Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Giao Sữa

NGƯỜI GIAO SỮA - TÁC PHẨM ĐẠT GIẢI MAN BOOKER 2018  Hội đồng giám khảo giải Man Booker (một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh) đã nhận định: "Vừa gây sợ hãi lại vừa truyền cảm hứng, Người giao sữa là tác phẩm có phong cách tuyệt đối riêng biệ Một câu chuyện hoàn toàn độc đáo về Ireland vào thời kỳ Nhiễu nhương qua trí óc của một cô gái trẻ Một tác phẩm choáng váng"  TÓM TẮT:  Trong một thành phố không tên, một cô gái mười tám tuổi bị rình rập bởi một kẻ được gọi là Người giao sữa. Cô không chỉ phải trốn tránh hắn, mà còn phải đối phó với những đơm đặt đàm tiếu từ chính gia đình và cộng đồng của mình.  Người giao sữa là cái nhìn của một cô gái trẻ về thời kỳ Nhiễu nhương ở Ireland với những xung đột tôn giáo và chính trị len lỏi vào mọi ngõ ngách trong đời thường, chắp cánh cho những thù hằn, tị hiềm, ác ý hèn lạ lan tràn tạo nên một bầu không khí ngột ngạt, sợ hãi và cũng không kém phần nực cười. Bằng văn chương lạnh lùng và châm biếm, Anna Burns đưa người đọc đi xuyên qua một cuộc sống u ám trĩu nặng thứ lịch sử đầy mất mát và nghi kỵ, nơi mỗi hành động dù nhỏ nhất đều kéo theo một mê cung bất tận những nguy cơ và chằng chịt những hậu quả khôn lường.  Người giao sữa là cuốn tiểu thuyết phi thường về sự trưởng thành của con người trong một thế giới đã trở nên ngập tràn cạm bẫy. *** [Review sách hay] Người giao sữa và thời kỳ ngột ngạt ELLE Team Đăng ngày: 14/07/2020 Năm 2018, lần đầu tiên một tác giả người Bắc Ireland được trao giải Man Booker – Anna Burns – với cuốn sách “Người giao sữa”. Cuộc đời Burns có đầy đủ các chi tiết để biến bà thành huyền thoại: Bà viết cuốn sách Người giao sữa khi toàn thân đau đớn vì một ca phẫu thuật hỏng, và từ sau khi hoàn thành nó đến nay bà không thể viết tiếp được gì; bà sống nhờ trợ cấp, cụ thể là ngân hàng lương thực; bà sung sướng hân hoan vì có thể dùng tiền thưởng để giúp mình sạch nợ. Dường như có một khoảng cách khủng khiếp giữa hai thời điểm: lúc bản thảo cuốn sách Người giao sữa bị hàng loạt nhà xuất bản từ chối, và lúc toàn bộ thành viên ban giám khảo nhất trí chọn trao giải Man Booker cho nó. Người giao sữa kể về một cô gái 18 tuổi không tên bị một gã đàn ông trung niên rình mò ở một thành phố không tên, tại một đất nước không tên. Là một cuốn tiểu thuyết cực kỳ khó đọc, được viết với phong cách văn chương lạ lùng, với giọng kể độc nhất vô nhị, Người giao sữa là tiếng nói nữ quyền về thân phận người phụ nữ trong thời kỳ loạn lạc. Câu mở đầu ấn tượng của Người giao sữa gần như thâu tóm được toàn bộ không khí đầy đe dọa của tác phẩm: “Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết”. Cô gái bị dọa bắn ấy có thói quen vừa đi vừa đọc sách, một thói quen bị mọi người gièm pha và phản đối, bởi ở xã hội nơi cô sống thì hành động xách thuốc nổ dẻo Semtex đi quanh được coi là bình thường còn đọc Jane Eyre trước mắt mọi người lại là bất bình thường. Thế giới văn hóa [Review sách hay] Ngàn cánh hạc: Độ tối của thân phận, độ sâu của tội lỗi Chính vì sống ở một thời kỳ quái đản như vậy mà một sự việc đáng lo ngại xảy đến với cô lại bị gạt đi một cách nhẹ bẫng: Cô bị một người đàn ông trung niên, mà cô gọi là người giao sữa, đeo bám, gạ gẫm. Hắn tỏ ra quen biết cô, rành rõi chuyện gia đình cô, hắn đe dọa giết bạn trai của cô. Hành động quấy rối ngày một leo thang: Hắn rình rập cô khắp mọi nơi, thuộc lịch làm việc và học hành của cô. Sinh ra trong một gia đình có mười một anh chị em, với các