phụ huynh Nhật Bản. Hơn cả một cuốn tiểu thuyết học đường,Mitsukia Nagasu đã khéo léo lồng ghép vào cuốn sách này thực trạng đáng lo về nạn bạo lực học đường, sự cô đơn của những đứa trẻ thiếu thốn tình cảm của bố mẹ,… Cuốn sách là câu chuyện kể về cậu bé 12 tuổi Yukii Yano hiền lành, nhút nhát và bị các bạn xa lánh bởi công việc trước đây của mẹ cậu. Trường học vốn đã là một nơi khó khăn với cậu bé bởi những trò quấy phá bắt nạt của các bạn cùng lớp, mọi  việc trở nên khó khăn hơn khi Yukii nhận được chậu hoa tulip mình đã dày công chăm bẵm suốt một năm các bạn gửi tặng khi nằm viện. Thay vì những lời chúc tốt lành, trên những cánh hoa tulip lại chỉ vỏn vẹn lời nhắn “Mày đừng có đến nữa”.  Yukii ngay trong lúc lạc lõng giữa đám bạn học xấu tính, giữa bài tập chồng chất, và người mẹ quá sức bận rộn với cơm áo gạo tiền hàng ngày, đã gặp được một người bạn – người bạn duy nhất đồng cảm, và dường như thấu hiểu nỗi lòng cậu bé. Shokupan – chú chó nhỏ cũng bơ vơ như vậy, cũng cô đơn như vậy, và cũng bị bắt nạt như vậy. Hai cá thể tưởng chừng như xa lạ được định mệnh sắp đặt tìm thấy nhau, gắn kết với nhau, chăm sóc lẫn nhau và dũng cảm cùng nhau vượt qua khoảng thời gian trưởng thành đầy khắc nghiệt với đầy những lo âu và bất an.  Không giống như những cuốn tiểu thuyết học đường khác, “Điệu nhảy của Shokupan” không chỉ có những ước mơ, những mối tình thời niên thiếu trong sáng. “Điệu nhảy của Shokupan” còn là một nét buồn của nạn bắt nạt học đường đang hiện hữu mà chẳng phải tác giả nào cũng dám lên tiếng. Bằng ngòi bút tinh tế và trái tim thấu hiểu, Mitsuki Nagasu đã đặt mình vào vị trí của nhân vật, cảm nhận những nỗi buồn ấy và thổi vào đó niềm hi vọng và sự ấm áp của tình bạn cao cả chứa đựng tính nhân văn vô cùng sâu sắc.  Mong rằng tất cả những độc giả cầm trên tay cuốn sách này đều sẽ tận hưởng được chuyến đi của trái tim mình. Khi chuyến đi đó kết thúc, mong các bạn cảm nhận được cảnh sắc của ngày mai đã khác hẳn hôm nay, hy vọng sẽ chạm được tới trái tim đang cô đơn của các bạn.  *** Gần nhà cậu có một ngôi chùa tên là Sugatama. Vì nó nằm ở một nơi cô độc, trên một con đường nhỏ rẽ từ đường lớn vào, nên cậu hầu như chưa từng thấy người nào tới lễ bái. Đánh giá chủ yếu về ngôi chùa này là dù có tới khấn cầu cũng không được lợi lộc gì. Bởi vậy, người dân gần đó đã gọi tên chùa là chùa “Sukatama”*. Khi Yuuki đi qua con đường nhỏ, từ đám cỏ ven đường chợt có tiếng lạo xạo vọng tới. Trước khi Yuuki kịp hoảng hồn hét lên thì một con chó đen đã lao vụt ra trước mặt cậu như một mũi tên. Lại có hai con chó nâu rẽ cỏ, đuổi theo sau con chó đen kia. Khi vừa tránh đi, hai chân Yuuki chợt loạng choạng, khiến cậu thiếu chút thì ngã ngửa. Con chó đen chạy phía trước vẫn còn là một con cún nhỏ. Miệng nó đang ngậm một thứ gì đó. Nhìn kĩ sẽ thấy đó là một lát bánh mì. Có vẻ như đang có một cuộc tranh cướp đồ ăn giữa chúng. Ba con chó không thể giải quyết được vụ tranh chấp bên ngoài, chạy biến vào bên trong khuôn viên chùa. Yuuki thấy lo lắng nên chạy theo. Khi cậu nấp vào chân cột của cánh cổng điểu cư* để xem tình hình, thì con chó đen đã chạy được một vòng quanh chùa và đang chạy lại phía cậu. Đương