Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Thừa Thứ 14

Thời gian mười bốn ngày đã trôi qua quá nửa, những câu chuyện cũng ngày một đặc sắc. Sự trùng hợp kì lạ giữa những câu chuyện từ đâu mà có? Là "đạo văn" hay ẩn giấu một bí mật gì? Cậu bé lao ra từ nghĩa địa hoang vắng bị một vụ tai nạn xóa sạch mọi kí ức. Không biết chữ, không có cảm giác đau, sức khỏe phi thường, sở thích ăn thịt sống... cậu ta rốt cục là người hay ma quỷ? Trò chơi tử thần vẫn tiếp tục, điều gì đang đợi những "người chơi"? "Người tổ chức" sẽ tung thêm những "chiêu" gì mới? Mục đích của kẻ đó là gì? Bí ẩn nào sắp được hé lộ? Nếu ai đó trước khi đọc hết bộ sách này mà suy luận ra “người tổ chức” là ai và phân tích được nguyên nhân, thì chắc chắn chỉ số IQ phải trên 150. Hãy nhớ rằng, kể từ khi lật mở trang sách đầu tiên, bạn đã rơi vào vòng xoáy của chính trò chơi này. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14 Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam.   Bộ 1/14 gồm có: Trò Chơi Tử Thần Khách Trọ Và Xác Sống Lời Cảnh Báo Người Thừa Thứ 14 14 Ngày Kinh Hoàng *** P hía sau anh, một bóng đen đáng sợ đang từ từ đến gần. Mọi sự chú ý của anh lúc này đều đổ dồn vào xấp giấy kia, anh không mảy may phát hiện thấy gì. Bóng đen đó càng lúc càng áp sát, chỉ đến khi đổ bóng lên sàn nhà trước mặt, anh mới giật mình, quay ngoắt đầu lại. Là Sa Gia. Cô đang cúi người đứng ngay phía sau Nam Thiên, trợn trừng hai mắt, nhìn anh chằm chằm. Nam Thiên sợ đến mức lưng toát mồ hôi lạnh. Anh nuốt nước bọt, hỏi, “Sao cô vào đây?” “Tôi cũng muốn hỏi anh thế.” Sa Gia nói. Đúng rồi, mình đang ở trong phòng Từ Văn - bấy giờ Nam Thiên mới ý thức được. Anh liếc nhìn xác Từ Văn cạnh bên. May là một góc của chiếc chăn đơn đã che kín khuôn mặt xác chết. Anh định thần, quay sang dối diện Sa Gia, hỏi, “Vừa rồi cô làm gì đằng sau tôi vậy?” “Cửa phòng này không khóa. Tôi vào, thấy anh quay lưng lại phía mình, ngồi xổm dưới sàn nhà xem xét gì đó. Vì tò mò, tôi đã rón rén tới phía sau, định ngó xem anh đang nhìn gì.” “Sao cô lại vào phòng Từ Văn?” Sa Gia đứng dậy, cố tránh nhìn vào cái xác của Từ Văn, “Tôi đâu muốn vào đây. Thực ra tôi qua bên phòng tìm anh, thấy anh không có đó, mới nghĩ có thể anh ở bên này.” “Cô tìm tôi có việc gì?” Sa Gia thoáng trầm ngâm rồi mới nói, “Tôi sợ, định tìm anh nói chuyện một lát. Tôi muốn anh... ở cùng với tôi.” Nam Thiên suy xét, trước đó anh cảm thấy hình như Sa Gia rất có thiện cảm với mình. Thế nhưng, anh vẫn nghi hoặc. “Cô tin tôi vậy sao? Cô không sợ tôi chính là hắn - ‘người tổ chức’?” Sa Gia mím môi, im lặng hồi lâu, “Nói thật, tôi không tài nào đoán ra ai là hắn. Tôi thấy không ai giống, nhưng có lúc lại thấy ai cũng giống.” Cô ngẩng đầu, nhìn thẳng Nam Thiên, “Kể cả anh, tôi cũng không dám khẳng định. Vậy nhưng... anh có là hắn, thì tôi cũng biết rồi.” Nam Thiên sững sờ nhìn Sa Gia, “Vì sao?” Sa Gia nhìn Nam Thiên với ánh mắt dịu dàng, tình cảm, “Bị mời tới đây và tham gia trò chơi sống còn này, mỗi ngày tôi đều sống trong nghi kị sợ hãi. Tôi cảm thấy, đại đa số những người ở đây chỉ lo nghĩ cho sự an toàn và lợi ích của bản thân, với người khác lại có ý phòng bị và thù địch. Chỉ anh là khiến tôi cảm thấy có đôi phần ấm áp, ở cạnh anh tôi thậm chí còn thấy an toàn. Trực giác mách bảo tôi, anh là người đáng tin tưởng và trông cậy.” Nam Thiên nhớ lại, lúc mới tới nơi tách biệt này, mười bốn người họ chuẩn bị ngồi vào mười bốn chiếc ghế ở đại sảnh, biểu hiện của Sa Gia rõ ràng là có phần lo lắng bất an. Khi đó, trong anh đã có một thôi thúc được bảo vệ người con gái này, nên đã kéo tay cô, bảo cô ngồi ở ghế của mình. Có lẽ chính hành động nhỏ này đã khiến cô cảm động? Dẫu thế nào thì ở nơi đặc biệt này, giành được sự tin tưởng của ai đó đều là chuyện rất đáng mừng. Nam Thiên cảm kích nhìn Sa Gia, “Cảm ơn cô đã tin tôi.” “Hi vọng anh cũng có thể tin tưởng tôi.” Sa Gia nhìn thẳng vào mắt Nam Thiên nói, “Ở đây, tôi không hi vọng tất cả mọi người đều đối xử chân tình với mình, chỉ cần chúng ta tin tưởng nhau là tôi mãn nguyện rồi.” Nam Thiên có thể cảm nhận thấy sự chân thành từ câu nói của Sa Gia. Anh cũng như Sa Gia, không cách gì đoán biết được người trước mặt mình có phải là “người tổ chức” hay không. Nhưng, anh tình nguyện đánh cược, kết đồng minh với cô gái dịu dàng đáng yêu này hẳn sẽ an toàn và đáng tin hơn là với Hoang Mộc Chu mưu sâu kế hiểm hay Chris thần bí khó đoán. Ít nhất, anh có thể nhận ra tình cảm của Sa Gia đối với mình, là chân thành và không hại anh. Nghĩ tới đây, Nam Thiên nói, “Được, hi vọng chúng ta có thể hợp tác, đối đãi thật lòng thật dạ, cùng nhau tìm ra hắn. Sáu ngày sau, chúng ta cần phải sống để rời khỏi nơi này!” “Ừm!” Sa Gia lộ vẻ tán thành. Đã chọn tin tưởng Sa Gia, Nam Thiên quyết định nói cho cô nghe phát hiện và phân tích về hoàn