Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ở Nông Trại

Tên ebook: Chuyện ở nông trại (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Animal Farm Tác giả: George Orwell Thể loại: 100 Cuốn sách giá trị nhất thế giới, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: An Lý Công ty phát hành: Nhã Nam Nhà xuất bản: NXB Hội Nhà Văn Kích thước: 14 x 20.5 cm Số trang: 161 Ngày xuất bản: 01-03-2013 Chụp pic: Thanh Levy Type: starrats, Linhlinh Tạo ebook: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Ebook Chuyện ở nông trại - George Orwell Giới thiệu: Câu chuyện bắt đầu ở Điền Trang của ông Jones. Vào một đêm trường sau khi ông chủ Jones đã ngủ mê mệt vì say rượu, các thú vật của Nông Trại Manor tụ họp trong nhà chứa cỏ để nghe con heo già Old Major kể về một giấc mộng kỳ lạ. Khởi đầu, bằng một giọng nói rõ ràng và đầy sức mạnh, Heo già Major kể lại sự hiểu biết của mình về bản chất của cuộc đời. Theo đó, các con vật được sinh ra phải làm việc cực nhọc, chịu đựng gian khổ, không được ăn no, tới khi không còn sức lao động nữa thì bị làm thịt. Chúng bị làm nô lệ cho loài người và đây là giới sinh vật chỉ tiêu thụ mà không sản xuất. Vì vậy chỉ còn một giải pháp: phải lật đổ loài người. Mọi con vật phải đoàn kết lại vì một mục đích chung: nổi dậy. Buổi họp bị gián đoạn một thời gian ngắn vì vài con chó chạy đi đuổi chuột, tiếp theo Heo già Major đề nghị bỏ phiếu quyết định loài chuột là đồng chí (comrades), kế tiếp mọi con vật đều tán thành một quyết định khác của Heo già Major như sau: Con người là Kẻ Thù. Các con vật vì vậy cần phải tránh xa các thói quen của con người: không xài nhà ở, giường nằm, quần áo, tiền bạc, mậu dịch, rượu. Và trên hết, Tất cả chúng ta đều là Bạn. Không con vật nào được giết một con vật khác. Mọi con vật đều bình đẳng. Heo già Major đã không thể mô tả hết giấc mộng tốt đẹp của nó cho các con vật khác nghe và nó cũng dạy cho các con vật kia hát bài ca Các thú vật của nước Anh mà nó học được trong giấc mộng. Nhờ hát đi hát lại bài ca cách mạng này, các con vật đều trở nên cuồng nhiệt. Không lâu sau đó, Heo già Major qua đời nhưng các con vật còn sống khác đều cần phải hiểu rõ nền Triết học Súc vật chủ nghĩa (Animalism), đều phải nổi dậy chống lại ông chủ Jones. Công tác giảng dạy và tổ chức quần chúng được giao phó cho các con heo bởi vì loài heo được coi là những con vật tinh khôn, khéo léo. Trong số các con vật này, có hai con tài giỏi nhất là Heo Snowball và Heo Napoleon. Ngoài ra còn có Heo Squealer, một kẻ ăn nói xuất sắc. Ngày tháng trôi dần qua, ông chủ trại Jones càng uống nhiều rượu mạnh và càng trễ nải việc chăm sóc nông trại. Rồi vào một buổi chiều kia, khi ông Jones quên cho súc vật ăn uống sau một ngày dài, các con vật phá cửa, xông vào máng ăn và giành ăn uống. Ông Jones và các người làm công bèn dùng roi, gậy, đánh đập các con vật. Các con vật đói ăn này không thể chịu đựng hơn được nữa. Chúng bèn tấn công các kẻ đàn áp. Vừa ngạc nhiên, vừa hoảng sợ, cả chủ lẫn tớ đều bị