nhiên hai con chó kia cũng chạy theo. Hai con chó đuổi theo con chó đen trước cổng điểu cư. Thật không thể ngờ, con chó đen đã vòng ra sau lưng Yuuki. Tự nhiên Yuuki ở vào thế đối mặt với hai con chó hoang còn lại. Trước tiếng gầm ghè và vẻ mặt nhe nanh dữ tợn của hai con chó, Yuuki đông cứng người. Hai con chó gầy trơ xương sườn, bụng hóp lại như một chiếc vỏ hộp rỗng đã bị giẫm bẹp. Những sợi lông dựng ngược bù xù và không có chút độ bóng, toàn thân chúng tỏa ra khí thế áp bức của những chú chó hoang đang săn mồi. Khi nhìn kĩ, từ khóe mép chúng, những giọt dãi có bọt nhỏ xuống tong tong. Những con chó như này thường rất nguy hiểm. Không chừng chúng còn bị bệnh dại nữa. “Chuyện này liên quan gì đến tao chứ!” Khi Yuuki nhanh chóng quay mình sang ngang, chú chó đen cũng chạy theo núp sau lưng cậu như cái bóng. Tuy nhát gan nhưng nó thật biết cách ứng phó. Yuuki hạ quyết tâm. Cậu tháo cặp khoác trên vai xuống, dùng hết sức vung cặp quanh mình. “Biến đi chỗ khác mau!” Nếu không đuổi chúng đi, chính cậu sẽ gặp nguy hiểm. Quai cặp đập trúng mõm một con. Sau khi kêu oẳng một tiếng, con chó hoang lập tức chùn mình lại. Tình thế đã đảo ngược. Dù không định chiến đấu, chú chó đen phía sau Yuuki vẫn cất tiếng gầm gừ. Nhưng khi con chó còn lại xông lên trước sủa vang, thì chú chó đen cúp đuôi và lùi về sau hẳn hai mét. “Chết tiệt! Cút đi mau!” ... Mời các bạn đón đọc Điệu Nhảy Của Shokupan của tác giả Mitsuki Nagasu.
Hoa Anh Thảo - Michel Zévaco
Hoa Anh Thảo là một tiểu thuyết lịch sử dịch từ quyển "Borgia" của Zévaco. Câu chuyện xoay quanh gia đình Borgia: Alexandre Borgia, César Borgia và Lucerèce Borgia một phụ nữ lừng danh trên thế giới. Giáo hoàng Borgia có nhiều tham vọng thôn tính nước Ý và cả miền Địa Trung Hải. Tham vọng của Giáo hoàng bị bẻ gãy bởi tay kiếm vô địch của Hiệp sĩ Ragastens và Hoa Anh Thảo một phụ nữ kiên cường. Hoa Anh Thảo tập hợp các tiểu vương quốc chống lại mưu đồ xâm lược của Giáo hoàng. Mối tình của nàng và hiệp sĩ nảy nở trong chiến đấu, đầy đau thương và trắc trở. Câu chuyện cũng có viết về Raphael, họa sĩ bậc thầy và Machiavel nhà văn nổi tiếng thời kỳ "Văn hóa phục hưng" *** Michel Zévaco (Sinh tại Ajaccio ngày 01/02/1860, mất tại Eaubonne ngày 08/08/1918) là nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn người Pháp. Ông từng đi tù 6 tháng vì tham gia các hoạt động chống chính phủ. Michel Zévaco là một nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn phim người Pháp, và nhà hoạt động chống giáo sĩ cũng như vô chính phủ. Michel Zevaco thành lập tạp chí hàng tuần vô chính phủ Gueux vào ngày 27 tháng 3 năm 1892. Một tháng sau, ông bị bỏ tù 6 tháng và bị phạt vì ca ngợi Pini và Ravachol. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông: - Les Pardaillan - Le Capitan - Borgia (Hoa Anh Thảo - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1988) - Buridan - L'Héroïne - l'Hôtel Saint Pol - Nostradamus (Cuộc đời ly kỳ của Nostradamus, NXB Văn Học 1995)  - Les Amants de Venise (Đôi nhân tình thành Venise - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1990, NXB Hội Nhà Văn 2004) Mời các bạn đón đọc Hoa Anh Thảo của tác giả Michel Zévaco.