cảnh hiện giờ của mình. Anh nói, “Cô có biết vì sao tôi đến phòng của Từ Văn không?” Sa Gia bất giác liếc mắt nhìn xác Từ Văn, rùng mình, “Tôi đoán, anh muốn xem qua xác Từ Văn, xem liệu có phát hiện thêm gì không.” “Không phải, tôi vào đây không phải để xem xét thi thể anh ấy, mà là để xem xét căn phòng này.” Sa Gia trừng lớn mắt, “Phòng anh ấy có gì đặc biệt à?” “Hôm qua (chính xác là ngày trước nữa, Nam Thiên không nhận ra giờ đã quá 0 giờ), và cũng chính là ngày Thiên Thu kể chuyện. Tôi tới phòng này tìm anh ấy. Tôi dự định nói chuyện với từng người theo số thứ tự, hi vọng thăm dò được một số thông tin, hay tìm ra gợi ý gì đó.” “Anh định chủ động tấn công, tìm ra hắn thông qua cách tiếp xúc với mọi người?” Sa Gia hỏi. “Đúng vậy. Tôi nghĩ mình không thể ngồi yên chờ chết. Tôi buộc phải thử tìm ra cách vạch mặt hắn trong mấy ngày còn lại!” “Đúng, ta không thể thụ động chờ chết.” Sa Gia tán thành nói, ngẫm nghĩ một hồi, cô lại lộ vẻ lo lắng, “Thế nhưng nếu làm vậy, liệu anh có thu hút sự chú ý của hắn, khiến bản thân rơi vào nguy hiểm không?” “Tôi nghĩ chắc không đâu.” “Tại sao?” “Vì tôi vẫn chưa kể chuyện.” Sa Gia sững lại, “Là ý gì?” “Cô thử nghĩ xem, hắn hao tổn tâm sức ‘mời’ chúng ta đến đây, chính bởi muốn mười bốn người chúng ta ‘chơi’ trò này cùng nhau, như vậy trò chơi hắn thiết kế mới thành công! Nếu hắn giết ai đó, trước khi anh ta kể câu chuyện của mình chỉ vì vài hành động của người này đã khiến hắn tức giận, trò chơi này sẽ không còn hoàn chỉnh với hắn nữa. Tôi đoán, với kẻ cố chấp như hắn, thích sự kích thích và thách thức kiểu dạng này, đây nhất định không phải kết quả mà hắn muốn. Thế nên, tôi có thể lợi dụng điểm này để tiến hành điều tra!” Nam Thiên nhấn mạnh, “Và giờ xem ra, tôi là người thích hợp làm chuyện này nhất rồi.” “Tại sao?” “Vì tôi là người thứ mười bốn, người kể chuyện cuối cùng.” Sa Gia khẽ há miệng. “Nói tiếp chuyện ban nãy, hôm qua lúc tôi tới tìm Từ Văn, quả thực anh ấy đã cho tôi biết một vài thông tin cực kì quan trọng. Anh ấy nói, phòng anh ấy có ma quỷ quấy nhiễu.” “Cái gì, trong phòng này... có ma quỷ quấy nhiễu ư?”, Sa Gia lộ vẻ kinh hãi, cô ôm chặt cánh tay, rùng mình một cái, “Thật không?” Nam Thiên lắc đầu nói, “Tôi nghĩ, chuyện ma quỷ quấy nhiễu là do ảo giác của anh ấy. Nhưng trong căn phòng này nhất định đã xảy ra chuyện gì đó khác thường! Anh ấy nói, thỉnh thoảng vào buổi tối anh ấy nhìn thấy một bóng người đen thui xuất hiện trong phòng, đôi khi còn nghe thấy cả những âm thanh kì lạ, và tất cả những điều này đều giống với các tình tiết anh ấy kể trong Mối nghi ngờ bóng ma!” Sa Gia bị dọa sợ đến mức mặt mày trắng bệch, hãi hùng tột độ. Nam Thiên tiếp tục nói, “Nghe anh ấy nói vậy, tôi nhận ra căn phòng này có vấn đề nên tôi nghĩ ra chủ ý là đổi phòng của tôi và anh ấy cho nhau. Nhưng Từ Văn lại từ chối. Có lẽ anh ấy không thật sự tin tôi.” Nam Thiên thở dài. Sa Gia nói, “Tôi nhớ anh bảo... trước lúc chết, Từ Văn đã sang phòng anh tìm anh, nhưng anh ấy tìm anh có việc gì?” Nam Thiên thoáng nghĩ, “Đúng rồi! Lúc sang gõ cửa phòng tôi, anh ấy vô cùng khiếp sợ, còn nói mấy lời gì đó rất khó hiểu. Anh ấy nói, buổi tối tôi đã qua phòng tìm và ngủ cùng anh ấy, chính là ở đây.” Sau vài giây hồi tưởng, Nam Thiên tiếp tục, “Từ Văn bảo tôi ngủ trên giường, còn anh ấy nằm bên dưới. Lúc nửa đêm, Từ Văn thấy dưới gầm giường có một đôi mắt đang nhìn mình chằm chằm. Anh ấy sợ điếng người, bò dậy thì phát hiện ra tôi không còn ở trên giường, mới hoảng hốt tới tìm tôi...” Nam Thiên nhìn Sa Gia, “Cô biết không? Tôi hoàn toàn bị những điều anh ấy nói làm cho hồ đồ! Bởi vốn dĩ tôi không đi tìm anh ấy, đừng nói là ngủ chung phòng. Tôi chỉ có thể cho là anh ấy gặp ác mộng. Sau đó, tôi quyết định qua phòng anh ấy xem thử thì chẳng phát hiện thấy gì. Lúc quay lại phòng mình, tôi phát hiện anh ấy đã chết ở phòng tôi! Tiếp đến Hạ Hầu Thân xuất hiện ở cửa phòng. Rồi mấy phút sau, mấy người bọn cô, Long Mã, Bạch Kình, và Hoang Mộc Chu lần theo tiếng động chạy tới. Mọi chuyện là vậy! Sa Gia sợ sệt co người lại, “Trước khi chết, Từ Văn đã xảy ra vài điều kì lạ, quả thực là...” “Quả thực quá lạ lùng, đúng không?” Nam Thiên nói, “Nghĩ mà xem, anh ấy gặp ác mộng, rồi đến tìm tôi, tiếp đó tôi sang phòng anh ấy, bảo anh ấy ở lại phòng tôi và trong mấy phút ngắn ngủi, hung thủ đã xuất hiện như bóng ma, giết chết anh ấy rồi biến mất, quay trở lại phòng mình. Tất cả những chuyện này đúng như vở kịch được sắp xếp bố trí vô cùng khéo léo! Nếu cô tin tôi không phải hung thủ giết Từ Văn thì mức độ li kì của vụ án này quả đúng là phải khiến người ta thán phục!” Nam Thiên bắt đầu trở nên kích động nói, “Như thể hung thủ biết Từ Văn sẽ gặp ác mộng, rồi qua tìm tôi. Đồng thời còn đoán được tôi sẽ ra khỏi phòng mình! Nếu không, sao hắn biết sẽ chỉ có mình Từ Văn trong phòng