đuổi khỏi nông trại. Thật là bất ngờ. Cuộc nổi dậy đã thành công. Ông chủ Jones không còn nữa, Nông trại Manor từ nay thuộc về các súc vật. Niềm vui của tất cả súc vật thật là vô kể, chúng là chủ nhân và sẽ làm việc hòa thuận với nhau suốt đời... *** Review Trại Súc Vật: Câu chuyện không dành cho thiếu nhi Không dễ thương như tên gọi, đây là cuốn sách chắc chắn sẽ khiến bạn nổi da gà trong suốt quá trình đọc nó. Cảm nhận chung: Trước khi đọc Trại Súc Vật, tôi không biết gì về chế độ Xô Viết và Thế chiến thứ 2, càng không biết Stalin và Trotsky là ai. Dĩ nhiên, bạn cũng hoàn toàn có thể không cần biết gì về những cái tên kể trên để có thể “thấm” được tác phẩm, bởi Trại Súc Vật (Tên gốc Animal Farm) thật sự là một câu chuyện rất ngắn, rất dễ đọc, đúng như Orwell mong muốn là kể lại câu chuyện Liên Xô dưới thời Stalin một cách đơn giản nhất để bất cứ ai cũng có thể hiểu. Không cần biết bối cảnh ra đời của tác phẩm, bạn vẫn có thể hình dung ra một chế độ xã hội khởi đầu bằng những mộng tưởng tốt đẹp nhưng dần dần lại dẫm chân vào chính vũng lầy của chế độ cũ khi kẻ cầm quyền bắt đầu biến chất, kéo theo bạo lực, sự dối trá đáng ghê tởm, và sự đổi trắng thay đen hoàn hảo đến mức bóp méo hoàn toàn lịch sử (Tôi chợt nghĩ đến một chế độ XHCN với hàng trăm thứ thuế chồng chéo nhau thì có khác gì thời Pháp thuộc “sưu cao thuế nặng” nhỉ? Tinh vi hơn, chắc vậy.) Tuy nhiên, nó không phải là một cuốn sách lịch sử nặng nề, dày cộp và chán ngắt như thường thấy, mọi thứ dễ chịu nhưng mỉa mai hơn rất nhiều dưới hình bóng lợn, gà, dê, và ngựa. Animal Farm là một tác phẩm trào phúng chính trị kinh điển trong suốt thể kỷ 20, và cùng với tượng đài 1984, đã đưa tên tuổi nhà văn Geogre Orwell lên một tầm cao mới và trở thành một trong những nhà văn có sức ảnh hưởng nhất lúc bấy giờ. Tóm tắt nội dung Câu chuyện kể về cuộc nổi dậy của bầy gia súc ở Điền Trang của lão Jones sau lời tiên tri của Thủ Lĩnh về một giấc mơ kỳ lạ. Đó là giấc mơ về một thế giới tự do nơi lũ súc vật được tận hưởng những thành quả lao động của mình, không phải chịu sự khổ sai áp bức của loài người. Điều này đã dẫn tới một “cuộc Khởi Nghĩa” tại Điền Trang và lũ súc vật đã giành thắng lợi. Điền Trang được đổi tên thành Trại Súc Vật. Chúng bắt đầu tự tổ chức ra một xã hội của riêng mình với hai giai cấp cơ bản nhất là người lao động- lũ gia súc và kẻ cầm quyền- những con lợn thịt, trong đó nổi bật nhất là Napoleon và Tuyết Tròn. Bảy Điều Răn đúc kết từ Súc Sinh Kinh (Animalism) được sơn hẳn lên tường như những quy tắc chung của xã hội mới mà tất cả các loài phải tuân theo để đảm bảo một cuộc sống bình đẳng, phồn thịnh và đặc biệt là để tránh lặp lại những tật xấu của con người. Tuy nhiên, câu chuyện chỉ thật sự bắt đầu khi Napoleon đứng lên trục xuất Tuyết Tròn với sự trợ giúp của lũ chó con mà nó đã bí mật thuần dưỡng thành chó săn và thay thế Tuyết Tròn làm thủ lĩnh. Một trật tự xã hội mới được thiết lập dưới cự cai trị của Lãnh tụ Napoleon, sự phân hóa giai cấp bắt đầu nhen nhóm