chị lớn đã đi lấy chồng, các anh trai đã bỏ đi hoặc chết vì theo phe ly khai, với một ông bố chết vì trầm cảm, với một bà mẹ ngoan đạo dằn vặt cô vì mãi chưa chịu lấy chồng, cô không có cách nào tự phòng vệ. Cô không biết tâm sự cùng ai, mà cũng không biết làm cách nào đáp trả những hành vi quấy rối của gã giao sữa. Ấy vậy mà, cô bị chính người trong gia đình của mình quy kết là đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa. Bị anh rể thêu dệt đời tư, bị hàng xóm đồn thổi, bị cả cộng đồng xa lánh, cô rơi vào một tin đồn hiểm ác mà không thể rửa sạch. Bằng câu chuyện rõ ràng về tình trạng dễ tổn thương không nơi bấu víu của một cô gái say mê sách vở, Burns dần làm sáng tỏ tại sao cô gái 18 tuổi ấy lại lạc lối trong cái thời đại mình đang sống. Chính trị thấm đẫm trong mọi cuộc chuyện trò, mọi hành động, mọi suy nghĩ của các nhân vật trong cuốn sách. Lớn lên ở Belfast trong giai đoạn xung đột vũ trang ở Bắc Ireland giữa phe ly khai và phe chính phủ, Burns chứng kiến và không thôi bị ám ảnh bởi chính những bạo lực ấy. Nhân vật “chị tư” của bà sống trong một cộng đồng phân rã và xung đột vì chính trị, nơi sự phe phái phân chia rạch ròi rõ nét giữa “ta và họ”, nơi mọi sự hớ hênh vi phạm phạm vi cũng có thể dẫn đến cái chết, nơi đánh bom và bắn súng diễn ra hằng ngày, nơi tang tóc diễn ra ở mọi nhà. Nhưng Burns chọn một lối đi riêng, như chính bà đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn: “Tiểu thuyết của tôi viết về cả một xã hội bị ảnh hưởng bởi bạo lực trong một quãng thời gian dài dặc và tồn tại dưới sức ép căng thẳng. Nó viết về cách mà các xã hội cùng với cá nhân phản ứng và phân rã khi mỗi ngày đều phải sống trong sợ hãi xen lẫn hoang tưởng và về những con người phải khốn khổ vì những tổn thương ở cả ý thức lẫn tiềm thức lén lẩn vào từng sợi từng thớ trong bản thể của họ”. Burns đã chọn một cách vô cùng độc đáo khi tạo ra các nhân vật của mình: tuyệt đối không đặt tên. Nhân vật chính được gọi là “chị tư”, cô gọi các chị của mình theo thứ tự “chị đầu, anh rể đầu, chị hai, anh rể hai”. Cô đặt biệt danh cho những người xung quanh: “bạn trai hờ”, “thằng bé hạt nhân,” “đứa con gái hạ độc”. Sự phiếm chỉ ấy được tác giả áp dụng cả cho thời gian câu chuyện này xảy ra, “giai đoạn nhiễu nhương” (mà chỉ một đôi lần nhân vật chính có nhắc đến thoáng qua là thập niên 70), cho cả vùng đất nơi Anh được gán cái tên “đất nước bên kia biển”, còn Ireland thì trở thành “bên kia ranh giới”. Được viết bằng thứ ngôn ngữ hòa trộn giữa lời ăn tiếng nói hằng ngày với văn chương tinh hoa và những pha chơi chữ tài tình, dòng tự sự thì miên man những suy nghĩ, những câu chuyện bên lề, cuốn sách Người giao sữa được nhiều nhà phê bình so sánh với thứ văn chương dòng ý thức bất tận. Tù túng, bi kịch xen lẫn hài hước, đây là một tác phẩm độc đáo khai thác cách bạo lực bị bình thường hóa đã tác động lên cách sống của cá nhân và cả xã hội. Nó cũng là một tiếng chuông vang vọng về cảnh huống con người bị giám sát, bị đưa vào vòng vây của tin đồn trong một cộng đồng bị kìm nén ngộp thở mà không thể nào tự cất tiếng giải thích. Nhóm thực hiện Bài: Zét Nguyễn *** Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết. Hắn bị một đội đặc nhiệm của nhà nước bắn nhưng tôi không để tâm đến chuyện người này bị bắn. Nhưng người khác lại để tâm, và những người này, như thành ngữ nói, “chỉ nhìn mặt tôi mà bắt hình dong” và tôi đang bị thiên hạ bàn tán vì có tin đồn do họ khơi mào, có lẽ đúng hơn là do người anh rể đầu khơi mào, rằng