Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Giao Sữa

NGƯỜI GIAO SỮA - TÁC PHẨM ĐẠT GIẢI MAN BOOKER 2018  Hội đồng giám khảo giải Man Booker (một trong những giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh) đã nhận định: "Vừa gây sợ hãi lại vừa truyền cảm hứng, Người giao sữa là tác phẩm có phong cách tuyệt đối riêng biệ Một câu chuyện hoàn toàn độc đáo về Ireland vào thời kỳ Nhiễu nhương qua trí óc của một cô gái trẻ Một tác phẩm choáng váng"  TÓM TẮT:  Trong một thành phố không tên, một cô gái mười tám tuổi bị rình rập bởi một kẻ được gọi là Người giao sữa. Cô không chỉ phải trốn tránh hắn, mà còn phải đối phó với những đơm đặt đàm tiếu từ chính gia đình và cộng đồng của mình.  Người giao sữa là cái nhìn của một cô gái trẻ về thời kỳ Nhiễu nhương ở Ireland với những xung đột tôn giáo và chính trị len lỏi vào mọi ngõ ngách trong đời thường, chắp cánh cho những thù hằn, tị hiềm, ác ý hèn lạ lan tràn tạo nên một bầu không khí ngột ngạt, sợ hãi và cũng không kém phần nực cười. Bằng văn chương lạnh lùng và châm biếm, Anna Burns đưa người đọc đi xuyên qua một cuộc sống u ám trĩu nặng thứ lịch sử đầy mất mát và nghi kỵ, nơi mỗi hành động dù nhỏ nhất đều kéo theo một mê cung bất tận những nguy cơ và chằng chịt những hậu quả khôn lường.  Người giao sữa là cuốn tiểu thuyết phi thường về sự trưởng thành của con người trong một thế giới đã trở nên ngập tràn cạm bẫy. *** [Review sách hay] Người giao sữa và thời kỳ ngột ngạt ELLE Team Đăng ngày: 14/07/2020 Năm 2018, lần đầu tiên một tác giả người Bắc Ireland được trao giải Man Booker – Anna Burns – với cuốn sách “Người giao sữa”. Cuộc đời Burns có đầy đủ các chi tiết để biến bà thành huyền thoại: Bà viết cuốn sách Người giao sữa khi toàn thân đau đớn vì một ca phẫu thuật hỏng, và từ sau khi hoàn thành nó đến nay bà không thể viết tiếp được gì; bà sống nhờ trợ cấp, cụ thể là ngân hàng lương thực; bà sung sướng hân hoan vì có thể dùng tiền thưởng để giúp mình sạch nợ. Dường như có một khoảng cách khủng khiếp giữa hai thời điểm: lúc bản thảo cuốn sách Người giao sữa bị hàng loạt nhà xuất bản từ chối, và lúc toàn bộ thành viên ban giám khảo nhất trí chọn trao giải Man Booker cho nó. Người giao sữa kể về một cô gái 18 tuổi không tên bị một gã đàn ông trung niên rình mò ở một thành phố không tên, tại một đất nước không tên. Là một cuốn tiểu thuyết cực kỳ khó đọc, được viết với phong cách văn chương lạ lùng, với giọng kể độc nhất vô nhị, Người giao sữa là tiếng nói nữ quyền về thân phận người phụ nữ trong thời kỳ loạn lạc. Câu mở đầu ấn tượng của Người giao sữa gần như thâu tóm được toàn bộ không khí đầy đe dọa của tác phẩm: “Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết”. Cô gái bị dọa bắn ấy có thói quen vừa đi vừa đọc sách, một thói quen bị mọi người gièm pha và phản đối, bởi ở xã hội nơi cô sống thì hành động xách thuốc nổ dẻo Semtex đi quanh được coi là bình thường còn đọc Jane Eyre trước mắt mọi người lại là bất bình thường. Thế giới văn hóa [Review sách hay] Ngàn cánh hạc: Độ tối của thân phận, độ sâu của tội lỗi Chính vì sống ở một thời kỳ quái đản như vậy mà một sự việc đáng lo ngại xảy đến với cô lại bị gạt đi một cách nhẹ bẫng: Cô bị một người đàn ông trung niên, mà cô gọi là người giao sữa, đeo bám, gạ gẫm. Hắn tỏ ra quen biết cô, rành rõi chuyện gia đình cô, hắn đe dọa giết bạn trai của cô. Hành động quấy rối ngày một leo thang: Hắn rình rập cô khắp mọi nơi, thuộc lịch làm việc và học hành của cô. Sinh ra trong một gia đình có mười một anh chị em, với các chị lớn đã đi lấy chồng, các anh trai đã bỏ đi hoặc chết vì theo phe ly khai, với một ông bố chết vì