giữa bầy lợn và những loài động vật khác. Napoleon đã từng bước vi phạm cả 7 điều răn dạy một cách tinh vi và khéo léo cùng với các cuộc thanh trừng đẫm máu để bảo vệ và củng cố quyền lực tuyệt đối của mình. Mọi thứ càng ngày càng đi xa quỹ đạo ban đầu mà cuộc Khởi Nghĩa hướng tới, lũ gia súc càng ngày càng nhận ra có điều gì đó không ổn, tuy nhiên không một sự chống trả nào được thực hiện. Trại Súc Vật trở lại là Điền Trang, và lũ lợn đã học cách đi bằng hai chân. Mọi thứ dường như quay trở về với điểm xuất phát như thời lão Jones, cuộc Khởi Nghĩa trở thành dĩ vãng xa vời. Câu chuyện kết thúc bằng bữa tiệc giữa loài người và loài lợn trong chính ngôi nhà của lão Jones, và lũ súc vật đáng thương đang nhòm vào từ bên ngoài khung cửa sổ không thể nào phân biệt nổi đâu là người và đâu là lợn. Cảm nhận về tác phẩm: Trước hết phải thừa nhận rằng đây là một tác phẩm chính trị gây tranh cãi ẩn chứa sau hình ảnh về lũ súc vật quen thuộc. Orwell đã biến một đoạn lịch sử kéo dài trong mệt mỏi của cả một đất nước thành một tác phẩm trào phúng đơn giản, cô đọng nhưng phản ánh chân thực nhất những gì đã diễn ra tại Liên Xô cũ dưới thời Stalin với đầy đủ các nhân vật và sự kiện lịch sử. Có khá nhiều ý kiến trái chiều xung quanh việc bối cảnh thật sự của Animal Farm là gì. Trong phần Lời tựa, Orwell đã nói rằng ông viết tác phẩm này như một lời cảnh báo châu Âu nói chung và nước Anh nói riêng về bản chất thật sự của Chế độ Chủ nghĩa Xã hội đang diễn ra tại Liên Xô, rằng ông “đã nghĩ đến việc vạch trần huyền thoại Xô Viết viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các ngôn ngữ khác”. Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng chính Orwell khẳng định tác phẩm của ông không ám chỉ bất cứ quốc gia hoặc hệ thống chính trị nào, những gì tác phẩm mô tả có thể xảy ra ở mọi nơi tại mọi quốc gia, trong mọi giai đoạn lịch sử. Và nó đang thật sự xảy ra, ngay tại Việt Nam, Trung Quốc, đặc biệt là Bắc Triều Tiên. Mặc dù chỉ còn sót lại ở một vài quốc gia trên thế giới, chế độ cộng sản ngày nay vẫn đang được vận hành theo một mô típ cũ kỹ, với cách thức xây dựng xã hội và cai trị con người không hề khác biệt gì so với một thế kỷ trước. Đó là lý do vì sao tôi đã rợn gai người khi đọc tác phẩm bởi nó phản ánh chính xác đến đáng sợ những gì đang diễn ra ngay tại Việt Nam, hơn 70 năm sau khi tác phẩm ra đời. Quay lại với câu chuyện, từng nhân vật sống trong Trại Súc Vật là những tượng trưng điển hình cho mỗi một lớp người hiện nay. Vai trò cầm quyền được giao cho lũ lợn- những động vật được xem là thông minh nhất trong nông trại. Đây là một hình mẫu vừa châm biếm vừa chính xác đến kinh ngạc. Không phải Chiến Sĩ- kẻ tượng trưng cho sức mạnh, hay con lừa già- tượng trưng cho sự uyên bác, mà chính sự thông minh, tham lam và tính dục của loài lợn mới là biểu tượng của quyền lực trong tác phẩm (cũng như ngoài đời thực). Không chỉ vậy, khi miêu tả những “kẻ cầm quyền” có thân hình béo ú, mặt mũi hồng hào, tôi e rằng không hình mẫu nào thích