tôi đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa này và tôi mới mười tám còn hắn bốn mươi mốt. Tôi biết tuổi hắn, chẳng phải vì hắn bị bắn rồi truyền thông đưa tin, mà bởi, nhiều tháng trước vụ ám sát, những đảng ngồi lê đôi mách đã bàn tán, rằng bốn mươi mốt với mười tám thì thật khó coi, rằng hai mươi ba tuổi chênh lệch thì thật khó coi, rằng hắn có vợ rồi và đâu thể để tôi lừa phỉnh, bởi lẽ có nhiều người trong bóng tối âm thầm theo dõi. Dường như vụ dan díu với người giao sữa này cũng là lỗi của tôi. Nhưng tôi đâu có dan díu với người giao sữa. Tôi không ưa người giao sữa và đã hoảng sợ và rối trí khi hắn đeo bám và thử gạ gẫm tôi. Tôi cũng không thích ông anh rể đầu. Gã thèm khát dựng chuyện về đời sống tình ái của mọi người. Về đời sống tình ái của tôi. Khi tôi còn nhỏ, khi tôi mười hai, gã xuất hiện đúng lúc chị cả tôi vực lại tinh thần sau khi bỏ bạn trai lâu năm vì không chung thủy với chị, người mới này làm chị có thai nên họ cưới nhau ngay tắp lự. Gã nói với tôi những câu dâm dật về tôi từ phút đầu gặp tôi — về cái hĩm của tôi, trôn tôi, bím tôi, nường tôi, húm tôi, lỗ tôi, lá đa tôi, thè le tôi — và gã dùng những từ, những từ gợi dục, mà tôi không hiểu. Gã biết tôi không hiểu nhưng cũng đủ sức đoán ra những chữ đó là tục tĩu. Cái đó khiến gã khoái trá. Gã ba mươi lăm tuổi. Mười hai với ba mươi lăm. Đó cũng là hai mươi ba tuổi chênh lệch. Vậy là gã cứ nói những câu đó và thấy có quyền nói những câu đó còn tôi thì không nói gì vì tôi không biết phải phản ứng trước người này ra làm sao. Gã chưa từng nói câu nào như vậy khi có mặt chị tôi. Lần nào cũng vậy, cứ chị rời phòng là như có cái công tắc bật lên trong gã. Được cái tôi không phải sợ gã xâm hại thể xác. Thời ấy, nơi ấy, bạo lực là tiêu chí chính để đánh giá những người xung quanh và tôi thấy ngay rằng gã không thuộc loại đó, gã không có cái thái độ đó. Dẫu vậy đi nữa, bản chất săn mồi của gã lần nào cũng dồn tôi đến chỗ sợ chết trân. Gã là hạng rác rưởi còn chị hồi ấy thì khổ sở vì dính bầu, vì còn yêu người đã yêu bao năm và không chịu tin những gì anh ta làm với chị, không chịu tin anh ta giờ chẳng hề thương nhớ chị, vì quả anh ta không nhớ. Giờ anh ta tếch theo người khác rồi. Chị không thực sự hiểu người đàn ông này, cái gã lớn tuổi hơn mà chị đã cưới khi chị còn quá trẻ, quá buồn khổ, và quá lụy tình — chỉ là không phải lụy tình vì gã — nên mới dính vào gã. Dù chị buồn nhưng tôi không đến thăm nữa vì tôi không chịu nổi lời lẽ và bản mặt gã. Sáu năm sau, khi gã tìm cách mon men đến tôi và hai chị kia, và ba chị em tôi — trực tiếp, gián tiếp, lịch sự, huỵch toẹt — cự tuyệt gã, thì người giao sữa, cũng là kẻ không mời mà tới nhưng đáng sợ hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều, không biết từ đâu xuất hiện. Tôi không biết hắn giao sữa cho nhà nào. Hắn không giao sữa cho nhà tôi. Tôi nghĩ hắn không giao sữa cho ai cả. Hắn không nhận đặt hàng sữa. Hắn chẳng liên quan gì đến sữa. Hắn chưa bao giờ đi giao sữa. Còn nữa, hắn không lái xe tải chở sữa. Thay vì vậy hắn lái xe hơi, các loại xe khác, thường là xe bóng lộn, dù hắn thì lại không bóng lộn. Ấy vậy mà tôi chỉ nhận thấy hắn và mấy xe hơi của hắn khi hắn bắt đầu chui vào mấy xe đó trước mặt tôi. Rồi còn chiếc xe van đó nữa — nhỏ, màu trắng, không có gì nổi bật, luôn thay hình đổi dạng. Thỉnh thoảng cũng thấy hắn lái chiếc xe van đó. Một ngày nọ, khi tôi đang vừa đi vừa đọc Ivanhoe thì hắn xuất hiện, lái một trong số những cái xe của hắn chạy lại. Thường thì tôi vẫn