Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thời Hoang Dã

Một kị sĩ dưới cái lạnh âm hai mươi lăm độ giữa thảo nguyên mênh mông. Một cô gái điếm giữa căn phòng khách sạn vắng. Sáu đứa trẻ trong một container tại kho hàng bỏ hoang. Một phụ nữ dưới đáy hố khai thác sỏi. Một giáo sư điểu học bên ngoài căn lều giữa mùa dzüüd khủng khiếp. Họ đều không còn sống khi được tìm ra. Họ được phát hiện gần như cùng thời điểm. Các cuộc điều tra đưa Yeruldelgger cùng cộng sự đến với lãnh thổ nhiều quốc gia, khiến câu chuyện mở ra một hướng hoàn toàn khác Sau Công lý thảo nguyên, Ian Manook lại gói gọn những phong cảnh, tập tục, ẩm thực và cả những bí mật của một vùng đất xưa nay vẫn luôn bí ẩn với thế giới vào trong một cuốn “đại” trinh thám, nơi ông một lần nữa tái khẳng định tài năng trong việc xây dựng các tình tiết và soi chiếu sâu sắc vào nhiều vấn đề của xã hội hiện đại. Giải thưởng Saint-Pacôme cho thể loại trinh thám năm 2015. *** Bộ sách Yeruldelgger gồm có: Công Lý Thảo Nguyên Thời Hoang Dã ... *** Ian Manook (tên thật là Patrick Manoukian) sinh ngày 13/8/1949 tại Meudon, Pháp. Sau khi tốt nghiệp Luật châu Âu và Khoa học chính trị thuộc Đại học Sorbonne và Học viện Báo chí Pháp, ông làm phóng viên độc lập, biên tập viên và nhà văn.Ông là người ưa thích du lịch, và đã đi rất nhiều nơi: Mỹ, Canada, Ấn Độ, Kathmandu, Iceland, Belize, Braxin,…Trong sự nghiệp viết văn, ông đã được nhận giải Gulli 2012 cho tiểu thuyết Anh em Bertignac. Công lý thảo nguyên là tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Patrick Manoukian, được viết dưới bút danh Ian Manook, đã đạt nhiều giải thưởng danh giá: SNCF, Elle Polar, Quais du polar (năm 2014) và Audiolib 2015,… và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.   ***   …và đặt tay lên cò súng. Rụt cổ trong chiếc áo choàng lót lông có mũ, thanh tra Oyun cố gắng tìm hiểu tổng thể mọi việc. Cô ngồi xổm trên lớp tuyết lạo xạo và cúi xuống để nhìn cho rõ hơn. Cái lạnh rạch đứt hai bên đồng tử của cô, còn không khí giá buốt như cào xoang mũi mỗi lần hít vào. Cảm giác chẳng khác gì đang hít phải những mảnh thủy tinh vỡ. Xung quanh cô, thêm một dzüüd[^b1] khủng khiếp nữa bao trùm lên thảo nguyên trắng xóa. Đây là năm thứ ba liên tiếp nỗi bất hạnh trắng giáng xuống đất nước này. Những mùa đông lạnh giá vùng cực dài dằng dặc nối tiếp bằng những mùa hè nóng hừng hực quá ngắn ngủi. Những cơn bão tuyết kéo dài nhiều ngày khiến người ta không thể nhìn thấy cả căn lều, lạc lối để rồi đứng chết cóng khi chỉ cách lều có một mét. Rồi đến những ngày bầu trời xanh như sơn mài bị xuyên thủng bởi vầng dương nhỏ xíu trắng bệch chiếu lên một vùng đất đông cứng trong băng. Oyun không có chút ký ức nào về những dzüüd như thế trong tuổi thơ của mình. Lần đầu tiên cô còn nhớ là mùa đông năm 2001. Một mùa đông khắc nghiệt và kéo dài tới mức bảy triệu gia súc đã chết trên toàn quốc. Cô nhớ như in trong ký ức hình ảnh hàng nghìn người du mục, mới