tôi? Và điểm mấu chốt, nếu mục đích của hắn là giết Từ Văn, vậy tại sao không ra tay trong phòng Từ Văn mà phải dẫn dụ anh ấy sang phòng tôi rồi mới hạ thủ?” Sa Gia ngẫm nghĩ, “Có lẽ, hắn muốn vu oan giá họa cho anh. Hoặc...” Thấy Sa Gia ngừng lại không nói tiếp, Nam Thiên hỏi, “Hoặc sao...?” Sa Gia do dự nói, “Mục tiêu hắn muốn giết liệu có phải là anh chăng?” Nam Thiên chợt thấy rùng mình, “Ý cô là, do sai sót ngẫu nhiên, hắn đã giết nhầm người?” Nói xong, anh lập tức lắc đầu, “Không, tôi không cảm thấy thế. Một kẻ cẩn thận như hắn sao có thể phạm phải kiểu sai lầm như vậy? Hơn nữa, tôi cũng không cho rằng Từ Văn gặp ác mộng, mà là một sự trùng hợp. Bên trong chuyện này nhất định có uẩn khúc.” Sa Gia đột nhiên thốt ra một câu đáng kinh ngạc, “Sao anh biết tên hung thủ này chắc chắn là hắn - ‘người tổ chức’?” Nam Thiên ngây ra, “Ý gì chứ? Không phải hắn, những người còn lại có động cơ gì mà đi giết người?” Sa Gia đáp, “Động cơ thì đương nhiên là có rồi, bớt một người, bớt một kẻ cạnh tranh rồi.” Nam Thiên hít vào một hơi lạnh. Điều trước kia anh hoàn toàn chưa nghĩ đến. Anh bất giác thấy khâm phục cách thức tư duy vượt ra khỏi lề thói thông thường của Sa Gia. Đúng thực là... khả năng này cũng có thể có. Vậy nhưng, anh nghi ngờ hỏi, “Nếu vậy, sao hung thủ lại muốn giết tôi?” Sa Gia nhíu mày phân tích, “Có hai khả năng. Một là, hắn muốn thủ tiêu người có thể uy hiếp hắn giành được chiến thắng; Hai là, dựa trên tiền đề hung thủ không phải là ‘người tổ chức’, cho nên người hắn ta muốn giết chính là kẻ hắn ta tưởng là ‘người tổ chức’!” Nam Thiên vô cùng kinh ngạc, “Ý cô là, tên hung thủ cho rằng... tôi là ‘người tổ chức’?!” “Tôi chỉ đoán thôi.” Sa Gia nói, “Nhưng anh thử nghĩ mà xem, chỉ còn lại sáu ngày nữa. Trước khi trò chơi sống chết này kết thúc, người nghĩ đến cách chủ động tấn công chắc chắn không chỉ mỗi mình anh.” Nam Thiên bất ngờ nhận ra phân tích của Sa Gia đúng là một nhắc nhở vô cùng quan trọng. Anh ngạc nhiên nói, “Tôi chủ động tấn công, chỉ vì muốn âm thầm điều tra mà thôi. Lẽ nào cách thức chủ động tấn công của một người nào đó là giết chết người họ nghi ngờ? Nếu đúng như vậy thì thật đáng sợ!” “Đúng thế, địch thủ của chúng ta không còn chỉ là mỗi ‘người tổ chức’ nữa.” Sa Gia lo lắng nói. Trong môi trường bị giam nhốt, con người thường nghi ngờ, sát hại lẫn nhau... Tình tiết này sao lại khiến người ta thấy quen vậy. Sa Gia thấy Nam Thiên rơi vào trầm tư, hỏi, “Anh đang nghĩ gì?” Nam Thiên ngẩn ra nhìn Sa Gia, “Tôi nghĩ, sao tình huống chúng ta trải nghiệm hiện giờ lại giống câu chuyện Cuộc tấn công của căn bệnh lạ của Uất Trì Thành đã kể đến vậy?” Sa Gia lặng đi, “Ý anh là...” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Nghĩ kĩ lại, lúc Uất Trì Thành chết, chúng ta đã kiểm tra thi thể, rút ra kết luận về thời gian tử vong, nhưng đã bỏ qua một vấn đề quan trọng, cái xác đó có chắc chắn là của Uất Trì Thành không? Liệu rằng, hung thủ có lợi dụng điểm mù về mặt tâm lý của chúng ta, khi phát hiện thi thể thấy trong phòng Uất Trì Thành thì nhất định là của Uất Trì Thành, mà dẫn chúng ta đi sai hướng không?” Sa Gia há hốc miệng, mày nhíu chặt lại. Tiếp đó Nam Thiên lại nói, “Sau đấy cũng không ai vào lại phòng Uất Trì Thành. Mãi đến sau khi Long Mã kể xong Dự luật xác sống, chúng ta mới nghĩ đến việc vào căn phòng đó xem xét lại. Nhưng lúc này, xác anh ấy đã biến mất một cách bí hiểm. Sa Gia! Cô không cho rằng trong chuyện này ẩn chứa bí mật sao?” Sắc mặt Sa Gia lại trắng bệch, “Anh nghi ngờ... Uất Trì Thành... thực ra vẫn chưa chết? Thi thể chúng ta nhìn thấy... là giả mạo?” “Không loại trừ khả năng này.” Nam Thiên nghiêm mặt nói, “Nếu đúng vậy, thì ‘người tổ chức’ chính là Uất Trì Thành, người ’chết’ đầu tiên mà tất cả chúng ta hoàn toàn chưa nghĩ tới!” “Còn anh ta ẩn mình trong bóng tối, trong căn phòng bí mật mà cô nhắc tới lúc trước, âm thầm ra ngoài hoạt động đồng thời thao túng trò chơi này...” Sa Gia bất ngờ kêu lên đầy sửng sốt, “A! Chúng ta đã tìm ra đáp án rồi?!” Nam Thiên chậm rãi lắc đầu, “Đừng có kết luận bậy bạ, chúng ta không có chứng cứ để chứng minh cho suy đoán này. Hơn nữa, tình hình hiện giờ lại vô cùng phức tạp. Còn một số chuyện càng khó giải thích hơn nữa.” “Là chuyện gì cơ?” Nam Thiên cẩn thận nhặt xấp giấy dưới đất mà trước đó anh đã tìm thấy ở chỗ chân giường của Từ Văn lên, đưa cho Sa Gia, “Vừa nãy vào phòng này xem xét, tôi phát hiện thấy thứ này ở dưới gầm giường, cô xem đi.” Sa Gia đón nhận, “Bản nháp kiểu này thì trong phòng tôi cũng có.” “Đúng, trong phòng ai trong số chúng ta cũng đều có. Cô xem qua nội dung đi.” Sa Gia lật xem từng trang. Đến trang thứ sáu, cô đột nhiên trợn trừng mắt, bưng chặt miệng, đương nhiên Nam Thiên biết là bởi tại sao, vì trên trang đó ghi: Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư ’Khách đến từ phần mộ’. “Trời ạ, chuyện này là thế nào?” Sa Gia sững sờ hỏi, “Đây không phải câu chuyện Bạch Kình kể à? Sao bản thảo ghi ý tưởng mới của câu chuyện này lại ở trong phòng Từ Văn?” “Hơn thế, tôi còn có thể cho cô biết, đây chính là bút tích của Từ Văn.” Nam Thiên nói, “Sáng hôm qua tôi đến tìm anh ấy thì đã nhìn thấy xấp giấy này. Lúc đó tôi không lật xem phía dưới, mới đọc được dàn ý câu chuyện Mối nghi ngờ bóng ma. Tôi còn khen chữ Từ Văn đẹp. Và anh ấy cũng bảo tôi, anh ấy là người bảo thủ, khi sáng tác luôn luôn dùng giấy bút. Điều đó giúp tôi chứng minh, nội dung xấp giấy này do anh ấy chính tay viết ra.“ “Trời ơi...”, Sa Gia hãi hùng nói, “Từ Văn bị giết trước khi Bạch Kình kể chuyện. Bạch Kình có thể dễ dàng mang câu chuyện này ra kể mà chẳng ngại ngùng gì. Lẽ nào người giết Từ Văn là Bạch Kình? Còn mục đích của cậu ta là giành đoạt được câu chuyện này?” Nam Thiên nhíu chặt mày, “Tôi cũng đã nghĩ qua khả năng này, nhưng có hai điểm có phần không hợp logic. Thứ nhất, Từ Văn là người kể chuyện vào tối thứ hai, đã kể xong câu chuyện của mình rồi, tại sao anh ta còn sáng tác một câu chuyện mới? Đồng thời tại sao bản thảo ghi chép câu chuyện này lại bị Bạch Kình phát hiện ra?” Ngừng lại một lát, như để cho Sa Gia có thời gian nghiền ngẫm, Nam Thiên tiếp tục nói, “Điểm không hợp logic thứ hai là, nếu Bạch Kình lén lấy được ý tưởng câu chuyện của Từ Văn, đồng thời vì chuyện này mà giết anh ấy, vậy sao còn để xấp giấy này lại trong phòng? Cần biết đây là bằng chứng chí mạng! Có sơ suất hơn đi nữa, không thể ngay điều này cậu ta cũng bỏ qua chứ nhỉ?” “Đúng vậy, điều này rất không hợp lẽ thường...” Sa Gia vùi đầu ngẫm nghĩ, “Lẽ nào, có người cố tình giá họa cho Bạch Kình, đồng thời tạo chứng cứ vi phạm giả cho cậu ấy?” “Vấn đề là, làm cách nào lại làm được chuyện này?” Nam Thiên lúng túng nói, “Cứ coi như ai đó có khả năng bắt chước bút tích của Từ Văn, nhưng người đó sao có thể viết ra được những nội dung này trước khi Bạch Kình kể chuyện?” Hai người cùng im lặng, đắm chìm trong dòng suy nghĩ. Độ chừng một phút sau, Nam Thiên nhìn thấy người Sa Gia hơi run rẩy, mắt trừng to sợ hãi, liền vội vàng hỏi, “Sao thế?” “Anh... có nghe thấy âm thanh gì không?” Sa Gia xích lại gần Nam Thiên, mặt lộ vẻ kinh hoàng, ngó trái nhìn phải. “Âm thanh gì?” Nam Thiên vừa tập trung suy nghĩ, không nghe thấy gì. “Hình như tôi nghe thấy trong phòng này có tiếng nói thì thầm... như thể ai đó đang nói chuyện.” Sa Gia sợ hãi ôm chặt lấy Nam Thiên. “Tiếng nói thì thầm? Trong phòng này hiện chỉ có hai người chúng ta mà!?” Nam Thiên cảnh giác nhìn ngó xung quanh, thần kinh căng ra. Hai người họ nín thở, ngay cả hít thở mạnh cũng không dám. Trong phòng dường như có thể nghe thấy nhịp tim đập gấp gáp của bọn họ. Nhưng đã mấy phút trôi qua mà vẫn không nghe thấy âm thanh kì lạ nào. Nam Thiên hỏi Sa Gia, “Vừa nãy có thật là cô nghe thấy tiếng người đang nói chuyện không? Không nghe nhầm chứ?” Sa Gia có phần không chắc chắn, “Tôi... chắc không nghe nhầm đâu, không thể xuất hiện ảo thính một cách kì lạ như vậy chứ nhỉ?” Ngẩn ra mấy giây, lòng Nam Thiên đột nhiên giật thột, Từ Văn nói, lúc ở trong căn phòng này, thỉnh thoảng anh ấy cũng nghe thấy một vài tiếng động kì lạ. Lẽ nào, thứ vừa nãy Sa Gia nghe thấy chính là tiếng động ma quỷ gây ra? Sa Gia rõ ràng cũng đã nghĩ tới điểm này, cô nhào vào lòng Nam Thiên, ôm chặt anh, người run lẩy bẩy. Điều mình chờ đợi đã lâu và rất muốn tìm ra, là sự kì lạ trong phòng Từ Văn, cuối cùng đã xuất hiện rồi? Nam Thiên căng thẳng suy nghĩ. Vậy nhưng, sao âm thanh này chỉ xuất hiện chốc lát, rồi im bặt? Lẽ nào, Nam Thiên bất ngờ nhớ đến một khả năng, âm thanh này là do ma quỷ tạo ra, bởi phát hiện thấy trong phòng lúc này có hai người, nên mới bỗng dưng nín thinh? Nghĩ đến đây, Nam Thiên bóp chặt vai Sa Gia, gấp gáp hỏi, “Sa Gia, vừa rồi cô có nghe rõ tiếng nói đó không, là nói về cái gì...” Câu này còn chưa nói hết, trong đại sảnh ngoài phòng, bỗng nhiên vang lên một giọng nói đáng sợ đã lâu ngày không thấy, đó chính là giọng nói của hắn - “người tổ chức”. Giọng nói được xử lý qua bởi thiết bị biến đổi giọng nói, phát ra từ bốn thùng loa đặt ở trần phòng: “Các vị, xin lỗi đã đánh thức mọi người khỏi giấc ngủ. Sở dĩ lúc này tôi làm phiền các vị là bởi hiện giờ, chứng cứ ‘phạm quy’ mới đã được hai người trong số chúng ta phát hiện ra. Hai người họ, hiện đang ở trong căn phòng của Từ Văn, người kể chuyện số 2. Nếu có hứng thú, các vị đến phòng này xem qua trước khi bọn họ rời đi. Được rồi, tôi chỉ nhắc một câu như vậy thôi, tạm biệt.” Lạy Chúa, Nam Thiên kinh ngạc tột cùng. Anh và Sa Gia trợn tròn mắt, căng thẳng nhìn nhau - Chuyện này là thế nào? Nhất cử nhất động của chúng ta đều nằm trong tầm mắt của hắn sao? “Chúng ta... làm thế nào bây giờ?” Sa Gia bất lực