vừa đi vừa đọc. Tôi thấy chuyện này chẳng có gì sai nhưng người ta cũng gộp nó vào những bằng chứng chống lại tôi. “Vừa đi vừa đọc” nhất định là nằm trong danh sách. “Cô em là cô gái ấy ấy, phải không nào? Ông gì gì đấy là bố của cô em, đúng không? Mấy anh trai cô, cậu ấy, cậu kìa, cậu kia, cậu nọ, từng chơi trong đội hurley nhỉ? Lên đi. Tôi cho cô em đi nhờ.” [] Một môn bóng chơi bằng gậy cong ở Ireland. Câu này được nói rất thản nhiên, cửa bên phía khách đã mở rồi. Tôi đang đọc thì giật mình. Tôi không nghe thấy tiếng xe này chạy lại. Người đàn ông ở ghế lái, cũng chưa từng thấy bao giờ. Hắn nghiêng người qua, nhìn tôi, tươi cười thân thiện kiểu sốt sắng. Nhưng mà giờ, ở tuổi mười tám, “tươi cười, thân thiện, sốt sắng” luôn khiến tôi tức thì cảnh giác. Không phải chuyện cho đi nhờ xe. Ở đây người có xe thường dừng xe và ngỏ lời cho những người đang ra vào khu này đi nhờ. Ngày ấy xe hơi không nhiều, còn phương tiện vận tải công cộng, vì báo động có bom và trưng dụng xe, cứ ít lâu lại bị thu hồi. Rà xe kiếm gái, từ này có lẽ mọi người ở đây biết, nhưng xảy ra ngoài thực tế thì chưa thấy bao giờ. Tất nhiên tôi chưa từng gặp vụ đó. Dẫu sao tôi cũng không muốn đi nhờ xe. Đó là nói chung chung. Tôi thích đi bộ — vừa đi vừa đọc, vừa đi vừa nghĩ. Còn nói cụ thể, tôi không muốn ngồi chung xe với người đàn ông này. Thế nhưng tôi không biết phải nói thế nào, bởi hắn không thô lỗ mà hắn lại biết gia đình tôi vì hắn đã kể tên đàn ông trong gia đình tôi để làm chứng, nên tôi không thô lỗ được vì hắn không thô lỗ. Thế nên tôi ngập ngừng, hay đứng trơ trơ, làm thế thật bất lịch sự. “Tôi đang đi bộ,” tôi nói. “Tôi đang đọc,” rồi tôi giơ cuốn sách lên, cứ như Ivanhoe giải thích được chuyện đi bộ, tính thiết yếu của việc đi bộ. “Cô em ngồi trên xe đọc cũng được kia mà,” hắn nói, và tôi không nhớ mình đáp trả ra sao. Rốt cuộc hắn cười và nói, “Thôi khỏi. Cô em đừng lo. Cứ đọc đi,” rồi hắn đóng cửa xe và phóng đi. Mời các bạn đón đọc Người Giao Sữa của tác giả Anna Burns & Thiên Nga (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông
Xuyên suốt cuốn sách là một bản tình ca nhẹ nhàng, sâu lắng mà cũng không kém phần cảm động. Chuyện kể về tình yêu giữa Raip Efendi một người Thổ Nhĩ Kỳ có niềm đam mê với hội họa và Maria Puder - 1 họa sĩ người Do Thái với đôi mắt đen và làn da trắng muốt như tuyết, người mà Raip vẫn gọi là "Đức mẹ". Hai người họ gặp nhau ở Berlin và cũng tình cờ yêu nhau một cách say đắm cuồng nhiệt. Tuy ban đầu Maria có vẻ khá khắt khe, vạch ra ranh giới rõ ràng với Raip nhưng cô biết rằng bản thân đã yêu anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Cô luôn dằng xé cảm xúc bản thân vì cô đã mất niềm tin ở đàn ông từ lâu, chính Raip đã đem lại cho cô một hi vọng sống mới. Còn đối với Raip thì Maria thực sự là 1 "Đức mẹ" với đôi mắt đen rất khác biệt với các cô gái anh từng gặp, anh yêu cô bằng cả trái tim chân thành. Tuy nhiên cuộc đời rất không công bằng khi cướp đi mạng sống của Maria, khiến Raip phải chờ đợi suốt 10 năm trong vô vọng vì tưởng rằng cô đã phản bội anh để theo người đàn ông khác. Anh cưới vợ và sống một cuộc sống như người mất đi mọi tri giác, mọi cảm xúc của anh đã chết đi khi anh biết tin Maria vì sinh đứa con gái cho anh mà mất đi, để lại trong anh nỗi tuyệt vọng và dày vò suốt cuộc đời. Đến cuối đời anh vẫn sống trong sự cô đơn, bị sỉ nhục bởi chính người thân trong gia đình, anh chỉ tìm thấy sự bình yên khi ở bên Maria mà thôi. Một câu chuyện tình cảm động rất đáng để đọc. *** SABAHATTIN