trầm cảm, với một bà mẹ ngoan đạo dằn vặt cô vì mãi chưa chịu lấy chồng, cô không có cách nào tự phòng vệ. Cô không biết tâm sự cùng ai, mà cũng không biết làm cách nào đáp trả những hành vi quấy rối của gã giao sữa. Ấy vậy mà, cô bị chính người trong gia đình của mình quy kết là đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa. Bị anh rể thêu dệt đời tư, bị hàng xóm đồn thổi, bị cả cộng đồng xa lánh, cô rơi vào một tin đồn hiểm ác mà không thể rửa sạch. Bằng câu chuyện rõ ràng về tình trạng dễ tổn thương không nơi bấu víu của một cô gái say mê sách vở, Burns dần làm sáng tỏ tại sao cô gái 18 tuổi ấy lại lạc lối trong cái thời đại mình đang sống. Chính trị thấm đẫm trong mọi cuộc chuyện trò, mọi hành động, mọi suy nghĩ của các nhân vật trong cuốn sách. Lớn lên ở Belfast trong giai đoạn xung đột vũ trang ở Bắc Ireland giữa phe ly khai và phe chính phủ, Burns chứng kiến và không thôi bị ám ảnh bởi chính những bạo lực ấy. Nhân vật “chị tư” của bà sống trong một cộng đồng phân rã và xung đột vì chính trị, nơi sự phe phái phân chia rạch ròi rõ nét giữa “ta và họ”, nơi mọi sự hớ hênh vi phạm phạm vi cũng có thể dẫn đến cái chết, nơi đánh bom và bắn súng diễn ra hằng ngày, nơi tang tóc diễn ra ở mọi nhà. Nhưng Burns chọn một lối đi riêng, như chính bà đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn: “Tiểu thuyết của tôi viết về cả một xã hội bị ảnh hưởng bởi bạo lực trong một quãng thời gian dài dặc và tồn tại dưới sức ép căng thẳng. Nó viết về cách mà các xã hội cùng với cá nhân phản ứng và phân rã khi mỗi ngày đều phải sống trong sợ hãi xen lẫn hoang tưởng và về những con người phải khốn khổ vì những tổn thương ở cả ý thức lẫn tiềm thức lén lẩn vào từng sợi từng thớ trong bản thể của họ”. Burns đã chọn một cách vô cùng độc đáo khi tạo ra các nhân vật của mình: tuyệt đối không đặt tên. Nhân vật chính được gọi là “chị tư”, cô gọi các chị của mình theo thứ tự “chị đầu, anh rể đầu, chị hai, anh rể hai”. Cô đặt biệt danh cho những người xung quanh: “bạn trai hờ”, “thằng bé hạt nhân,” “đứa con gái hạ độc”. Sự phiếm chỉ ấy được tác giả áp dụng cả cho thời gian câu chuyện này xảy ra, “giai đoạn nhiễu nhương” (mà chỉ một đôi lần nhân vật chính có nhắc đến thoáng qua là thập niên 70), cho cả vùng đất nơi Anh được gán cái tên “đất nước bên kia biển”, còn Ireland thì trở thành “bên kia ranh giới”. Được viết bằng thứ ngôn ngữ hòa trộn giữa lời ăn tiếng nói hằng ngày với văn chương tinh hoa và những pha chơi chữ tài tình, dòng tự sự thì miên man những suy nghĩ, những câu chuyện bên lề, cuốn sách Người giao sữa được nhiều nhà phê bình so sánh với thứ văn chương dòng ý thức bất tận. Tù túng, bi kịch xen lẫn hài hước, đây là một tác phẩm độc đáo khai thác cách bạo lực bị bình thường hóa đã tác động lên cách sống của cá nhân và cả xã hội. Nó cũng là một tiếng chuông vang vọng về cảnh huống con người bị giám sát, bị đưa vào vòng vây của tin đồn trong một cộng đồng bị kìm nén ngộp thở mà không thể nào tự cất tiếng giải thích. Nhóm thực hiện Bài: Zét Nguyễn *** Ngày Ai Đó McAi Đó kê súng vào ngực mà gọi tôi là đồ đĩ rồi dọa bắn cũng là ngày người giao sữa chết. Hắn bị một đội đặc nhiệm của nhà nước bắn nhưng tôi không để tâm đến chuyện người này bị bắn. Nhưng người khác lại để tâm, và những người này, như thành ngữ nói, “chỉ nhìn mặt tôi mà bắt hình dong” và tôi đang bị thiên hạ bàn tán vì có tin đồn do họ khơi mào, có lẽ đúng hơn là do người anh rể đầu khơi mào, rằng tôi đang có quan hệ tình cảm với người giao sữa này và tôi mới mười tám còn hắn bốn mươi mốt. Tôi biết tuổi hắn, chẳng phải vì hắn bị bắn rồi truyền thông đưa tin, mà bởi, nhiều