nhìn Nam Thiên, “Bọn họ chắc chắn sẽ nhanh chóng đến đây. Ta cứ ở đây... đợi à?” Nam Thiên cố gắng bình ổn tâm trạng, để khiến mình bình tĩnh lại, “Ừ, chúng ta không làm việc gì trái lương tâm, không cần phải trốn tránh.” Nam Thiên bước lên trước hai bước, dứt khoát mở cửa phòng, chào đón những người sắp đến với tâm trạng và tư thế tự nhiên thoải mái. Nửa phút sau, người đầu tiên vội vàng tới trước cửa phòng, chính là Long Mã. Trong tất cả mọi người, ông ta hiện giờ gần như là người quan tâm nhất đến việc ai là thủ phạm. Thấy Nam Thiên và Sa Gia ở trong phòng Từ Văn, ông ta ngạc nhiên nói, “Là hai người sao?” Nam Thiên và Sa Gia không tiếp lời. Họ đứng giữa phòng, nhìn mọi người, từng người từng người xuất hiện trước mặt mình, nhìn những ánh mắt nghi hoặc. Mấy phút sau, mọi người gần như đã tập trung đông đủ. Hoang Mộc Chu tới trước mặt Nam Thiên và Sa Gia, ngẩng đầu, dùng ánh mắt dò xét đánh giá họ. Ông ta lại nheo mắt nhìn thi thể Từ Văn nằm dưới sàn nhà, hỏi, “Hai người sao lại ở đây?” Nam Thiên quyết định nói thật, “Vốn dĩ tôi định lặng lẽ đến phòng Từ Văn một mình, xem xét căn phòng của anh ấy. Sa Gia qua phòng tôi tìm tôi, phát hiện tôi không có đấy, đoán tôi ở đây nên đã qua đây tìm được tôi.” Hoang Mộc Chu nheo mắt nói, “Xem xét căn phòng này? Sao? Phòng Từ Văn có gì không ổn ư?” “Tôi nghi vậy.” Nam Thiên bình tĩnh trả lời. “Vậy anh đã phát hiện thấy gì?” Nam Thiên đưa xấp giấy đang cầm trong tay ra, “Đây là thứ tôi tìm thấy dưới gầm giường Từ Văn ban nãy, anh xem qua đi.” Hoang Mộc Chu cầm lấy xấp giấy, những người khác cũng xúm lại xung quanh. Hoang Mộc Chu thấy trên trang đầu tiên đề bản tóm tắt nội dung Mối nghi ngờ bóng ma liền hỏi, “Đây là gì? Dàn ý câu chuyện của Từ Văn sao?” “Đúng. Anh cứ đọc tiếp đi.” Nam Thiên nói. Hoang Mộc Chu lật giở mấy trang sau, giở đến bản tóm tắt của câu chuyện Khách đến từ phần mộ, ông ta cùng những người bên cạnh đến trợn to mắt. “Ý tưởng mới ngày 28 tháng Tư Khách đến từ phần mộ...”, Thiên Thu kinh ngạc há hốc miệng, đồng thời nhìn về phía Bạch Kình, người kể câu chuyện này, “chuyện này là thế nào? Đây chẳng phải là câu chuyện cậu mới kể mấy tiếng trước (ngày 29 tháng Tư) sao? Sao lại trở thành câu chuyện được Từ Văn cấu tứ vào ngày 28 tháng Tư?” Bạch Kình lúc này trợn mắt líu lưỡi, toát mồ hôi lạnh, cậu ta thẫn thờ nhìn chằm chằm vào bản thảo trên tay Hoang Mộc Chu, như thể bị kinh động đến mức không thể thốt thành lời. Hồi lâu sau, cậu ta tức tối lồng lộn gào lên, “Đây là... vu cáo hãm hại và đổ tội oan! Câu chuyện này, một trăm phần trăm là do tôi nghĩ ra!” Mọi người đều không nói gì. Sự thật bày ra trước mắt, tất cả mọi người đều không dám khẳng định Bạch Kình lúc này liệu có đang cố gắng giảo biện cho mình hay không. Bạch Kình cảm giác rõ ràng thấy sự hoài nghi của mọi người đối với mình. Cậu ta hoàn toàn đánh mất khả năng phán đoán sắc bén, quay người hầm hầm nhìn Chris nói, “Chris! Lúc trước cậu cố tình gây khó dễ, gượng ép ám chỉ câu chuyện của tôi là sao chép, khiến mọi người nảy sinh nghi ngờ vô căn cứ về tôi. Giờ, còn làm ra cái loại ‘chứng cứ’ này nữa! Muốn vu oan giá họa cho tôi, đúng không!?” Mời các bạn đón đọc Người Thừa Thứ 14 của tác giả Ninh Hàng Nhất.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Báo Thù - Barry Eisler
Báo thù là cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ 2 trong series 7 tập về John Rain, một cựu quân nhân mang hai dòng máu Nhật  - Mỹ hành nghề sát thủ tự do. Trong tập đầu tiên của bộ sách này, Sát Thủ Tokyo, John Rain đã trừ khử được Holtzer - giám đốc phân cục CIA tại Tokyo. Những tưởng cuộc sống yên bình đã chọn anh ở xứ Osaka tươi đẹp nhưng không, một lần nữa anh phải tái xuất để thực hiện nhiệm vụ cuối cùng: tìm ra và loại trừ một tên sát thủ máu lạnh, không hề biết thương xót và hối hận. Hành tung của hắn có liên quan tới nền chính trị Nhật, đặc biệt người bạn thân của anh là Harry cũng bị hắn theo dõi. Quyết tâm dấn thân vào nhiệm vụ cuối để bảo vệ người bạn của mình đồng nghĩa với việc Rain đang đánh đổi mạng sống của mình giữa vòng kiềm tỏa của một bên là giới Yakuza khát máu, một bên là những âm mưu trả thù của CIA. Liệu rằng anh sẽ phải làm gì để bảo vệ chính mình? *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Đây là quyển sách tiếp theo của cuốn " Sát thủ Tokyo" , cách kể của Barry Eisler có gì đó khá lôi cuốn người đọc. Nhưng có thất một chút thì ban đầu cuốn sách vì kể hơi dài dòng. Phần này nói về cuộc sách của Rain sau khi giết Holtzez - giám đốc phân cục của CIA, và cũng thật tiếc cho anh chàng Harry tài giỏi vì một chút nông nỗi mà phải chết, cũng từ lúc đó chuyện càng trở nên hấp dẫn hơn có thêm nhiều trận đấu nảy lửa, kịch tính. Không biết có thêm tập mới của bộ series này không nữa???   Mời các bạn đón đọc Báo Thù của tác giả Barry Eisler.
Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông
Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.
Ác Quỷ Thành Phố Trắng
“Ác quỷ thành phố trắng” là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất của tác giả Erik Larson, và được tờ The New York Times bình chọn là cuốn sách best seller. Năm 2004, cuốn sách nhận giải thưởng Edgar cho hạng mục Tác phẩm về tội phạm có thật xuất sắc nhất.  Cuốn sách thuật lại hành trình xây dựng Hội chợ thế giới của nhóm kiến trúc sư tài hoa ở Chicago sau khi thành phố này giành quyền đăng cai tổ chức hội chợ. Thành phố Chicago nhanh chóng thành lập một công ty chính thức mang tên là: “Công ty hội chợ thế giới Hoa Kì”, nhằm cung cấp tài chính và xây dựng. Và nhà thiết kễ chính là Burnham và Root, được yêu cầu phải xây dựng gần như cả một thành phố và vượt lên trên sự tuyệt vời của hội chợ Paris, gánh nặng đè lên vai, việc thất bại là không thể vì nó sẽ ảnh hưởng đến danh dự và tổn hại của quốc gia. Quá trình xây dựng được bắt đầu, nhưng không ai ngờ rằng chỉ cách khu hội chợ quy mô và hấp dẫn nhất thế giới vào thời kì ấy chỉ vài bước chân, tên sát nhân hàng loạt đã xây dựng một khách sạn được trang bị bàn mổ, lò thiêu và những thùng axit. Cả thành phố hối hả với hội chợ mà “bỏ lỡ” kẻ sát nhân tàn ác với những thủ đoạn tinh vi. Thời gian diễn ra hội chợ hắn đã giết chết hàng chục người, đa số là phụ nữ trẻ. “Tôi sinh ra với ác quỷ trong mình. Tôi không thể thay đổi sự thật rằng tôi là kẻ sát nhân, giống như các nhà thơ biến cảm hứng thành vần điệu”.Vậy hắn là ai mà giết chóc nhiều như vậy nhưng không bị phát hiện? *** Erik Larson là tác giả nổi tiếng với dòng truyện phi hư cấu về lịch sử và trong đó không thể không nhắc tới cuốn “Sống sót ở Berlin”. Cuốn sách nói về lịch sử nước Đức ngày càng chìm sâu trong bóng tối sau thời khắc Trùm Phát xít Adolf Hitler trở thành Thủ tướng của Đế chế Đức vào năm 1933. Kể từ đó trở đi, nước Đức xảy ra bạo lực liên miên và nạn phân biệt chủng tộc, đặc biệt đối với người Do Thái, Hitler quan ngại với người Do Thái bởi chính sự tài năng của nhóm người đó sẽ làm ảnh hưởng, cản trở đối với quyền lực của hắn. Đúng vào thời điểm đó, ông William E.Dodd – một giáo sư lịch sử được cử sang Berlin làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Đức. Ông cùng cô con gái – Martha sớm được trải nghiệm một nước Đức kỳ lạ, tươi đẹp, nhưng cũng đầy rẫy hiểm nguy bủa vây. Trong khi đó, Hitler lại ngày càng tỏ ra thiện chí và ưa chuộng hòa bình. Nhưng liệu mọi người nghe thấy, nhìn thấy và ngửi thấy gì? Các nhà ngoại giao và du khách giải thích những sự kiện diễn ra xung quanh họ như thế nào? Và có ai thấy được bộ mặt thật của Trùm Phát xít Hitler và ngăn hắn lại khi quá muộn???... *** CÁI ÁC ẨN HIỆN (GHI CHÚ) Tại Chicago vào cuối thế kỷ XIX, giữa làn khói công nghiệp và tiếng còi tàu vang vọng, xuất hiện hai người đàn ông, cả hai đều đẹp trai, mắt xanh và đều lão luyện một cách bất thường trong các kĩ năng của họ. Mỗi người là hiện thân của một yếu tố trong động lực vĩ đại đặc trưng cho sự hối hả tiến vào thế kỷ XX của nước Mỹ. Một người là kiến trúc sư, đã xây dựng rất nhiều những công trình quan trọng bậc nhất của Mỹ, trong đó có tòa nhà Flatiron tại New York và Nhà Ga Trung Tâm của Washington, D.C.; người còn lại là một tên sát nhân, một trong những kẻ khát máu nhất trong lịch sử và là điềm báo của một hình mẫu Mỹ: Kẻ giết người hàng loạt tại đô thị. Mặc dù cả hai không bao giờ gặp nhau, ít nhất là một cách chính thức, số phận của họ lại được liên kết bởi một sự kiện huyền diệu độc nhất, dù hiện tại không còn được nhớ đến nhiều, tuy nhiên vào thời điểm bấy giờ thì lại sở hữu một sức mạnh có khả năng làm xáo trộn gần tương đương với cuộc nội chiến. Trong những trang tiếp theo, tôi sẽ kể câu chuyện của hai người đàn ông và sự kiện này, nhưng tôi phải thông báo trước: Dù một vài sự kiện sau đây có kỳ lạ hoặc rùng rợn đến đâu chăng nữa, đây không phải là một tác phẩm hư cấu. Bất cứ điều gì nằm trong dấu ngoặc kép đều đến từ một lá thư, hồi kí, hoặc các văn bản khác. Sự việc chủ yếu diễn ra ở Chicago, nhưng tôi xin độc giả lượng thứ khi thỉnh thoảng lại đảo qua ranh giới bang khác, như khi Thám tử Geyer đau buồn nhưng kiên cường bước vào căn hầm khủng khiếp cuối cùng. Tôi cũng mong độc giả kiên nhẫn khi đọc các cuộc hành trình bên lề thường xuyên diễn ra theo yêu cầu của câu chuyện, bao gồm cả những chuyến du ngoạn vào ngành kinh doanh xác chết nhằm mục đích y tế và việc sử dụng cây phong lữ Hoàng Tử Đen trong cảnh quan của Olmsted. Phía sau làn khói, máu me và mùn đất, cuốn sách này viết về sự phù du của cuộc sống và lí do tại sao một số người chọn cách lấp đầy thời gian trên cõi đời ngắn ngủi của mình bằng việc thực hiện những điều không tưởng, trong khi những người khác tạo ra nỗi buồn đau. Cuối cùng, đây là một câu chuyện của những xung đột không thể tránh khỏi giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa Thành Phố Trắng và Thành Phố Đen. ERIK LARSON SEATTLE  Mời bạn đón đọc Ác Quỷ Thành Phố Trắng của tác giả Erik Larson.