vài tháng trước còn đầy kiêu hãnh và cứng cỏi, bị đẩy dạt về thành phố để ăn xin và chết trong im lặng, rét cóng dưới cống ngầm ở Oulan-Bator. Đàn ông mất hết ngựa, phụ nữ mất hết bò và dê, trẻ con thì mất hết cừu non, thậm chí cả lũ cún con. Mùa đông năm đó đã cướp đi nhiều sinh mạng ở Mông Cổ hơn cả mấy chiếc máy bay đâm vào tòa tháp đôi ở Manhattan. Và trong hai năm tiếp theo, những dzüüd khác đã tàn sát nốt những gì còn lại của đàn gia súc yếu ớt. Đã từng có những nỗi bất hạnh đen, những mùa hè nóng như thiêu làm mặt đất nứt nẻ bị nung cháy đến tận tầng sâu, lẫn những nỗi bất hạnh trắng khi mà tuyết trùm kín thảo nguyên dưới một lớp vỏ băng giá. Hai nỗi bất hạnh khiến lũ gia súc bị bỏ mặc suốt mùa đông. Những con vật tản mát đi tìm thức ăn, lạc đàn, rồi chết vì đói và lạnh. Chỉ tới mùa xuân người ta mới tìm thấy hàng nghìn cái xác gầy trơ xương, bị tuyết làm chín cả da lẫn thịt. Thậm chí là hàng triệu, khi một dzüüd hội tụ trong nó nỗi bất hạnh còn lớn hơn cả hai nỗi bất hạnh đen và trắng. Đống xác nhỏ là chỗ nhô lên duy nhất trong bán kính nhiều kilômét thảo nguyên xung quanh. Oyun tự hỏi điều gì có thể lý giải sự hiện diện của nó, nhưng tránh tìm câu trả lời ở phía chân trời. Không khí lạnh căm khiến đường viền của những chỏm núi trở nên rõ nét tới mức mắt cô nhức như bị xé. Cô tập trung vào đám xác chất đống. Người lính lái chiếc xe bọc thép cổ lỗ từ thời Liên Xô xuống khỏi buồng lái chiếc AT-L cũ kỹ rồi đi tới bên cô. Cô nghe thấy tiếng cửa đóng sập lại, đanh gọn như tiếng một thân cây rỗng bị gãy, rồi tiếng lạo xạo đều đều của tuyết bị ép lún xuống dưới đôi bốt anh ta đi. Không nói một lời, anh ta ngồi xổm cạnh cô, đưa cho cô một cái ca sắt tây rồi lấy bình giữ nhiệt từ trong cái áo vạt dài truyền thống chần bông. “Ở trên cùng là một con bò Tây Tạng thuần hóa, cái này thì chắc rồi!” người lái xe xác nhận. “Một con bò Tây Tạng thuần hóa hoặc một con bò lai,” Oyun chỉnh lại. “Người du mục ở đây chỉ có bò lai. Hiếm khi có bò Tây Tạng hoang dã.” “Hoặc một con bò lai,” người lái xe nhượng bộ trong lúc xoay nắp chiếc bình giữ nhiệt giữa hai bàn tay đeo găng lót lông cừu to tướng. Anh ta tự rót cho mình một ca trà bơ nóng bỏng trước khi mời Oyun một ca. Là bò thuần hay bò lai, điều đó cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều. Cái xác bị phanh bụng của con vật phủ lên những cái xác khác. Băng bện thành những lọn lấp lánh các đốm sương giá trên bộ lông và trong bụng con vật. Con vật phủ phục, bốn chân xoạc ra, nom thật ghê tởm, phủ phần ruột gan đóng băng lên những thứ nằm dưới bụng nó. Ít nhất cũng không có mùi gì. Vào mùa hè, khi nhiệt độ ở cùng địa điểm lên tới hơn bốn mươi độ, đống xác chết này hẳn đã phả ra mùi xú uế không thể nào chịu nổi. Không khí lạnh giá khử trùng cho mọi thứ, kể cả nỗi kinh hoàng. Người lái xe cúi xuống để nhìn qua những rẻ sườn bị gãy của con vật, rồi lách một bàn tay vào giữa khối phủ tạng cứng đơ, rắn chắc… “Bò cái!” anh