tháng trước vụ ám sát, những đảng ngồi lê đôi mách đã bàn tán, rằng bốn mươi mốt với mười tám thì thật khó coi, rằng hai mươi ba tuổi chênh lệch thì thật khó coi, rằng hắn có vợ rồi và đâu thể để tôi lừa phỉnh, bởi lẽ có nhiều người trong bóng tối âm thầm theo dõi. Dường như vụ dan díu với người giao sữa này cũng là lỗi của tôi. Nhưng tôi đâu có dan díu với người giao sữa. Tôi không ưa người giao sữa và đã hoảng sợ và rối trí khi hắn đeo bám và thử gạ gẫm tôi. Tôi cũng không thích ông anh rể đầu. Gã thèm khát dựng chuyện về đời sống tình ái của mọi người. Về đời sống tình ái của tôi. Khi tôi còn nhỏ, khi tôi mười hai, gã xuất hiện đúng lúc chị cả tôi vực lại tinh thần sau khi bỏ bạn trai lâu năm vì không chung thủy với chị, người mới này làm chị có thai nên họ cưới nhau ngay tắp lự. Gã nói với tôi những câu dâm dật về tôi từ phút đầu gặp tôi — về cái hĩm của tôi, trôn tôi, bím tôi, nường tôi, húm tôi, lỗ tôi, lá đa tôi, thè le tôi — và gã dùng những từ, những từ gợi dục, mà tôi không hiểu. Gã biết tôi không hiểu nhưng cũng đủ sức đoán ra những chữ đó là tục tĩu. Cái đó khiến gã khoái trá. Gã ba mươi lăm tuổi. Mười hai với ba mươi lăm. Đó cũng là hai mươi ba tuổi chênh lệch. Vậy là gã cứ nói những câu đó và thấy có quyền nói những câu đó còn tôi thì không nói gì vì tôi không biết phải phản ứng trước người này ra làm sao. Gã chưa từng nói câu nào như vậy khi có mặt chị tôi. Lần nào cũng vậy, cứ chị rời phòng là như có cái công tắc bật lên trong gã. Được cái tôi không phải sợ gã xâm hại thể xác. Thời ấy, nơi ấy, bạo lực là tiêu chí chính để đánh giá những người xung quanh và tôi thấy ngay rằng gã không thuộc loại đó, gã không có cái thái độ đó. Dẫu vậy đi nữa, bản chất săn mồi của gã lần nào cũng dồn tôi đến chỗ sợ chết trân. Gã là hạng rác rưởi còn chị hồi ấy thì khổ sở vì dính bầu, vì còn yêu người đã yêu bao năm và không chịu tin những gì anh ta làm với chị, không chịu tin anh ta giờ chẳng hề thương nhớ chị, vì quả anh ta không nhớ. Giờ anh ta tếch theo người khác rồi. Chị không thực sự hiểu người đàn ông này, cái gã lớn tuổi hơn mà chị đã cưới khi chị còn quá trẻ, quá buồn khổ, và quá lụy tình — chỉ là không phải lụy tình vì gã — nên mới dính vào gã. Dù chị buồn nhưng tôi không đến thăm nữa vì tôi không chịu nổi lời lẽ và bản mặt gã. Sáu năm sau, khi gã tìm cách mon men đến tôi và hai chị kia, và ba chị em tôi — trực tiếp, gián tiếp, lịch sự, huỵch toẹt — cự tuyệt gã, thì người giao sữa, cũng là kẻ không mời mà tới nhưng đáng sợ hơn nhiều, nguy hiểm hơn nhiều, không biết từ đâu xuất hiện. Tôi không biết hắn giao sữa cho nhà nào. Hắn không giao sữa cho nhà tôi. Tôi nghĩ hắn không giao sữa cho ai cả. Hắn không nhận đặt hàng sữa. Hắn chẳng liên quan gì đến sữa. Hắn chưa bao giờ đi giao sữa. Còn nữa, hắn không lái xe tải chở sữa. Thay vì vậy hắn lái xe hơi, các loại xe khác, thường là xe bóng lộn, dù hắn thì lại không bóng lộn. Ấy vậy mà tôi chỉ nhận thấy hắn và mấy xe hơi của hắn khi hắn bắt đầu chui vào mấy xe đó trước mặt tôi. Rồi còn chiếc xe van đó nữa — nhỏ, màu trắng, không có gì nổi bật, luôn thay hình đổi dạng. Thỉnh thoảng cũng thấy hắn lái chiếc xe van đó. Một ngày nọ, khi tôi đang vừa đi vừa đọc Ivanhoe thì hắn xuất hiện, lái một trong số những cái xe của hắn chạy lại. Thường thì tôi vẫn vừa đi vừa đọc. Tôi thấy chuyện này chẳng có gì sai nhưng người ta cũng gộp nó vào những bằng chứng chống lại tôi. “Vừa đi vừa đọc” nhất định là nằm trong danh sách. “Cô em là cô gái ấy ấy, phải không nào? Ông gì gì đấy là bố của cô em, đúng không? Mấy anh trai cô, cậu ấy, cậu kìa, cậu kia, cậu nọ, từng chơi trong đội hurley