Kẻ Cướp Cuối Cùng
David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của Kẻ Cướp Cuối Cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. *** “Kẻ cướp cuối cùng” tạo sức hút với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính của Harry Dolan, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Tác giả Harry Dolan sinh trưởng ở Rome, New York trước khi chuyển đến sống tại Ann Arbor, Michigan. Ông đã lấy chính thành phố nơi mình sinh sống làm bối cảnh chủ yếu cho series tác phẩm về nhân vật David Loogan, giúp câu chuyện trong cuốn sách thêm phần chân thực. Hiện hai cuốn sách sách trong series đã được phát hành tại Việt Nam là Vòng xoáy tội ác và mới đây nhất là Kẻ cướp cuối cùng. Cuốn cuối cùng trong series là The Last Dead Girl cũng sẽ sớm ra mắt bạn đọc Việt Nam. Kẻ cướp cuối cùng bắt đầu với việc David Loogan, biên tập viên của tạp chí trinh thám Gray Streets, tìm thấy một bản thảo bên ngoài văn phòng làm việc. Trong đó là danh sách với ba cái tên: Henry Kormoran, Sutton Bell và Terry Dawtrey. Hai người vừa bị sát hại, người còn lại ở trong tình thế ngàn cân treo sợi tóc. Cách đây 17 năm, họ bị dụ dỗ tham gia vào một kế hoạch cướp ngân hàng. Vụ cướp đổ bể và họ bị bắt. Giờ đây, cuộc sống của cả ba đã rẽ sang những hướng khác nhau, người hoàn lương, kẻ tù tội. Nhưng còn một bí mật chưa được tiết lộ: Danh tính của kẻ cướp cuối cùng, người đã chạy thoát khỏi tay cảnh sát. Cảnh sát tin rằng tập bản thảo mô tả cách thức gây án chỉ là câu chuyện hư cấu. Một người vô tội bị bắt vì tội ác mình không phạm phải. Một nhà báo đang điều tra lại vụ cướp bỗng dưng mất tích. Nhưng David cảm nhận được sự hiện diện của kẻ thủ ác và những người sẵn sàng bao che cho hắn vì lợi ích bản thân. Anh cùng nữ cảnh sát Elizabeth quyết tâm tìm ra tên sát nhân trước khi hắn ra tay lần nữa. Họ cần bảo vệ kẻ cuối cùng trong danh sách tử thần và lật tẩy danh tính kẻ cuối cùng tham gia vụ cướp năm xưa. Kẻ cướp cuối cùng vẫn duy trì được sức hút như ở Vòng xoáy tội ác, với phong cách viết sắc nét và các nhân vật cá tính, khiến độc giả bị cuốn vào câu chuyện ngay lập tức. Nhịp truyện nhanh và các âm mưu được xây dựng chặt chẽ. Câu hỏi quan trọng, và cũng là điểm mấu chốt của cả câu chuyện, là tại sao có kẻ lại muốn giết họ sau từng ấy năm, được giữ kín cho đến nửa sau của cuốn sách. Trong cuốn sách thứ hai, nhân vật David Loogan tiếp tục giữ vai trò một biên tập viên nhiều thuyết âm mưu và một thám tử nghiệp dư liều lĩnh. Giờ đây, đồng hành bên anh còn có nữ cảnh sát Elizabeth Waishkey điềm tĩnh và mạnh mẽ. Truyện dành cho Elizabeth và cô con gái thông minh của mình, Sarah, nhiều cơ hội tỏa sáng. Câu chuyện bắt đầu bằng lời tự thuật của David Loogan, sau đó được chuyển đổi góc nhìn giữa các nhân vật khác nhau, để người đọc có thể hình dung những gì đang xảy ra bên ngoài tầm ảnh hưởng của nhân vật chính. Mặc dù được tiếp xúc với tên sát nhân qua điểm nhìn của hắn ngay từ những chương đầu, độc giả vẫn khó lòng suy ra toàn bộ âm mưu phía sau. Khi một nhà báo láu cá, một thượng nghị sĩ sắp nghỉ hưu, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Callie Spencer cùng cha mình, viên cảnh sát bị bắn trong vụ cướp cách đây 17 năm, lần lượt xuất hiện trong cuốn sách, câu chuyện nhanh chóng trở nên phức tạp và khó đoán vô cùng. *** Trong văn phòng của tôi có một chuỗi hạt thủy tinh. Nó được treo trên thanh ngang của chiếc đèn bàn, đung đưa theo từng rung động nhỏ nhất. Những hạt thủy tinh có màu xanh thẳm như nền trời đêm. Khi ánh sáng nhảy múa trên đó, chúng toát lên vẻ dịu dàng, rạng rỡ và đầy sức sống. Tôi sẽ kể cho các bạn xuất xứ của chuỗi hạt này. Elizabeth đã đeo nó khi chúng tôi trao nhau nụ hôn đầu. Chuyện đó xảy ra ngay tại đây, trong văn phòng này vào một đêm đông, sáu tầng nhà bên trên phố Main ở Ann Arbor. Elizabeth là thám tử. Tối hôm đó, cô được triệu tập tới hiện trường một vụ tai nạn xe hơi: Những đống kim loại nát bét, kính vỡ khắp nơi. Ba người chết, trong đó có một trẻ em. Đó là loại tai nạn bạn không bao giờ muốn chứng kiến, còn khi đã thấy rồi, bạn chỉ còn biết hi vọng mình có thể quên được nó. Cô đã nhìn thấy mọi chuyện và sau đấy muốn tránh khỏi đó càng xa càng tốt. Rồi cô đến chỗ tôi. Hôm đó, tôi ở lại làm việc muộn, nghe thấy tiếng cửa mở cùng tiếng chân cô bước qua văn phòng trống không phía ngoài. Và rồi cô đứng đó, trước ngưỡng cửa văn phòng. Elizabeth vốn có vóc người cao, chiếc áo khoác dài chỉ càng khiến cô trông cao hơn. Trên vai áo cô, mấy bông tuyết đang tan. Hai tà áo khoác mở rộng, chiếc áo cánh cô mặc bên trong cũng không cài cúc cổ áo. Ngón tay cô mân mê những hạt thủy tinh màu xanh dương đeo trên cổ. Nhưng toàn thân cô thì vẫn bất động. Tôi