hợp hơn lũ lợn, sẽ thật miễn cưỡng để chấp nhận đếu đổi lại là chó, lừa hay bất kỳ con vật nào khác. Trong bầy lợn đó, có 4 con vật đáng để chú ý nhất là Thủ Lĩnh, Tuyết Tròn, Napoleon và Chỉ Điểm. Thủ Lĩnh là một con lợn già được cả nông trang trọng vọng vì tuổi đời và sự hiểu biết của mình. Chính nó đã đưa ra lời tiên tri về một cuộc cách mạng và đời sống sung túc, ấm no cho lũ súc vật. Đó là biểu tượng của những bậc học giả uyên bác ngày xưa, và nếu như áp dụng trong bối cảnh Liên Xô lúc bấy giờ, ta có thể hiểu rằng Thủ Lĩnh là hiện thân của Karl Marx và cũng có thể là lãnh tụ Lenin. Sau khi Lenin qua đời, người kế nhiệm tiếp theo đáng lẽ ra là Trotsky chứ không phải Stalin, nhưng Trotsky đã bị Stalin trục xuất khỏi Liên Xô và cuối cùng bị ám sát vào năm 1940, y hệt cách Napoleon đứng lên giành giật quyền lực từ Tuyết Tròn sau khi Thủ Lĩnh qua đời. Nếu như Tuyết Tròn ( Trotsky) là một nhà lãnh đạo có tài luôn lo nghĩ cho tập thể nhưng lại thiếu cảnh giác thì Napoleon (Stalin) chính là kẻ bất chấp tất cả để có được quyền lực và sẵn sàng dùng máu tươi để củng cố quyền lực đó. Điều này càng trở nên đúng đắn khi so sánh với thực trạng chính trị ngày nay, khi những kẻ lãnh đạo không chỉ cần có tài năng thực lực mà còn cần phải có quyền lực để củng cố vị trí của mình. Càng tìm hiểu kỹ về chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Trotsky, tôi càng nhận ra hai con lợn Tuyết Tròn và Napoleon đã đại diện xuất sắc đến kinh ngạc từ quan điểm chính trị đến số phận cho hai chính trị gia tên tuổi này, tuy nhiên sẽ là quá dài để nói về tất cả những điều đó trong một bài review sách, có lẽ tôi sẽ viết một bài riêng về những con lợn đặc biệt này vào một ngày khác, nếu các bạn mong muốn. Về các tuyến nhân vật khác trong chuyện, tôi không thể nào không thán phục sự tài tình của Orwell khi xây dựng Chỉ Điểm- cũng lại là một con lợn- thành một kẻ mồm loa, có khả năng lấp liếm và che dấu tất cả tội lỗi của Napoleon bằng thứ ngôn từ xảo trá và huyễn hoặc của mình. Đó là biểu tượng cho những nhân vật thêu dệt chính trị (Spin doctor) trong lịch sử, là những tờ báo lá cải đang hàng ngày che dấu sự thật chính trị sau những ngôn từ xa hoa và bóng bẩy. Những kẻ trung thành mù quáng như con ngựa Chiến Sĩ sẽ bị bóc lột, lợi dụng đến tận cùng và bị thải bỏ không thương tiếc ngay khi vừa hết giá trị lợi dụng. Hình ảnh lũ súc vật vừa gào thét vừa đuổi theo chiếc “xe cứu thương” đang đưa Chiến Sĩ đến bệnh viện nhưng thực chất lại là chiếc xe dẫn đến lò mổ là một trong những hình ảnh đắt giá của tác phẩm. Nó thể hiện sự độc tàn của “chế độ Napoleon” và sự ngờ nghệch đến đáng thương của lũ súc vật-những con vật yếu đuối, không biết quá vần A trong bảng chữ cái, luôn dễ dàng bị những lời dụ dỗ về một tương lai sung túc, tươi đẹp của Chỉ Điểm che mắt và cam chịu áp bức, khổ sai. Trong đám đông đó, con lừa già Benjamin hiện lên như tầng lớp trí thức từng trải và am hiểu sự đời. Trong lúc đám súc vật vẫn đang hân hoan trong niềm vui chiến thắng thì chỉ mình nó là dường như đã nhìn thấy một kết cục hoàn toàn khác, nó nhìn thấu từng lời dối trá của đám lợn, hiểu quá rõ bản chất xã hội nó đang sống, nhưng lại chọn cách im lặng và phó mặc mọi thứ diễn ra. Có lẽ nó đã sống đủ lâu và cam chịu đủ nhiều để hiểu rằng về bản chất, dù là người hay là lợn thì chế độ thống trị vẫn không khác là bao, và kẻ yếu thế vẫn muôn đời chịu áp bức và bóc lột, bằng cách này hay cách khác. Trại Súc Vật kết thúc lơ lửng trong hoang mang, không ai biết số phận của những con vật đó sẽ như thế nào sau cái ngày chúng kinh hoàng nhìn thấy đàn lợn đi bằng hai chân và tụ tập với bọn chủ điền trang trong căn nhà chính. Sự mỉa mai được đẩy lên tận cùng đến ám ảnh là hình ảnh lũ súc vật không thể phân biệt được đâu là lợn và đâu là người. Người, hay là lợn, về bản chất không có gì khác nhau một khi chúng trở thành những kẻ cai trị: “Nếu các bạn phải xử lý những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi phải xử lý những giai cấp hạ đẳng” (Lời Pilkington nói với Napoleon). Kết luận: Đây là tác phẩm chính trị suất sắc dành cho tất cả mọi người. Không có gì ngạc nhiên khi bản dịch Chuyện ở nông trại của Nhã Nam đã bị thu hồi một cách lặng lẽ sau khi xuất bản. Càng đọc bạn sẽ càng nhận ra những điểm tương đồng đang xảy ra ngay chính tại Việt Nam. Và hãy nhìn quanh đi, bạn có nhìn thấy con lợn nào không? Mời các bạn đón đọc Chuyện ở Nông trại của tác giả  George Orwell.  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuổi Mười Bảy - Ghec-man Mat-ve-ep
Lũ học trò cấp 3 quậy như quỉ. Giáo viên nào cũng phải chào thua. Ai nấy bước vào lớp trong phiền muộn và thường kết thúc giờ học bằng chuyến thăm viếng văn phòng cô hiệu trưởng trong cơn giận bừng bừng. Và một ngày kia, bọn con gái lớp 10 hay tin có thầy mới về làm chủ nhiệm. Thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Dạy văn. Và một mảnh đạn còn găm trong đùi thầy... "Mê say môn mình giảng. Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã suy nghĩ về nó trong những hầm đất đầy khói, trong những chiến hào ẩm ướt, trong những ngày lạnh buốt và những đêm nóng bức. Trong lúc hành quân, những lúc nghỉ ngơi và ngay cả lúc chiến đấu, anh luôn luôn mơ ước sẽ có ngày quay về mái trường thân yêu và như trước kia sẽ bắt gặp những ánh mắt ham hiểu biết của lớp trẻ. Năm năm chiến tranh, anh đã chiến đấu để giành quyền được giảng dạy." "Còn cách nào khác nữa? Không có lòng tin ở các em làm sao giáo dục cho các em những phẩm chất tốt đẹp được." "Những bài thuyết giáo dài dòng và chán ngấy về đạo đức thường chỉ giáo dục các em thành những đứa giả dối, những kẻ lừa phỉnh." Đó là thầy Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích. Truyện Tuổi mười bảy của nhà văn Ghéc-man Mát-vê-ép đưa chúng ta trở lại thời kỳ "dở dở ương ương" của tuổi mười bảy dưới mái trường, cùng thầy cô và bao sự tình ngổn ngang vỡ nát trong hồn người vừa choàng tỉnh sau cuộc chiến tranh vĩ đại của dân tộc... Cuốn tiểu thuyết còn chỉ ra diện mạo nền giáo dục Xô viết