nhỉ? Lên đi. Tôi cho cô em đi nhờ.” [] Một môn bóng chơi bằng gậy cong ở Ireland. Câu này được nói rất thản nhiên, cửa bên phía khách đã mở rồi. Tôi đang đọc thì giật mình. Tôi không nghe thấy tiếng xe này chạy lại. Người đàn ông ở ghế lái, cũng chưa từng thấy bao giờ. Hắn nghiêng người qua, nhìn tôi, tươi cười thân thiện kiểu sốt sắng. Nhưng mà giờ, ở tuổi mười tám, “tươi cười, thân thiện, sốt sắng” luôn khiến tôi tức thì cảnh giác. Không phải chuyện cho đi nhờ xe. Ở đây người có xe thường dừng xe và ngỏ lời cho những người đang ra vào khu này đi nhờ. Ngày ấy xe hơi không nhiều, còn phương tiện vận tải công cộng, vì báo động có bom và trưng dụng xe, cứ ít lâu lại bị thu hồi. Rà xe kiếm gái, từ này có lẽ mọi người ở đây biết, nhưng xảy ra ngoài thực tế thì chưa thấy bao giờ. Tất nhiên tôi chưa từng gặp vụ đó. Dẫu sao tôi cũng không muốn đi nhờ xe. Đó là nói chung chung. Tôi thích đi bộ — vừa đi vừa đọc, vừa đi vừa nghĩ. Còn nói cụ thể, tôi không muốn ngồi chung xe với người đàn ông này. Thế nhưng tôi không biết phải nói thế nào, bởi hắn không thô lỗ mà hắn lại biết gia đình tôi vì hắn đã kể tên đàn ông trong gia đình tôi để làm chứng, nên tôi không thô lỗ được vì hắn không thô lỗ. Thế nên tôi ngập ngừng, hay đứng trơ trơ, làm thế thật bất lịch sự. “Tôi đang đi bộ,” tôi nói. “Tôi đang đọc,” rồi tôi giơ cuốn sách lên, cứ như Ivanhoe giải thích được chuyện đi bộ, tính thiết yếu của việc đi bộ. “Cô em ngồi trên xe đọc cũng được kia mà,” hắn nói, và tôi không nhớ mình đáp trả ra sao. Rốt cuộc hắn cười và nói, “Thôi khỏi. Cô em đừng lo. Cứ đọc đi,” rồi hắn đóng cửa xe và phóng đi. Mời các bạn đón đọc Người Giao Sữa của tác giả Anna Burns & Thiên Nga (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Biển Chết - Jorge Amado
Tôi muốn kể cho bạn nghe những truyền thuyết về biển ở vùng Bahia. Những ngư phủ già không còn đi biển, các hoa tiêu, đám da đen xăm mình, các giang hồ bạt tử đều biết về những câu chuyện này, những bài ca được nhắc đến ở đây. Hẳn tôi đã được nghe chúng trong những đêm trăng trên các cầu tàu, trong những buổi chợ phiên, tại nhiều cảng nhỏ quanh vịnh, bên những con tàu Thủy Điển khổng lồ thả neo ở Ilhéus. Những thần dân của Iemanja có biết bao điều để kể.   Hãy đến nghe các truyền thuyết và những bài hát ấy. Hãy đến nghe câu chuyện về Guma và Livia, câu chuyện về cuộc sống và tình yêu của biển. Và nếu bạn không cảm nhận được vẻ đẹp của chúng thì lỗi không thuộc về những con người chất phác kể lại mà bởi bạn đã nghe từ miệng những người của đất liền, và thật khó cho người con của đất liền hiểu được trái tim con người nơi biển cả. Dẫu rất yêu các truyền thuyết, những bài ca ấy, luôn tôn sùng những nghi lễ của Dona Janaina, anh ta vẫn không thể biết hết mọi bí mật nơi biển cả. Bởi biển quá mênh mông huyền bí, ngay những người đi biển lão làng cũng có ai hiểu được tận tường.   IEMANJA, NỮ THẦN CỦA BIỂN CẢ VÀ NHỮNG CON THUYỀN *** Jorge Amado de Faria Leal (10/8/1912 - 06/8/2001)   Trong lịch sử văn học Brazil, không có nhà văn nào nổi tiếng, có uy tín và nhiều độc giả như Jorge Amado. Bằng những tác phẩm văn học và hoạt động chính trị không mệt mỏi, nhà văn cộng sản này đã được sự ngưỡng mộ của tầng lớp người nghèo khổ, người da đen bị áp bức.   Hầu hết những tiểu thuyết của Jorge Amado đều được thai nghén tại thành phố Salvador, thủ phủ bang Bahia thuộc vùng Đông Bắc vốn là thủ đô của Brazil c đến năm 1763.   Ra đời năm 1912 trong ngôi làng Ferradas, con một nông dân trồng ca cao, J. Amado trải qua thời thơ ấu trong một khu phố nghèo của Salvador mà mọi đường phố, ngôi nhà giờ đây vẫn gợi nhớ về quá khứ thuộc địa của Bồ Đào Nha từ thế kỷ 17.   