ALI sinh ngày 12 tháng 2 năm 1906 tại thành phố Egiơnidere, nay là thành phố Ardinê thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Bungari. Vào đầu thế kỷ này thành phố vẫn thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau cuộc chiến tranh Bancăng ( 1912 - 1913 ), Bungari đã thu hồi mảnh đất ấy về mình. Năm 1927, sau khi tốt nghiệp trường trung học, Ali trở thành người thầy giáo nông thôn. Cuộc sống ở miền Iodơgađa ( Vùng trung tâm Anatôli ) đã làm cho ông kinh tởm. Những biến động lớn lao của xã hội hầu như không vang động được đến đây. Xung quanh vẫn là sự bóc lột tàn tệ, sự bất công, áp bức được khoác bộ mặt mới ngày càng tinh vi hơn, thâm độc hơn. Sự xung đột sâu sắc với cuộc sống xung quanh đã dẫn Ali đến ý nghĩ tự sát. Khó có thể nói được số phận của anh sẽ ra sao nếu như không có niềm an ủi duy nhất là văn học.  Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, vì thiếu những giáo viên có kinh nghiệm, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã gởi một số giáo viên trẻ ra nước ngoài để học tập thêm. Lợi dụng cơ hội này như là một khả năng để thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt tù túng ở nông thôn và để tìm hiểu thêm về thế giới, Sabahattin Ali đã cố gắng thi đậu kỳ thi tuyển sinh. Năm 1928 anh được gởi sang Đức học tập, đầu tiên ở Pốtxđam, sau đó ở Berlin.  Cũng như nhiều thanh niên tiến bộ khác lúc bấy giờ, Ali mơ ước xóa bỏ sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đối với nhân dân lao động. Anh đã cảm thấy điều ấy rất thấm thía ngay tại quê hương mình. Từ một đất nước lạc hậu, hoang tàn sau chiến tranh, Ali sang Đức là nhằm mục đích nắm vững kiến thức khoa học, văn hóa để phục vụ cho tổ quốc. Nhưng trong thời gian đó chủ nghĩa phân biệt chủng tộc ở Đức đang phát triển mạnh mẽ và ngày càng tiến dần đến việc nắm lấy chính quyền. Sự căm thù các giá trị tinh thần, văn hóa và nghệ thuật của bọn phân biệt chủng tộc và sô-vanh đã làm cho một số sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ đang học tập tại đó trở thành những người chống chủ nghĩa phát xít tích cực.  Một lần trong cuộc tranh luận, một người Đức theo chủ nghĩa xã hội - dân tộc đã xúc phạm đến lòng tự trọng của những sinh viên Thổ Nhĩ Kỳ, Sabahattin Ali đã tát cho y một cái. Lợi dụng sự kiện này những người lãnh đạo hội kiều dân Thổ đã đưa Ali về nước. Đã từ lâu, người thực tập sinh bướng bỉnh cùng với những lời nhận xét cay độc, độc địa đối với bọn sinh viên Đức và Thổ Nhĩ Kỳ theo chủ nghĩa sô-vanh đã làm cho giới lãnh đạo để ý, khó chịu.  Bất chấp những kinh nghiệm cay đắng, Ali không hề có ý định dấu diếm những quan điểm chính trị của mình. Nhà văn, thường đọc thơ cho học sinh và đồng nghiệp nghe. Một trong những độc giả của anh lại là tên chỉ điểm của mật thám trá hình, qua sự tố giác của y, Sabahattin Ali bị bắt vào mùa hè năm 1938. Tòa án hình sự thành phố Kônhi đã xử anh 14 tháng tù giam vì tội "đã thóa mạ những nhân vật cao cấp của chính quyền ". Ali bị giam ở pháo đài Xinôp trên bờ biển Đen.  Tình bạn với những người cộng sản trong nhà tù Xinôp đã giúp Ali hiểu về chủ nghĩa Mác một cách sâu sắc, khơi dậy trong lòng anh sự khát khao hiểu biết một cách khoa học những quy luật xã hội.  