còn nhiều khiếm khuyết trong triết lí giáo dục, trong đó Côn-xtan-chin Xê-mi-ô-nô-vích đã từng là người chiến sĩ trong chiến trận thì nay vẫn tiếp tục là người chiến sĩ trong cuộc chiến cải tạo tư tưởng, vốn nhiều chông gai phiền não, cho cả thầy cô, học trò và cả cô hiệu trưởng. *** DẤU VẾT CỦA CHIẾN TRANH Trường học im lặng. Giờ học đã bắt đầu. Bà hiệu trưởng đang làm việc ở văn phòng bỗng có tiếng gõ cửa. - Xin mời vào! - Bà mời mà vẫn không ngẩng lên nhìn khách. Trên bàn là thời khóa biểu giờ giảng của toàn năm học 1947 - 1948. Natalia  Dakharốpna tay trái đưa chiếc kính cũ lên trước mắt, tay phải đưa bút chì lần theo thời khóa biểu: bà đang lập kế hoạch thăm lớp. Đưa mắt thoáng nhìn người đàn ông mới bước vào, bà chỉ chiếc ghế, mời: - Mời đồng chí ngồi. Tôi sắp xong bây giờ. Người đàn ông mới vào tay chống gậy, chậm rãi ngồi xuống ghế, lấy trong túi ra một tờ giấy đã được gập lại ngay ngắn, mở tờ giấy ra đặt xuống bàn và trong khi chờ đợi nói chuyện với bà hiệu trưởng, anh ngắm bức chân dung Lê-nin treo trên tường. Anh hiểu ngay rằng bức chân dung này do một bàn tay rất có tài nhưng còn chưa điêu luyện vẽ nên. Nhất là đôi mắt. Không biết có phải đó là một sự thành công bất ngờ hay là kết quả của một quá trình lao động miệt mài, nhưng đôi mắt ấy được vẽ rất đạt, rất sống: hơi nheo lại hiền từ và ánh lên một niềm vui sảng khoái. - Đó là tác phẩm của Vôrônhin... Khi cậu ấy học lớp bảy - Bà hiệu trưởng giải thích và đặt bút chì xuống bàn. - Vôrônhin - họa sĩ trang trí nhà hát - anh ấy học ở trường này ạ? - Vâng... Có phải đồng chí là phụ huynh học sinh không? - Không, tôi không phải là phụ huynh học sinh đâu chị Natalia Dakharốpna ạ! Tôi đến để trao đổi... Tuy rằng trước chiến tranh chúng ta đã có dịp gặp nhau. Bà hiệu trưởng chăm chú nhìn khách. Trước mắt bà là một khuôn mặt gầy gầy, nước da tái nhợt với những đường nét thanh tú, vầng trán rộng, cái nhìn chăm chú, tóc hai bên thái dương đã bạc. Đúng rồi, hình như mình đã gặp người này ở đâu rồi. Nhưng ở đâu? - Chúng ta đã gặp nhau ở hội nghị giáo viên. - Người đàn ông mỉm cười nhắc bà. Cũng lạ thật, có khi cái cười làm thay đổi vẻ mặt con người, cứ như thể người ta vừa bỏ chiếc mặt nạ ra khỏi mặt vậy. - Hình như... tôi nhớ ra rồi! Có phải anh Cônstantin Xêmiônôvich không? - Bà ngạc nhiên hỏi. - Thế là chị đã nhận ra. - Vừa nói Cônstantin vừa đứng dậy bắt tay bà. - Dĩ nhiên là tôi nhận ra rồi, tuy anh thay đổi khá nhiều. - Vâng... cũng không gặp may mắn lắm. Tôi bị thương vào ngày cuối cùng của chiến tranh và đã nằm trên giường bệnh khá lâu. Còn chị, hầu như không thay đổi tí gì, vẫn trẻ như xưa. Tóc bà Natalia Dakharốpna đã có nhiều sợi bạc nhưng rõ ràng là trông bà vẫn còn trẻ so với cái tuổi ngoài sáu mươi của bà. Với khuôn mặt kiên nghị và sinh động, lúc nào cũng gọn gàng trong chiếc áo dài sẫm màu hoặc trong bộ com-lê với mái tóc được chải rất cẩn thận, bà luôn được mọi người nhớ mặt và để ý, kể cả trong những hội nghị giáo viên đông đúc. - Hồi còn chiến tranh chị vẫn ở