Là nhà văn hiến mình cho sự nghiệp giải phóng người nghèo khổ, Jorge Amado bắt đầu cuộc chiến đấu từ nghề làm báo năm 14 tuổi. 5 năm sau, ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên O País do Carnaval (1931) trong khi đang học luật tại Rio. Tuy nhiên, Amado không hề hành nghề luật sư mà tự nguyện đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Brazil, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng người nghèo. Cho đến những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng loạt tác phẩm của Amado viết về người nghèo đã ra đời như: Cacau (Cacao, 1933), Suor (1934), Jubiabá (1935), Mar Morto (Sea of Death, 1936)…   Đến cuối những năm 50, các tác phẩm của Amado có một bước ngoặt sang hướng trào lộng và phê phán mà ông tự nhận là theo chủ nghĩa hiện thực XHCN. Các cuốn tiểu thuyết Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958) hoặc Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 1966) nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân Brazil. Đây là 2 cuốn tiểu thuyết được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, kể cả ở Việt Nam (cuốn Dona Flor và hai người chồng do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 1987) và được dựng thành phim năm 1977 và 1984 do các nghệ sĩ tên tuổi Marcello Mastroianni và Sonia Braga thể hiện. Đây là phim thành công nhất trong lịch sử điện ảnh Brazil, đã được các đề cử cho giải Quả cầu vàng và Giải BAFTA.   Đã nhiều lần được đề cử giải Nobel, nhưng do bị thành kiến, Amado chưa lần nào đoạt giải. Năm 1998, đất nước Brazil của Amado là khách mời danh dự tham gia Hội chợ Triển lãm sách Paris trong đó tên tuổi Amado được tôn vinh xứng đáng. Những thành công của Amado có phần đóng góp không nhỏ của bà Zélia Gattai, người bạn đời cũng là một nhà văn và nhà trí thức có tên tuổi ở Brazil.   Các tác phẩm của J. Amado đã được dịch ra 50 thứ tiếng ở 55 nước trên thế giới và được chuyển thành phim, kịch. Ở VN nhiều tiểu thuyết của J. Amado đã được dịch: Đất dữ, Miền đất quả vàng, Ca cao, Têrêza, Dona Flor và hai người chồng, Gabriela nhành quế và hoa đinh hương… Một số tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam: Biển Chết Dona Flor Và Hai Người Chồng Hảo Hán Nơi Trảng Cát Đất Dữ   Các tác phẩm:  - O País do Carnaval (1931)  - Cacau (Cacao, 1933)  - Suor (1934)  - Jubiabá (1935)  - Mar Morto (Sea of Death, 1936)  - Capitães da Areia (Captains of the Sand, 1937)  - Vida de Luis Carlos Prestes (The Life of Luis Carlos Prestes,1942) also published as “The Knight of Hope”  - Terras do Sem Fim (The Violent Land, 1943)  - São Jorge dos Ilhéus (1944)  - Seara Vermelha (1946)  - Os Subterrâneos da Liberdade (1954)  - Gabriela, Cravo e Canela (Gabriela, Clove and Cinnamon, 1958)  - A Morte e a Morte de Quincas Berro Dágua (The Two Deaths of Quincas Wateryell, 1959)  - Os Velhos Marinheiros ou o Capitão de Longo Curso (Home Is the Sailor, 1961)  - Os Pastores da Noite (Shepherds of the Night, 1964)  - Dona Flor e Seus Dois Maridos (Dona Flor and Her Two Husbands, 196  - Tenda dos Milagres (Tent of Miracles, 1969)  - Teresa Batista Cansada da Guerra (Tereza Batista: Home from the Wars, 1972)  - Tieta do Agreste (Tieta, the Goat Girl, 1977)  - Farda Fardão Camisola de Dormir (Pen, Sword and Camisole, 1979)  - Tocaia Grande (Showdown, 1984)  - O Sumiço da Santa (The War of the Saints, 1988)  - A Descoberta da América pelos Turcos (How the Turks Discovered America, 1994)  - Navegação de Cabotagem (1992)  - O Compadre de Ogum>(Companion of the God Ogum, 1995)    Mời các bạn đón đọc Biển Chết của tác giả Jorge Amado.
Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour
Người cha đã nhìn thấy mình thuở nhỏ trong hình bóng của Jesse Gilmour - cậu con trai đang ở cùng vợ cũ. Ông băn khoăn "Jesse cần phải làm một cái gì đó, nhưng chính xác là phải làm gì? Tôi có thể cho nó làm việc gì mà không động chạm đến những thất bại ở trường học? Nó không thích đọc và cực ghét thể thao. Jesse thích điều gì? Nó rất thích xem phim. Ngay cả tôi cũng thích." Và quyết định cuối cùng đã được đưa ra: "Con không cần phải làm việc, cũng không cần phải trả tiền thuê nhà. Hàng ngày con có thể ngủ tới năm giờ chiều cũng được. Nhưng không được hút thuốc... Bố muốn mỗi tuần, con sẽ cùng bố xem ba bộ phim. Bố sẽ là người lựa chọn phim. Đây là kiến thức duy nhất con sẽ phải học." Quyết định này được đưa ra bởi ông nghĩ "đây một cách tốt nhất để đi sâu vào những bộ phim nghệ thuật của Châu Âu, tôi biết những bộ phim này sẽ khiến nó không chán khi nó học được cách để xem chúng. Điều đó cũng giống như một sự biến tấu trong việc học ngữ pháp thông thường". Liệu đó có phải là một quyết định liều lĩnh, sai lầm của một người cha - người đang quyết định số phận cuộc đời con trai mình? Cuốn sách The film club là câu chuyện có thật diễn ra trong ba năm của tác giả David Gilmour và con trai ông - hai thành viên duy nhất của câu lạc bộ phim sinh hoạt hàng tuần tại ngôi nhà nhỏ của mẹ Jesses. Những bộ phim được chiếu trong câu lạc bộ này do David chọn bằng kinh nghiệp của một nhà phê bình tài năng và lém lỉnh. Mỗi bộ phim được chiếu, ông tóm tắt nội dung, giới thiệu về tác giả, các diễn viên, giải thích từ việc làm phim, các cảnh quay cho đến những việc ở hậu trường. Tham gia câu lạc bộ của hai cha con Gilmour, độc giả sẽ như được xem tận mắt những bộ phim kinh điển: Crimes and Misdemeanors (Trọng tôi và khinh tội) (1989), Basic Instinct (Bản năng gốc) (1992), Giant (Người khổng lồ) (1956), Notorious (Khét tiếng) (1946), The Shinning (Ngôi nhà ma) (1980), Around the world (Vòng quanh thế giới) (1956), Last Tango in Paris (Bản tango cuối cùng ở Paris) (1972)... Những bộ phim hiện lên thật sống động, hấp dẫn qua lời kể của David - một nhà phê bình phim kinh nghiệm và hóm hỉnh. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ kì lạ này, không chỉ đơn thuần là những kiến thức về điện ảnh, mà đó là thời gian David quan sát cậu con trai đang tuổi dậy thì, suy nghĩ những việc cần làm cho Jesse và đôi khi đó là khoảng thời gian hai cha con tâm sự về tất cả những mối quan tâm của Jesse: Tương lai, bạn gái, thuốc lá, rượu, ma túy, công việc.... "Khi con đi học ở trường, con phải lo lắng về việc bị điểm kém và gặp rắc rối. Bây giờ, con không phải đến trường nữa, con lo lắng rằng, có thể con đã hủy hoại cuộc đời mình"... Hi vọng, lo lắng, thất vọng, giận dữ, hoài nghi, mừng vui... tất cả những cảm xúc đó được trải nghiệm qua từng bộ phim và từng trải nghiệm thực tế của Jesse. Mỗi bộ phim là một câu chuyện, một thông điệp mà các đạo diện, diễn viên và ekíp thực hiện gửi gắm. Qua những thước phim ấy, David đã dạy con cách sống bằng một phương pháp đặc biệt. Ông đã biết cách để Jesse tự quyết định cuộc đời của chính mình. Jesse đã vào đời từ những thước phim... *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách:   "Một cuốn hồi kí thông thái." - USA Today "Nhẹ nhàng... một bức chân dung tuyệt đẹp, không tô vẽ về những người cha và những cậu con trai - có những điều không theo qui tắc, có những rạn vỡ, tổn thương và có cả tình yêu thương." - Newsweek "[Cuốn sách] kể lại chi tiết về mối quan hệ giữa cha và con, gần gũi và gắn bó đến mức khiến nhiều bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi thiếu niên phải ganh tỵ." - San Joe Mercury News "Chân thành... khiến tôi không chỉ một lần xúc động