biết ngay có điều gì đó không ổn. Mặt cô tái nhợt, mái tóc đen nhánh và óng ả như cánh quạ buông xõa quanh khuôn mặt. Tôi đứng dậy khỏi bàn và bước tới chỗ cô, nhưng sự bất động của cô khiến tôi e ngại không dám đụng tới. Sau cùng, tôi đặt một bàn tay lên vai cô, rồi rút tay lại. Tuyết rơi nhẹ ngoài cửa sổ văn phòng. Chúng tôi đứng bên nhau một lúc lâu, tôi chẳng hỏi cô bất cứ điều gì. Tôi chờ đợi và rồi cô bắt đầu kể. Cô kể lại cho tôi nghe mọi điều, tất cả những gì cô đã chứng kiến. Lời nói tuôn ra như dòng chảy không ngừng. Những ngón tay cô lần trên chuỗi hạt sau mỗi tình tiết kinh hoàng. Kể xong, cô quay mặt đi. Ngượng ngập, gần như lúng túng. Và cũng lúng túng không kém, tôi lùi lại phía sau. Không biết phải làm gì, tôi mời cô một ly từ chai Scotch cất sâu trong ngăn kéo bàn. Nhưng cô không muốn uống. Tôi nhìn cô cởi áo khoác vắt lên lưng ghế, nhìn cô tiến tới gần, mắt cô nhìn thẳng vào mắt tôi. Cô vẫn mở mắt khi hôn tôi, đôi mắt cũng xanh như chuỗi hạt thủy tinh. Nụ hôn đầu thật chậm rãi, vương vấn và khoan thai. Cả hai đều hiểu đó là gì: Một hành động thách thức. Đó là bản tính tự nhiên của con người. Ta đối diện cái chết, thách thức nó, tự chứng tỏ với bản thân là ta vẫn đang sống. Những ý nghĩ đó lướt qua tâm trí tôi, nhưng tôi chẳng có thời gian mà nghiền ngẫm. Nụ hôn thứ hai mãnh liệt và hứng khởi hơn. Tôi cảm thấy tay cô choàng qua vai mình ra sau cổ, cảm thấy những ngón tay cô xoắn lấy tóc tôi. Cô ép sát người vào tôi và chúng tôi ôm chặt lấy nhau. Tôi có thể cảm nhận rõ ràng hơi ấm, sức sống, nghị lực tiềm tàng trong cô. Tôi chỉ muốn chia sẻ kỉ niệm này một cách có chừng mực thôi và giờ tôi cho rằng chúng ta đã đạt tới giới hạn đó rồi. Những gì còn lại là bí mật của riêng hai chúng tôi. Tuy thế, đó chính là xuất xứ chuỗi hạt mà tôi cất trong văn phòng. Elizabeth đã để nó lại vào đêm hôm ấy. Không phải bỗng dưng tôi kể cho các bạn chuyện này đâu. Nó liên quan tới động cơ hành động. Nếu bạn đưa chuỗi hạt này cho một người thợ kim hoàn, hẳn là ông ta sẽ nói rằng nó chẳng có giá trị gì. Chỉ là mấy hạt thủy tinh được xâu lại bằng một sợi dây thôi. Ở một chừng mực nào đó, tôi biết đó là sự thật. Nhưng tôi cũng biết nếu một tên trộm cố đánh cắp nó, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn hắn lại. Thậm chí, tôi sẽ không ngần ngại giết hắn nếu cần thiết. Câu chuyện tôi kể sau đây không phải là về chuỗi vòng, mà là về động cơ khiến con người giết hại lẫn nhau. Tôi khá rành về chủ đề này, một phần vì tôi là biên tập viên và mọi người gửi truyện giết chóc tới chỗ tôi suốt ngày. Tên tôi là David Loogan. Phần lớn bản thảo gửi tới chỗ tôi đều dở tệ, nhưng một vài trong số đó cũng có chút tiềm năng. Tôi lọc ra những bản thảo khá nhất, chỉnh sửa lại rồi cho xuất bản trên tạp chí truyện trinh thám mang tên Gray Streets. Vậy nên, có lẽ cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi vai trò của tôi trong câu chuyện này cũng bắt đầu từ một tập bản thảo. Sự việc thật ra khá đơn giản. Tôi tìm thấy nó vào một tối thứ Tư khoảng giữa tháng Bảy, trên hành lang phía ngoài văn phòng. Chuyện này chẳng có gì lạ. Các nhà văn trong vùng để lại bản thảo của mình ở đó thường xuyên hơn mọi người vẫn tưởng. Tuy vậy, đây là một bản thảo rất đặc biệt. Nó dài chưa tới mười trang, được bỏ trong một chiếc phong bì trắng trơn, không ghi địa chỉ. Đó là câu chuyện về ba vụ giết người, hai vụ đã xảy ra, một sắp được tiến hành. Và đây chẳng phải chuyện hư cấu. Không có chữ ký hay tên tác giả. Người viết bản thảo này không muốn để lộ danh tính. Hắn ta đã viết nó trên máy tính và đem in ở một hiệu photocopy. Dĩ nhiên, khi đó tôi chẳng thể biết được. Sau này, Elizabeth mới khám phá ra điều đó. Khi đưa tập bản thảo cho cô, tôi có chút hi vọng mong manh rằng nó có thể cung cấp chứng cứ xác thực nào đó. Thời buổi này, phòng giám định có thể làm được những điều kỳ diệu với tóc, sợi vải và ADN. Tôi chắc rằng phải có dấu vân tay trên trang giấy, ngoài vân tay của chính tôi. Nhưng khi cô gửi tập bản thảo tới phòng thí nghiệm, mọi thứ đi vào ngõ cụt. Nó chẳng hé lộ bí mật nào - ai là tác giả tập bản thảo và động cơ của hắn ta là gì? Muốn giải đáp những câu hỏi này, chúng ta phải quay ngược thời gian, tới trước cả cái ngày trung tuần tháng Bảy đó. Chúng ta cũng phải gạt bỏ những quy tắc thông thường, vì câu chuyện này chẳng hề tuân theo chúng. Nó bao hàm những ý nghĩa riêng. Mặc dù đây là câu chuyện của tôi và của cả Elizabeth nữa, thực ra nó không bắt đầu từ chúng tôi. Mọi chuyện khởi đầu ở vùng phía bắc Michigan, tại thành phố Sault Sainte Marie, trong một phòng khách sạn. Chuyện bắt đầu từ một cuốn sổ tay.   Mời các bạn đón đọc Mục Tiêu Cuối Cùng của tác giả Harry Dolan.