ta nói. “Đây là con cái.” “Cũng chả quan trọng!” Oyun vừa thở dài vừa bấu chặt ngón tay vào ca trà. “Thế còn bên dưới?” “Bên dưới là một con ngựa,” người lái xe nói không chút do dự. Có thể nhận ra điều đó nhờ những chiếc móng đóng vào bốn cái chân bị bẻ trật khớp nằm lẫn lộn với chân của con bò Tây Tạng. Phần thân con vật mà Oyun nhìn thấy có vẻ đã bị gãy ở lưng. Xác một con bò cái Tây Tạng bị phanh bụng phủ lên xác bị đánh gãy của một con ngựa, trong điều kiện âm hai mươi lăm độ và ở cách Oulan-Bator năm trăm kilômét, đây không hẳn là cuộc điều tra thuộc đội cảnh sát hình sự. Có lẽ cô sẵn sàng để lại vụ này cho cảnh sát địa phương. Thế nhưng lại còn cái chân đó. Một cái chân đi ủng, bàn chân vẫn còn mắc vào bàn đạp thúc ngựa, trồi ra giữa phần lưng đóng băng của con ngựa chết và cái bụng mở phanh của con bò Tây Tạng. “Đó là người kỵ sĩ,” anh lính giải thích. “Tôi hơi nghi ngờ chuyện đó,” Oyun đáp, hai bên hông đột nhiên đau buốt vì giá lạnh và mệt mỏi. “Vấn đề là tìm xem anh ta làm gì ở đó!” “Anh ta đã ở trên lưng ngựa,” người lính nhận xét. “Phải, và bây giờ anh ta ở dưới con bò!” nữ thanh tra bực bội. “Ta đã có manh mối gì về việc đây có thể là ai chưa?” “Chưa,” người lính trả lời. “Ta mới chỉ có mỗi cái chân.” “Và anh đã không tìm cách kéo anh ta ra để tìm kiếm manh mối sao?” “Tôi là quân nhân,” người lính bật ra cụt lủn. Oyun quay đầu nhìn anh ta chằm chằm không chút e dè. Yeruldelgger đã kể với cô về những người du mục trở thành viên chức nhà nước. Mọi điều tạo nên phẩm chất của người du mục cũng chính là hạn chế của người viên chức. Nhất là nếu anh ta lại là quân nhân. “Dẫu sao cũng có thể thử tìm hiểu xem người này là ai, phải không?” Oyun quỳ gối xuống tuyết mà không chờ câu trả lời, rồi nắm lấy chiếc ủng mà băng giá đã gắn chặt phần da vào bàn đạp. Cô cố kéo cái chân của xác chết ra nhưng không ăn thua. Cẳng chân, cứng đơ như một thân cây hóa thạch, không nhúc nhích lấy một li. Cô liền chống người tạo thành đồn bẩy, tì vai vào xác con bò, và trong lúc thực hiện hành động của mình, cô bắt gặp ánh mắt người lính. Anh ta không có vẻ tán thành việc cô làm. “Sao hả?” cô bực bội, thở hổn hển vì gắng sức. Cô vã mồ hôi dưới lớp áo khoác, trong khi hai lá phổi của cô như bị băng giá phủ kín từ bên trong. Cô không trong tâm trạng có thể chịu đựng vẻ uể oải cam chịu của người lính. “Không nên làm thế,” anh ta lẩm bẩm chê trách. “À vậy hả? Thế sao lại không?” nữ thanh tra vừa đáp lại vừa kéo cái chân như một tên tù khổ sai đẩy mái chèo. “Vì băng giá.” “Bởi vì anh tin là nó…” Có thứ gì đó gãy rắc và Oyun ngã bật ra sau trong tiếng lạo xạo của tuyết bị đè bẹp. Khi cô nhổm dậy, khuôn mặt bị giá lạnh cứa vào, Oyun giật mình kinh hãi vội ném ngay cái cẳng chân ra xa. “Tôi từng thấy những mùa dzüüd làm thân bạch dương bị đóng băng tới tận lõi khiến chúng trở nên giòn như thủy tinh,” người lính giải thích. “Thế nên một cái chân…” “Tôi không tin chuyện đó!” Oyun vừa lẩm bẩm vừa