Đôi Tình Nhân Thành Venise - Michel Zévaco
Hôm sau, khi trời vừa sáng, Altieri mặc chiếc áo tang lễ và bộ mặt ra vẻ buồn rầu cho thích hợp với hoàn cảnh. Arétin chuẩn bị thi hành phần thứ nhất sứ mạng của ông. Ông đã giấu ở trong túi áo chẽn hai tờ giấy. Tờ giấy đã được chính tay Dandolo viết, Arétin tính về sau này sẽ trao lại cho Léonore... Tờ giấy đã được Dandolo đọc cho ông viết. – Ta có cần nói với phu nhân về những gì chứa đựng trong tờ giấy này không? Arétin tự hỏi. Rõ ràng, nàng rất cần thiết để được biết nó. Nhưng có ai biết những sự phiền toái nào sẽ nảy sinh ra trong cái gia đình quá rối loạn đó... Theo như chính bức thư của Dandolo?... Và ai biết nếu như tất cả những mối thù hận và những sự tuyệt vọng mà ta thoáng thấy lờ mờ cuối cùng sẽ thành một đám mây mù và sẽ rơi trên đầu ta?... Ta được giao phó việc gì? Trao lại cho Roland Candiano bức thư mà ta đang có ở đây, trong chiếc áo chẽn của ta. Thế là hết... Vừa đi xuống, ông vào trong gian phòng của người chết để tin chắc rằng ông không có nằm mơ, rằng những biến cố trong đêm quả thật đã xảy ra nơi nhà ông. Dandolo vẫn nằm trong tư thế cũ, bàn tay vẫn còn co rúm trên chiếc dao găm. Arétin ra lệnh cho cởi quần áo của cái thây và đắp điếm chu đáo cho ông, trong lúc chờ đợi người ta đến mặc cho ông quần áo đại lễ, theo thông lệ. Bấy giờ, ông đi đến dinh thự Altieri và sau nhiều cuộc thương thuyết, được chấp nhận đến trước mặt phu nhân Léonore. Léonore đã trải qua một đêm ghê gớm. Điều tiết lộ cuối cùng của thân phụ nàng và vai trò chính xác của Altieri trong việc bắt giữ Roland đã làm xáo trộn nỗi đau đớn và biến nó thành ra một sự giận dữ ghê gớm. ... *** Michel Zévaco (Sinh tại Ajaccio ngày 01/02/1860, mất tại Eaubonne ngày 08/08/1918) là nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn người Pháp. Ông từng đi tù 6 tháng vì tham gia các hoạt động chống chính phủ. Michel Zévaco là một nhà báo, tiểu thuyết gia, nhà xuất bản, đạo diễn phim người Pháp, và nhà hoạt động chống giáo sĩ cũng như vô chính phủ. Michel Zevaco thành lập tạp chí hàng tuần vô chính phủ Gueux vào ngày 27 tháng 3 năm 1892. Một tháng sau, ông bị bỏ tù 6 tháng và bị phạt vì ca ngợi Pini và Ravachol. Một số tác phẩm nổi tiếng của ông: - Les Pardaillan - Le Capitan - Borgia (Hoa Anh Thảo - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1988) - Buridan - L'Héroïne - l'Hôtel Saint Pol - Nostradamus (Cuộc đời ly kỳ của Nostradamus, NXB Văn Học 1995)  - Les Amants de Venise (Đôi nhân tình thành Venise - 2 tập, NXB Tổng Hợp An Giang 1990, NXB Hội Nhà Văn 2004) Mời các bạn đón đọc Đôi Tình Nhân Thành Venise của tác giả Michel Zévaco.