và bật khóc." - Douglas McGrath, Chuyên mục điểm sách của New York Times *** Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra(nhưng không phải một bất ngờ) Chloe, kẻ đam mê danh vọng ngất trời, dường như đã suy nghĩ lại. Morgan, theo lời đồn, thì đã được giải quyết nhanh gọn. Feelers bị đuổi ra ngoài. Đứa bạn thân nhất của Chloe “ngẫu nhiên” gặp Jesse tại một buổi tiệc, rồi bảo với cu cậu rằng Chloe “thực sự, thực sự nhớ nó.” Sắc thái hồng hào, tôi cho là thế, đã trở lại trên gương mặt thằng bé, thậm chí còn có cả sự khác biệt trong cách đi đứng và cái vẻ huênh hoang thì dù đã cố, vẫn không tài nào che giấu nổi. Jesse chơi cho tôi nghe một ca khúc, rồi thêm một bài hát khác nữa. Nhóm Nostalgia Đồi Bại hóa ra, ý chúng ám chỉ trong ngành công nghiệp giải trí, trở lại trong thời kỳ ăn khách. Chúng biểu diễn ở một quán bar trên phố Queen. Còn tôi thì rơi vào tình trạng bị đày ải. Ý thức rằng mối quan tâm của nó với chương trình xem phim Buried Treasures (Những kho báu bị lãng quên) đang nguội lạnh dần, tôi đã có tầm nhìn xa hơn. Cần có thứ gì đó để viết lách lúc này vì dường như thằng nhóc đang có khuynh hướng đi theo con đường đó. Nhưng hoạt động này đã có rồi, rõ ràng như việc trên mặt tôi có mũi ấy: Hai cha con đã lập một chương trình về các bộ phim có kịch bản được viết hay không chịu nổi. Chúng tôi nghiên cứu bộ phim Manhattan (năm 1979) của Woody Allen. Xem phim Pulp Fiction (năm 1994) để làm rõ sự tương phản giữa việc viết vui và viết thật. Pulp Fiction là một bộ phim vô cùng thú vị, với lời thoại long lanh tráng lệ nhưng không có khoảnh khắc có tính người thực sự nào trong đó. Tôi đã nhắc mình kể cho Jesse nghe câu chuyện về nhân vật Chekhov đi xem vở kịch The Dolh Hordse của Ibsen trong một rạp hát ở Moscow, suốt buổi diễn, anh ta quay sang một người bạn và thì thầm: “Nghe này, Isben không phải một nhà biên kịch... ông ta chẳng hiểu gì về cuộc sống cả. Trong cuộc sống thực, mọi thứ đơn giản không giống như thế này.” Mời các bạn đón đọc Cha, Con Và Những Thước Phim của tác giả David Gilmour.
Học Phí Trả Bằng Máu - Nguyễn Khắc Phục
Bộ tiểu thuyết “Bay qua cõi chết” lúc đầu dự định có 4 tập: Học phí trả bằng máu – Thành phố đứng đầu gió – Đêm trước mùa Mậu Thân – Màu da trên xác chết, nhưng vì một sự cố mà chưa một nhà văn nào trên đất nước này gặp phải, Tác giả chỉ đi được một nửa chặng đường của mình. Trong bộ tiểu thuyết này, ta sẽ bắt gặp số phận của bao con người trên mảnh đất miền Trung bị lôi cuốn vào cơn bão tố của cuộc chiến tàn khốc, dai dẳng vào bậc nhất trong lịch sử đất nước này. Ai trong số họ cũng phải trả “Học Phí Bằng Máu” cho mỗi quyết định, lựa chọn của mình… *** Tác giả Nguyễn Khắc Phục * Tên khai sinh: Nguyễn Khắc Phục, sinh ngày 24.8.1947 tại Nhang Cát, Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Nơi ở hiện nay: 2A Thủy Xưởng, thành phố Nha Trang. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Học hết phổ thông trung học. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1975). * Nguyễn Khắc Phục đã tham gia nhiều công việc như đi trên biển, làm công tác tuyên huấn, hiện nay ông là biên kịch điện ảnh. * Tác phẩm đã xuất bản: Vườn thầy Năm (kịch, 1972); Trường ca ăn cốm giữa sân (1973); Thành phố không bị chiếm (kịch, 1975); Học phí trả bằng máu (tập 1, tiểu thuyết, 1984); Thành phố đứng đầu gió (tập 2, tiểu thuyết, 1986-1989); Khát vọng (tiểu thuyết, 1986); Điệp khúc hy vọng (tiểu thuyết, 1978); Giọt nước mắt cuối cùng (tiểu thuyết, 1989); Cuối xuân (tiểu thuyết, 2 tập); cùng hàng chục kịch bản phim, sân khấu đã được dàn dựng. - Giải thưởng văn học: Giải thưởng báo Văn nghệ 1967 và tạp chí Văn nghệ Quân đội 1969 về truyện ngắn.   Mời các bạn đón đọc Học Phí Trả Bằng Máu của tác giả Nguyễn Khắc Phục.