nhặt cái chân đóng băng cứng giơ lên. Cả xương lẫn da thịt bị bẻ gãy ngang đùi, cũng như phần vải của ống quần. Nó không còn chút đặc tính nào của một cái chân người. “Ít nhất tôi cũng có thứ để yêu cầu xét nghiệm ADN…” Cô nhìn lần cuối đống xác chết nhỏ, ngẫm nghĩ một lát, rồi ra hiệu bảo anh lính lại gần. “Theo anh, chúng ta có thể chằng một sợi xích vòng quanh rồi dùng xe của anh kéo bật cả đống này lên được không?” “Cô sẽ làm gãy con ngựa và có thể là cả người kỵ sĩ nữa…” “Chúng ta không thể để anh ta lại đó suốt mùa đông được! Sớm muộn gì lũ thú ăn xác chết cũng tìm tới.” “Cô có thể nán lại hai ngày không?” “Ở đây á?” Oyun thốt lên. “Ở chỗ tôi, tại đồn.” “Làm thế sẽ giúp công việc của tôi tiến triển như thế nào?” “Nếu cô muốn mang ba cái xác của cô về, cần rã đông chúng, và tôi biết phải làm thế nào.” “Phải, tôi cũng đã nghĩ tới chuyện đó,” Oyun đáp. “Chúng ta có thể đốt lửa xung quanh…” “Chúng sẽ không trụ được qua đêm đâu. Ở đồn có một chiếc lều cũ do những người du mục bỏ lại sau một mùa dzüüd. Chúng ta sẽ quây lều xung quanh đống xác. Rồi đốt hai hay ba lò than bên trong, và tôi có hai chiếc máy sưởi điện nhỏ. Tất cả sẽ tan chảy trong hai mươi bốn giờ. Cô có thể ra về với trọn vẹn anh chàng gãy chân của cô.” “Này, nói năng tôn trọng một chút!” Oyun cắt ngang. “Đó là một nạn nhân.” “Tôi đâu phải người đã bẻ giò anh ta!” người lính nói đùa. “Đồng ý. Nhưng dù sao cũng tôn trọng anh ta. Tôi đủ hối tiếc về những gì mình đã gây ra cho anh ta rồi.” “Cô không phải hối tiếc đâu, cô em. Cô giúp anh ta chán vạn ra rồi!” “À thế sao?” “Phải. Tổ tiên chúng tôi nghĩ rằng phải bẻ xương người chết để linh hồn họ có thể thoát ra. Họ để người chết ngoài thảo nguyên mà không chôn cất để cho thú hoang tới gặm xương và giải phóng linh hồn những người này.” Oyun chợt nhớ Yeruldelgger từng kể cho cô nghe điều tương tự. Cô cũng nhớ lại tất cả những gì ông đã dạy cô về việc tôn trọng lều du mục. “Nhất trí về chiếc lều, nhưng đừng xúc phạm các linh hồn từng sống trong đó.” “Cô đừng có lo. Các linh hồn đã rời khỏi căn lều này từ lâu rồi. Hơn nữa chúng ta sẽ không bít kín các khe. Chúng ta chỉ phủ kín nó bằng mái lều lớn thôi. Linh hồn người xưa trú ẩn trong lớp dạ. Chúng ta sẽ không quấy quả họ.” “Được,” Oyun đáp, cô bắt đầu thấy có cảm tình với anh chàng quân nhân ngày càng ít chất quân nhân và nhiều chất du mục này. “Tôi sẽ quay lại cùng anh. Tôi nợ nạn nhân cụt chân khốn khố này điều đó.” Trước khi quay trở lại chiếc xe bọc thép, cô đưa mắt nhìn đống xác lần cuối, và người lính đoán ra điều cô đang nghĩ. “Tôi từng thấy lũ bò Tây Tạng nhảy chồm lên như dê bất chấp trọng lượng của chúng. Người ta nghĩ chúng lờ đờ và điềm đạm, nhưng nếu bị săn đuổi, chúng có thể trở nên nhanh nhẹn và hung hãn. Người kỵ sĩ có thể đã đuổi theo con bò cái để bắt nó về chuồng. Có thể con ngựa của anh ta đã trượt chân, và thế là trong cơn hốt hoảng, con bò cái đã nhảy chồm tới đè lên anh ta trước khi anh ta kịp nhảy khỏi ngựa.” “Và làm gãy lưng con ngựa sao?” “Một con bò cái to có thể nặng tới ba trăm kí lô.” “Nhưng nếu vậy thì vì sao con bò cái lại bị phanh bụng ra?” “Chúng ta không biết người kỵ sĩ ở bên dưới là người như thế nào. Có khi anh ta có một cây urga. Có thể là cây sào buộc thòng lọng đã gãy trong cú ngã và con bò cái bị xuyên thủng bụng chăng?”   