Vào đầu cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai, trong đất nước Thổ Nhĩ Kỳ những thế lực đen tối bắt đầu ra sức hoành hành. Những tên phát xít người Thổ đã tổ chức những cuộc biểu tình và những vụ tàn sát đẫm máu. Các câu lạc bộ mà thực chất là các tổ chức phát xít được Berlin đài thọ đã ra sức truy lùng, theo dõi những trí thức yêu nước, tiến bộ để sau đó tìm cách thủ tiêu, giết hại. Vào năm 1939, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ còn tìm cách che đậy lập trường và thiện cảm của mình đối với chủ nghĩa phát xít, song hai năm sau, khi mà những chiến thắng tạm thời của Hitle ở mặt trận phía Tây làm xao động thế giới, thì chiếc mặt nạ của chính phủ cũng rơi ra. Thủ tướng Thổ lúc bấy giờ đã công khai lên tiếng " mong muốn tiêu diệt nước Nga Xô-Viết ".  Các tầng lớp nhân dân tiến bộ trong nước lúc đó đã phải đương đầu rất khó khăn với những thế lực phản động. Và trong cuộc đấu tranh này cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của Sabahattin Ali : " Quỷ ám " đã giáng cho bọn phát xít bản địa một đòn đích đáng.  Trước đó tên tuổi nhà văn đã rất nổi tiếng qua những tác phẩm nói về những người công nhân, nông dân, những người thợ thủ công nghiệp và tầng lớp trí thức. Đó là tập thơ " Gió và núi " ( 1934 ), ba truyện ngắn : " Chiếc cối xay " (1935 ), "Arba " ( 1936 ), " Tiếng nói " ( 1937 ), cuốn tiểu thuyết "Uxup từ Kulzacka " ( 1937 ) và bây giờ là " Quỷ ám " (1940 ). Cũng theo lời Nazim Hikmet những tác phẩm trên đã làm cho Sabahattin Ali " trở thành thủ lĩnh của một trường phái văn học, mở ra một hướng đi mới trong văn xuôi Thổ Nhĩ Kỳ ". Hướng đi này trên quê hương nhà văn được gọi là : "Chủ nghĩa hiện thực xã hội."  Vào đầu những năm 40, một trong những chủ đề thu hút nhà văn là sự khủng hoảng trong ý thức cá nhân. Bằng kinh nghiệm sống của mình, Ali đã nhận thấy rằng chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản không thể dễ dàng từ bỏ những đặc điểm của mình dưới sự tác động của những yếu tố bên ngoài. Nhà văn đã đề cập đến vấn đề này trong cuốn truyện vừa " Đức Mẹ mặc áo choàng lông ".  Có lẽ đây là tác phẩm tâm huyết nhất của nhà văn, chứa đựng ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Nếu như không tính đến người dẫn truyện thì trong tác phẩm chỉ có hai nhân vật. Những nhân vật khác chỉ xuất hiện vài chỗ và cũng rất ngắn. Thành phố Berlin sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, sự khủng hoảng kinh tế thế giới, những cuộc tranh luận của những sĩ quan Đức theo chủ nghĩa phục thù…toàn bộ những vấn đề này chỉ là một tấm phông cho những hoạt động của nhân vật chính, một thanh niên trí thức Thổ Nhĩ Kỳ trong câu chuyện bị hoàn toàn tách ra khỏi quê hương, sống trong thành phố Berlin xa lạ, không người thân thuộc. Người thanh niên đó cũng giống như Sabahattin Ali lúc còn trẻ mơ ước một tình yêu trong sáng, lành mạnh như là một biện pháp duy nhất để nhận thức cá nhân mình. Và một tình yêu như vậy đã đến với anh và nó đã chỉ cho anh thấy rõ hơn bản thân mình : một con người có cuộc sống nội tâm phong phú, có một tâm hồn trong sáng, cao thượng. Nhưng để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, để trở nên xứng đáng với tình yêu của mình thì tất cả những điều ấy hãy còn chưa đủ.  Cuốn truyện vừa của Ali cũng giống như một tác phẩm văn học chân chính khác là một bức tranh tổng hợp phức tạp về nhiều mặt của cuộc sống. Mọi người đọc có thể tìm thấy ở đó những điều bổ ích cho mình, còn chính tác phẩm đã trao cho độc giả chiếc chìa khóa để mở ra những điều lý thú khác mà trong cuốn sách không nói đến.  