Chỉ Cần Mẩu Khăn Giấy - Dan Roam
“Để chứng minh rằng chúng ta hiểu rõ một điều gì, không có cách nào hùng hồn bằng việc vẽ ra một bức tranh đơn giản về vấn đề đó. Và để thấy được những giải pháp ẩn bên dưới, không có cách nào hiệu quả bằng việc cầm bút lên và vẽ ra các “mảnh” vấn đề của chúng ta.”  Đó là những điều Dan Roam viết trong cuốn Chỉ cần mẩu khăn giấy, cuốn sách bán chạy nhất thế giới đã chứng minh rằng một bức vẽ đơn giản trên mảnh khăn giấy khiêm nhường có thể hiệu quả hơn nhiều so với một bài trình bày PowerPoint cầu kỳ nhất. Dựa trên 20 năm kinh nghiệm và những khám phá mới nhất về khoa học thị giác, Roam hướng dẫn người đọc cách làm sáng tỏ bất cứ vấn đề nào và “bán” bất cứ ý tưởng nào, chỉ sử dụng một bộ công cụ vô cùng đơn giản. Nhờ đó, cuốn sách đã được bình chọn là cuốn sách hay nhất năm, ở ba hạng mục khác nhau của ba tờ báo uy tín là BusinessWeek, Fast Company và Times (London), đồng thời nằm trong Top 5 cuốn sách kinh tế hay nhất của Amazon.  *** Một ngày ở MTA Một ngày mùa thu năm 2006, tôi lên chuyến tàu điện ngầm của thành phố New York, hướng về phía trung tâm. Ted Weinstein, đại diện bản quyền, cho rằng tôi có một ý tưởng tốt cho một cuốn sách về kinh doanh nên đã sắp xếp cho tôi một buổi gặp với nhà xuất bản và vài người quan trọng khác ở Penguin, nhà xuất bản lớn nhất thế giới. Ted nghĩ rằng tôi đã sẵn sàng chào bán ý tưởng của mình và đồng ý gặp tôi ở văn phòng của Penguin để giới thiệu về nó. Ngồi trên tàu, tôi lướt lại một lần nữa bài giới thiệu của mình. “Tựa đề cuốn sách của tôi là Biểu đồ triệu đô: Hướng dẫn cách tư duy thị giác cho các nhà tư vấn (The Million-Dollar Chart: The Consultant’s Guide to Visual Thinking). Nội dung của nó là làm thế nào để các nhà tư vấn kinh doanh có thể sử dụng hình vẽ để khám phá, phát triển và chia sẻ các ý tưởng đột phá hiệu quả hơn.” Lời quảng bá nghe có vẻ ổn, nhưng tôi lại lo lắng về một phần rất quan trọng. Cuốn sách xoay quanh một loạt các câu hỏi mà tôi cho rằng các doanh nhân nên tự đặt ra cho mình khi họ muốn thể hiện một ý tưởng bằng hình ảnh trực quan. Các câu hỏi rất đa dạng, chẳng hạn “Tôi nên trình bày ý tưởng của mình theo kiểu liệt kê hay kiểu trực quan?” hoặc “Tôi nên trực tiếp trình bày ý tưởng của mình hay so sánh với một điều gì khác?”. Tổng cộng có năm bộ câu hỏi loại này, và tôi đã dành nhiều năm để tinh lọc chúng. Tôi biết chúng rất hiệu quả và toàn diện đối với vấn đề tư duy bằng hình ảnh, nhưng tôi cũng biết rằng mình sẽ quên biến mất một nửa số đó khi đặt chân vào phòng họp. Tôi cần tìm cách để nhớ được toàn bộ các câu hỏi này. Tôi lôi ra cuốn sổ tay và viết lại cả năm bộ câu hỏi trong lúc tàu điện ngầm vẫn lắc lư dọc đường ray: Viễn cảnh (Vision) hay Thực thi? Thay đổi (Change) hay Nguyên trạng? Đơn giản (Simple) hay Tỉ mỉ? Định tính (Qualitative) hay Định lượng? Riêng biệt (Individual) hay So sánh? Rồi tôi bắt đầu kết hợp các chữ cái đầu tiên của mỗi câu hỏi, để xem có thể tạo thành một từ viết tắt hay một phương pháp ghi nhớ nào đó không. Mời các bạn đón đọc Chỉ Cần Mẩu Khăn Giấy của tác giả Dan Roam.