Mời các bạn đón đọc Thời Hoang Dã của tác giả Ian Manook & Lê Đình Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Ý
“Hàng xóm nuôi con mèo lông trắng điểm nâu. Mèo nhà mà cứ thả rông, để nó chạy sang vườn mình bứt cây đi bậy, phiền toái vô cùng, không làm sao mà chịu đựng được.” Một nhà văn có bài tùy bút đăng báo, đại ý như vậy. Báo phát hành được vài hôm thì con mèo hàng xóm chết vì trúng bả. Tình cờ là, chủ nó bắt gặp bài tùy bút. Và vấn đề là, con mèo của chị ta lông trắng điểm nâu. Chiều hôm ấy, chị ta sang vườn nhà văn để tìm vết tích bả độc. Tối hôm ấy, nhà văn bị giết. Có một nhân vật nổi tiếng từng tiêu diệt rất nhiều người, thậm chí phá tan cả mấy băng đảng, chỉ để báo thù cho một con chó. Vậy đây, liệu có phải án mạng để báo thù cho một con mèo? Từ xuất phát điểm là vụ sát hại một nhà văn nhân cách vàng trong khu phố giàu sang, Keigo Higashino kéo tuột người đọc vào một lịch sử được viết lại bằng gian dối, một ma trận được vận hành theo nguyên tắc lấy oán trả ơn. *** Về tác giả Higashino Keigo có lẽ không cần phải đề cập nhiều vì đây hẳn là cái tên đã quá đỗi quen thuộc với độc giả trinh thám Việt Nam. Bằng lối viết đặc trưng đi sâu vào tâm lý của thủ phạm với văn phong giản dị, mộc mạc nhưng ẩn chứa tầng lớp ý nghĩa, Keigo đã cho ra đời không ít tuyệt phẩm độc nhất vô nhị chỉ tính riêng ở mảng văn học trinh thám. Và “Ác ý” chắc chắn là một trong số đó. Hidaka Kunihiko – một nhà văn nổi tiếng bị sát hại ngay tại nhà riêng, thi thể nhanh chóng được phát hiện bởi vợ và người bạn thân của anh, tác giả truyện thiếu nhi Nonoguchi Osamu. Không lâu sau, hung thủ bị bắt, nhưng câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ẩn đằng sau tội ác tưởng chừng như bình thường ấy là một âm mưu hiểm độc, một “ác ý” đáng sợ đến ghê người. Mình xin không nhận xét gì thêm về tác phẩm này, vì sẽ tốt hơn nếu người đọc được tự mình trải nghiệm một cách trọn vẹn. Tuy nhiên, mình rất muốn chia sẻ một chút suy nghĩ cá nhân về nhan đề câu chuyện: “Ác ý” Đầu tiên cần hiểu “ác ý” ở đây nghĩa là gì? Theo cách hiểu của mình, “ác ý” nói đơn giản là ý muốn gây tổn thương cho người khác. “Ác ý” thường bắt đầu từ “ác cảm” (nghĩa là cảm giác ghét một ai đó), qua thời gian, “ác cảm” này vì nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có, đơn giản có, phức tạp cũng có, dần phát triển thành “ác ý”. Như nhận xét của nhà văn Natsuo Kirino, “ác ý” là một dòng chảy ngầm, là thứ mà ta không thể nhìn thấy bằng mắt, mà chỉ có thể cảm nhận khi đã ý thức được sự tồn tại của nó. Trong câu chuyện này, “ác ý” cũng khéo léo ẩn mình xuyên