Đối với những người đọc tinh ý thì có thể nhận thấy nhân vật của tác phẩm mang nhiều nét của chính Sabahattin Ali lúc còn trẻ, đặc biệt là trong thời gian ông học tập tại Berlin. Một số nhà phê bình Thổ Nhĩ Kỳ dựa vào đó đã khẳng định rằng đây là tác phẩm tự thuật của nhà văn. Nếu như điều ấy là đúng thì chỉ đúng ở một điểm duy nhất : Sau nhiều năm, trở lại với những suy tư thời trai trẻ, Sabahattin Ali đã hoàn toàn đoạn tuyệt với những ảo tưởng ngây thơ của mình. Ông đã chỉ rõ rằng con người sống bằng những ước mơ lãng mạn của mình, dù cho đó là những ước mơ cao đẹp nhất, trong sáng nhất nhưng nếu không được củng cố bằng những tri thức thực tế của cuộc sống thì sẽ không có khả năng thay đổi được điều gì. Hơn nữa những ước mơ ấy có khi lại trở thành những cạm bẫy mà không dễ gì thoát ra nổi. Một tình yêu đôi lứa cao đẹp cũng chỉ có thể giúp cho nhân vật chính của chúng ta thoát khỏi sự vô nghĩa, đơn điệu trong cuộc sống của anh ta mà thôi.  Năm 1948, sau khi mãn hạn tù 3 tháng vì làm báo " Pasa nổi tiếng ", Sabahattin Ali đi đến quyết định cần phải rời khỏi Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp tục cuộc đấu tranh. Ý nghĩ đầu tiên của ông là sang Bungari, đất nước nơi đã sinh ra ông và hiện đang có nhiều người Thổ sinh sống. Nhưng lý do quan trọng hơn cả là ở đó nhân dân đã và đang thực sự làm chủ vận mệnh của mình. Trong số những người bạn tù với Sabahattin Ali có một người tự xưng là đảng viên Cộng sản, anh ta hứa sẽ giúp nhà văn trốn ra nước ngoài. Nhưng thực chất đó là một kẻ khiêu khích do mật vụ cài vào.  Vào đầu tháng 3 năm 1948, Sabahattin Ali biến mất. Mãi đến vài tháng sau các báo mới đưa tin phát hiện thấy xác nhà văn trong khu rừng Karabain gần biên giới Bungari. Những người thân phải khó khăn lắm mới nhận được ra Sabahattin Ali.  Từ đó đến nay đã 38 năm trôi qua. Ngày nay những kẻ thù chính trị của nhà văn cũng phải thừa nhận rằng những sáng tác của ông đã trở thành những tác phẩm cổ điển trong nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ. Bằng những tác phẩm và chính cuộc sống của mình, nhà văn đã và đang là tấm gương sáng chói cho một thế hệ nhà văn trẻ tiến bộ của Thổ Nhĩ Kỳ noi theo.  Hàng năm, người ta trao cho những nhà văn xuất sắc nhất giải thưởng cao quý mang tên Sabahattin Ali và đó là niềm tự hào của nền văn học tiến bộ Thổ Nhĩ Kỳ.   Mời các bạn đón đọc  Đức Mẹ Mặc Áo Choàng Lông của tác giả Sabahattin Ali.
Cô Gái Mắt Nâu - Lisa Kleypas
Series Travis Family gồm có: Sugar Daddy Blue Eyed Devil - Người Tình Hoạt Ngôn Smooth Talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Brown Eyed Girl (Cô Gái Mắt Nâu) Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Là một chuyên gia hôn lễ dày dặn kinh nghiệm, tôi đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng cho bất kì sự cố nào có thể xảy ra. Trừ bò cạp. Con quái vật cứ bò tới bò lui cạnh hồ bơi tự nhiên như nhà nó ấy. Trên đời này, còn thứ gì đáng nguyền rủa hơn bò cạp nữa chứ. Thường thì nọc độc của nó sẽ không giết chết bạn đâu, nhưng nó sẽ làm bạn thấy thà chết đi còn sướng hơn. Quy tắc đầu tiên để giải quyết những tình huống cấp bách là: không được mất kiểm soát. Nhưng con bò cạp đang bò như bay về phía này thì tôi còn hơi đâu mà quan tâm quy tắc hay là nội quy gì nữa chứ . Trong cơn hoảng loạn, tôi lục lọi túi xách, mà… trời đất quỷ thần ơi, cái túi nặng khủng khiếp, tới nỗi mỗi lần để ở ghế hành khách, cái nút báo động thắt dây an toàn trong xe tôi lại báo lên inh ỏi. Tay tôi rà qua cả tỷ thứ, nào là khăn giấy, bút bi, băng keo cá nhân, chai nước khoáng Evian, mấy thứ chai dưỡng tóc này nọ; rồi lăn khử mùi, nước khử trùng tay, lotion, bộ dụng cụ làm móng, trang điểm các kiểu; tới nhíp, hộp kim chỉ, chai hồ, tai nghe, kẹo ngậm, thanh sôcôla, các loại thuốc nhức đầu, đau bao tử,…còn có cả cây kéo, cây giũa móng, lược, chui bông tai, thun cột tóc, băng vệ sinh, thuốc tẩy vết ố, cây lăn quần áo, kẹp tăm, dao lam, băng keo hai mặt, và tăm bông nữa này. ... Mời các bạn đón đọc tập 4 của series Travis Family: ​Cô Gái Mắt Nâu của tác giả Lisa Kleypas