suốt tác phẩm, người đọc hẳn phải cực kỳ tinh tế mới nhìn thấy được sự hiện diện của nó trong từng câu chữ, từng lời nói. Nhưng không thấy không có nghĩa là không tồn tại. Keigo có tài đánh lừa độc giả, chơi đùa với tâm lý, cảm xúc và óc phán đoán của họ. Bạn nào đã đọc “Phía sau nghi can X” chắc sẽ không còn mấy xa lạ với trải nghiệm này. Tuy nhiên, sau mỗi lần bị tác giả xỏ mũi, bản thân người đọc có lẽ cũng tự ngộ ra được nhiều điều. Ví như, qua tác phẩm này, mình hiểu ra sự đáng sợ, sức tàn phá khủng khiếp mà “ác ý” có thể gây ra cho cuộc đời một con người. Nụ cười thân thiện bị lầm tưởng thành sự khinh miệt, lời nói vô tội vạ trở nên cái cớ để bắt đầu một cuộc cãi vả, sự quan tâm giúp đỡ bị ngộ nhận là thương hại, ban phát. Khi đã mang trong mình ác ý đối với một ai đó, chúng ta không thể đánh giá mọi thứ bằng cái nhìn khách quan nữa, mà qua lăng kính của sự hằn hộc, đố kỵ và thù hận. Một khi ác ý đã được hình thành, nó sẽ tiếp tục lớn dần, lớn dần, để rồi một ngày nào đó, khi thời cơ cho phép, nó trỗi dậy thống trị và xui khiến ta làm những việc tổn hại đến chính bản thân và người khác. Dĩ nhiên văn học thường mượn chuyện hư cấu để phóng đại một sự kiện, một vấn đề nào đó nhằm làm nổi bật quan điểm, góc nhìn của tác giả và thu hút sự quan tâm từ độc giả. Cá nhân mình vẫn tin rằng ác ý luôn luôn hiện hữu trong cuộc sống, nhưng không phải là vô phương hóa giải. Bởi lẽ, suy cho cùng, ác ý xuất phát từ tâm mỗi người, do đó hoàn toàn có thể nhận biết và khống chế được (tuy không hề dễ dàng). Ngoài ra, tác phẩm còn là một hồi chuông cảnh tỉnh để mỗi người tự nhìn lại bản thân, phải chăng ở một khoảnh khắc nào đó trong cuộc đời, đã từng vô tình gieo rắc ác ý mà không hề hay biết. Đấy có thể là những lời nói xấu, những định kiến vô căn cứ mà ta tự ý áp đặt cho một ai đó. Và tác động của chúng đến cuộc đời người khác, bản thân ta khó bề kiểm soát được. Steven Nguyễn review *** Tự chấm điểm: 9đ + 0.5đ cho sự độc đáo Kunihiko Hidaka, một nhà văn nổi tiếng, bị sát hại tại nhà riêng ngay trước khi chuẩn bị chuyển đến sinh sống ở Vancouver. Những người đầu tiên phát hiện ra vụ án là Rie, vợ của nhà văn và Osamu Nonoguchi, bạn thân nhất của Hidaka. Cả hai người này đều có chứng cứ ngoại phạm. Nonoguchi thậm chí còn viết nhật ký về những gì đã diễn ra trước khi phát hiện ra cái chết của bạn mình. Thám tử Kyoichiro Kaga, người điều tra vụ án này, trùng hợp thay lại là đồng nghiệp cũ của Nonoguchi khi mà hai người trước đây từng cùng là giáo viên. Nhờ nhật ký của Nonoguchi cùng với khả năng điều tra của mình, Kaga đã nhanh chóng phát hiện ra thủ phạm khi cuốn truyện chỉ mới trôi qua một nửa. Thế nhưng, giống như trong tác phẩm Sự cứu rỗi của thánh nữ, Keigo đã cho thấy sự sáng tạo và tính nguyên gốc (original) của mình khi viết nên một tác phẩm trinh thám mà danh tính hung thủ không phải là bí ẩn lớn nhất. Trong tác phẩm này, thông qua cuộc đấu trí căng thẳng, thám tử Kaga đã