Hảo Hán Nơi Trảng Cát - Jorge Amado
Hảo hán nơi Trảng cát là câu chuyện kể về nhóm một trăm đứa trẻ mồ côi và bụi đời sống bằng tài xoay sở láu cá và tính liều lĩnh trong những khu ổ chuột nóng bức và những con hẻm bẩn thỉu ở Salvador. Dẫn đầu bởi cậu nhóc mười lăm tuổi Pedro Bala, nhóm hảo hán có những nhân vật quan trọng như một cu cậu nói dối thành nghề tên “Cẳng Nhũn”, một “Giáo sư” thông minh và “Gã Mèo” dậy thì sớm. Chúng đã thực hiện trót lọt những vụ trộm và đào thoát thành công khỏi những con người chuẩn mực và được ưu tiên ở Brazil. Nhưng khi công chúng phản ứng dữ dội và yêu cầu chính quyền phải bắt hết lũ “giặc con” này, thì số phận của bọn trẻ bỗng chốc trở thành một cuốn phim cay đắng và vô cùng thương tâm về tình yêu và tự do trên vùng đất bị kìm kẹp. Viết về tuổi trẻ sôi nổi bằng những ngôn từ giàu cảm xúc, Hảo hán nơi Trảng cát là một trong các tác phẩm phổ biến nhất trong giới học sinh sinh viên ở Brazil. Cuốn sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, được chuyển thể thành truyện tranh và phim điện ảnh. Tại Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm ưa thích của nhiều thế hệ và sức hấp dẫn của nó vẫn còn mãi theo thời gian. *** Trong Hảo hán nơi trảng cát - một tác phẩm sinh động, từ ngữ được sử dụng rất giản dị - Jorge Amado đã kể một câu chuyện về những cậu bé nghèo sống trong một nhà kho bỏ hoang trên sông Salvador. ðó là những cậu bé chỉ mới 9 đến 16 tuổi gặp gỡ nhau trong những trò ngỗ nghịch và ăn cắp vặt, khiến thuyền trưởng Bahia cũng phải khiếp sợ. Từ chàng thủ lĩnh dũng cảm với vết sẹo trên mặt Pedro Bala (Bullet) tới cậu Pirulito ngoan đạo (Lolly pop)-vẫn cầu nguyện hằng đêm để rửa tội cho những lỗi lầm của mình; từ cậu Giáo sư khôn ngoan (Teacher)-người có học duy nhất trong nhóm, tới cậu Gato quyến rũ-một tay ma cô mới vào nghề; mỗi cậu có tình tình, cách nhìn cuộc suống rất riêng và cả những ước mơ viển vông nhất. Tai tiếng của cả bọn lan truyền khắp thành phố, khiến cho cả báo chí, cảnh sát, tòa án vị thành niên cùng các “gia đình kiểu mẫu” phải bất bình giận dữ. Nhưng vẫn còn có những người tốt giúp đỡ các cậu: cha Jose Pedro, mẹ Don'Aninha, anh công nhân João de Adão (John Adam) và chàng Queirdo-de-Deus (God Beloved) nhảy capoeria. Các cậu bé lớn lên và đi con đường riêng của mình: người làm thủy thủ, nghệ sĩ, tu sĩ; kẻ làm làm ma cô, cướp đường. Chàng thủ lĩnh Pedro Bala của chúng ta thì lên đường chiến đấu để thay đổi số phận cho những người nghèo khốn khổ nhất. Dù chịu ảnh hưởng bởi lý tưởng cộng sản tại thời điểm tác phẩm được viết, nhưng Hảo hán nơi trảng cát đã vượt qua lý tưởng chính trị của chính tác giả vào thời điểm đó. Tuổi thơ trong sáng của các em phải lớn lên trong một thế giới người lớn khắc nghiệt, các cậu bé được sống tự do như ý chúng nhưng tự do ấy cũng đầy cạm bẫy. Câu chuyện đã mở ra góc nhìn về những mảnh đời bé nhỏ vẫn còn giá trị tới tận ngày nay. Hồng Quân dịch *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ Hải Trình Ven Bờ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Hảo Hán Nơi Trảng Cát của tác giả Jorge Amado.
Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.