giải mã được một kế hoạch cực kì tinh vi và nhờ đó, sự thật của quá khứ và hiện tại mới được làm rõ. Mặc dù chưa đọc hết tất cả các tác phẩm của Keigo, đặc biệt là Bạch dạ hành nhưng cuốn Ác ý này chắc chắn sẽ là một trong những cuốn mình recommend cho ai muốn đọc truyện của Keigo. Những bí ẩn trong truyện thực sự rất hay và độc đáo, đủ để cho thấy khả năng sáng tạo của Keigo. Tuy chưa thể đem lại cảm giác như sau khi đọc cuốn The Murder of Roger Ackroyd của Agatha Christie nhưng Ác ý cũng xứng đáng để bạn bỏ thời gian nếu muốn đọc một tác phẩm trinh thám có gì đó mới lạ Quang Huy review *** Vụ án xảy ra vào thứ Ba, ngày 16 tháng Tư. Hôm ấy, tôi rời khỏi nhà vào lúc 3 rưỡi chiều để đến nhà Hidaka Kunihiko. Nhà Hidaka cách chỗ tôi một ga tàu điện. Tuy từ ga phải đi xe buýt một chút, nhưng tính cả thời gian đi bộ cũng chỉ cần hai mươi phút là đến nơi. Bình thường, tôi cũng hay đến nhà Hidaka dù không có chuyện gì quan trọng, nhưng hôm ấy thì có chuyện đặc biệt. Chính xác hơn, nếu bỏ lỡ ngày này, tôi sẽ không được gặp cậu ấy một thời gian dài. Nhà Hidaka nằm trong khu dân cư được quy hoạch ngay ngắn. Khu này toàn nhà ở cao cấp. Thỉnh thoảng còn thấy những ngôi nhà có thể gọi là biệt thự sang chảnh. Khu vực này lúc trước vốn là rừng cây, nên có nhiều nhà cứ để nguyên cây cối coi như cây trồng trong vườn. Phía sau những bức tường là mấy cây họ sồi mọc um tùm, đổ bóng xuống mặt đường. Đường đi cũng không nhỏ hẹp gì, nhưng toàn bộ khu vực này là đường một chiều. Tính an toàn cũng là một tiêu chuẩn đánh giá chăng. Khi nghe Hidaka mua nhà ở khu này mấy năm trước, tôi đã nghĩ bụng quả nhiên là vậy. Bởi những thiếu niên lớn lên ở khu vực này đều từng mơ ước được sống ở đây. Nhà của Hidaka chưa đến mức biệt thự xa hoa, nhưng chắc chắn là quá rộng cho hai vợ chồng. Mái nhà kiểu Irimoya1 truyền thống của Nhật, nhưng lại có cửa sổ lồi, cửa ra vào hình vòm, cửa sổ tầng hai trang trí những chậu hoa theo thiết kế phương Tây. Có lẽ đây là kết quả của việc dung hòa đồng đều ý kiến của hai vợ chồng. Không, nếu nghĩ đến bức tường gạch trần, thì chắc ý kiến của người vợ được thông qua nhiều hơn. Lúc trước, cô ấy từng thổ lộ muốn thử sống trong một ngôi nhà như lâu đài châu Âu. Đính chính, không phải vợ. Là vợ trước. Đi dọc theo bức tường gạch đó, đến trước cánh cổng cũng đắp những viên gạch nằm ngang, tôi bấm chuông gọi. Nhưng chờ mãi cũng không có tiếng trả lời. Nhìn lại, không thấy chiếc SAAB của Hidaka ở bãi đỗ xe. Tôi nghĩ cậu ấy đã ra ngoài. Đang tìm cách giết thời gian, tôi nhớ ra cây hoa anh đào. Trong vườn nhà Hidaka có trồng một cây hoa anh đào cánh kép, lần tôi đến mới đây, hoa đã nở được ba phần. Từ hôm đó cũng đã gần mười ngày trôi qua, không biết nó thế nào rồi. Tuy là nhà người ta nhưng tôi ỷ mình là bạn thân, nên tự ý bước vào. Lối đi vào cửa rẽ nhánh giữa chừng, dẫn đến phía Nam căn nhà. Tôi đi theo đó và vòng ra vườn. Hoa anh đào đã rụng kha khá nhưng vẫn còn lại số cánh hoa đủ để thưởng lãm. Có điều, đây không phải lúc để tôi ngắm hoa vãn cảnh. Có một người phụ nữ lạ mặt ở đó. Cô ta cúi gập người, dường như đang nhìn mặt đất. Trang phục đơn giản, quần jeans, áo len, trên tay cầm thứ gì như miếng vải trắng. “Này, cô ơi...” Tôi lên tiếng. Người phụ nữ có vẻ giật mình, nhìn về phía này rồi đứng phắt dậy. “À, xin lỗi.” Người phụ nữ nói. “Là vì cái này bị gió thổi, bay vào vườn. Hình như chủ nhà đi vắng, tôi cũng thấy thật ngại, nhưng...” Nói rồi cô ta cho tôi xem món đồ cầm trên tay. Một chiếc mũ trắng. Trông cô ta khoảng hơn ba mươi lăm tuổi. Mắt, mũi, miệng đều nhỏ, một gương mặt đơn điệu. Sắc mặt không tốt lắm. Tôi hơi nghi ngờ, vừa có một cơn gió mạnh đến mức thổi bay cả mũ sao? “Trông cô nhìn chằm chằm mặt đất...” “Vâng, à, do bãi cỏ đẹp quá nên tôi cứ nghĩ bụng không biết người ta đã chăm sóc ra sao.” “Ừm, tôi không rõ lắm. Đây là nhà người bạn thân của tôi nên...” Cô ta gật đầu. Có vẻ cô ta biết tôi không phải chủ nhân ngôi nhà. “Xin lỗi anh.” Cô ta cúi đầu rồi băng ngang qua tôi, đi về phía cánh cổng. Khoảng năm phút sau thì phải, tôi nghe tiếng động cơ ô tô ở phía bãi đỗ xe. Có lẽ Hidaka đã về. Tôi quay lại chỗ cửa ra vào. Đúng lúc chiếc SAAB màu xanh thẫm đang lùi vào bãi. Hidaka ngồi ở ghế tài xế nhận ra tôi, khẽ gật đầu. Cả Rie ngồi ghế bên cạnh cũng mỉm cười cúi chào. “Xin lỗi cậu. Tôi định ra ngoài mua sắm chút đỉnh mà kẹt xe quá. Chịu thua.” Vừa bước xuống xe, cậu ấy giơ tay trước mặt tỏ ý xin lỗi. “Chờ lâu không?” “Cũng không lâu lắm. Tôi tranh thủ ngắm cây anh đào.” ... Mời bạn đón đọc Ác Ý của tác giả Higashino Keigo.
Xử Án Trong Tu Viện - Robert Van Gulik
Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Xử Án Trong Tu Viện của tác giả Robert van Gulik.
Viên Ngọc Của Hoàng Đế - Robert Van Gulik
Tiếp tục với series Địch công án, với nguyên mẫu là Địch Nhân Kiệt, của Robert van Gulik, lần này là tiểu thuyết "Viên ngọc của hoàng đế" Bối cảnh truyện xảy ra ở Phổ Dương (cũng là bối cảnh một số tác phẩm khác như Thi nhân và sát nhân, Nối tình duyên). Trong cuộc đua thuyền rồng truyền thống hàng năm, người đánh chiêng của chiếc thuyền đang dẫn đầu bất ngờ gục xuống khi chỉ còn cách đích vài chục mét. Trong quá trình điều tra cái chết bí ẩn này, một phụ nữ bị đâm chết trong ngôi nhà hoang, tiếp theo xác một học sinh du đãng tìm thấy dưới chân tường. Cuối cùng là một án mạng nữa. Những vụ án này do nhiều hung thủ hay một hung thủ gây ra. Câu hỏi sẽ chỉ được giải đáp ở phần cuối tác phẩm. Năm 669, Địch Công vẫn giữ cương vị Huyện lệnh Phổ Dương. Dân chúng trong huyện vô cùng háo hức trước ngày hội đua thuyền rồng. Ngay trước khi thuyền chạm đích, một trống thủ bỗng nhiên tử nạn. Những kẻ mê tín rỉ tai nhau một truyền thuyết xa xưa, rằng hàng năm Nữ thủy thần đều bắt một nam tử làm cống vật. Nhưng viên ngỗ tác lại đưa ra một kết luận khác. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Của Hoàng Đế  của tác giả Robert van Gulik.