lại Lêningrát à? - Cônstantin Xêmiônôvich hỏi. - Vâng suốt thời gian chiến tranh. - Và vẫn dạy học? - Vẫn dạy học! Kể cả năm đầu tiên, trong mùa đông đáng sợ ấy, khi thành phố bị phong tỏa chúng tôi vẫn không bỏ học. Đại đa số học sinh sống với giáo viên. Mẹ các em phải trực chiến ở nơi làm việc, còn bọn trẻ thì ở đây... Thế còn anh? Anh bị thương có nặng lắm không? - Nói thế nào với chị nhỉ?...Mảnh đạn vẫn còn nằm trong đùi. Bây giờ thì không sao. Tôi đến gặp chị để xin việc đây! - Anh nói và chìa giấy giấy thiệu ra: Sở Giáo dục gửi đến đây. Bà Natalia Dakharốpna đọc mảnh giấy xong, ngồi tựa lưng vào ghế. - Thế anh định đến đây làm việc... luôn đấy à? - Vâng. Nếu được chị đồng ý. - Thế thì còn gì bằng! Tôi rất mừng! - Bà nói và nở một nụ cười hài lòng - Ở những lớp trên không có giáo viên văn học. Hôm qua Sở có gọi điện về nhưng tôi đi vắng. Chắc là người ta gọi điện về việc của anh. Thế thì anh đi lấy quyết định đi và ta bắt tay vào việc luôn thôi... Còn trường của anh hiện nay ra sao? - Là đống gạch vụn, chẳng còn gì chị ạ - Anh trả lời với vẻ buồn thoáng hiện lên mặt. - Thế nghĩa là anh đã đến làm việc với chúng tôi... Rất tốt, tốt lắm... - bà hiệu trưởng nhắc đi nhắc lại, tay đặt quyển sổ công tác hết chỗ này đến chỗ khác. Bà ngập ngừng một lúc rồi nhanh nhẹn đeo kính vào và nói: - Giáo viên văn học ở lớp mười vừa chuyển đi nơi khác và lớp hiện đang thiếu thầy dạy văn. Anh nghĩ sao nếu tôi định xếp anh thay vào đó? - Được thôi chị ạ. - Tôi có nhiệm vụ phải báo trước cho anh biết đó là một lớp rất ít học sinh, ít lắm, nhưng lại khó điều khiển. Các em được thả lỏng lâu rồi. Cô giáo chủ nhiệm cũ đã ba năm làm chủ nhiệm nhưng các em không gắn bó mấy. Trước mắt sẽ có sự chống đối ngầm với anh đấy, có thể có cả những điều bất ngờ không lấy gì làm thú vị lắm sẽ xảy ra nữa. Người giáo viên mới ngạc nhiên nhìn bà hiệu trưởng, nhưng anh không nói gì. - Chúng tôi đã quan tâm rất nhiều đến lớp này, - bà Natalia Dakharốpna tiếp tục - Nói chung thì bọn trẻ thông minh, không đến nỗi nào, nhưng tính tình hay thất thường và còn hay tự phụ nữa. Những lỗi ấy là do cô Dinaiđa Đmitriépna. Cô ấy nuông chiều bọn trẻ quá. Cô thường hay che chở, khen ngợi các em quá mức và cũng bỏ qua nhiều điều thiếu sót, sai lầm của các em. Trong lớp, các em được bao che. Hầu hết các em đều sống ở đây trong khi thành phố bị phong tỏa... Nhưng không sao, hình như tôi hơi quá lời. Những cái đó có lẽ không đáng lo đến thế đâu. ... Mời các bạn đón đọc Tuổi Mười Bảy của tác giả Ghec-man Mat-ve-ep.
Tình Yêu và Nỗi Buồn - Yasunari Kawabata
 Tình Yêu Và Nỗi Buồn là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Kawabata trước khi ông tự tử. Đây là một trong những tiểu thuyết đẹp nhất của ông, và có phần hấp dẫn hơn các cuốn Xứ Tuyết và Ngàn Cánh Hạc. Câu chuyện mở đầu khi nhân vật chính, Oki, một nhà văn ở tuổi ngoài năm mươi, đang trên đường trở về Kyoto vì một lòng hoài niệm nước Nhật Bản cổ. Nhưng có lẽ động lực chính, thúc đẩy Oki trở về Kyoto, là lòng ao ước đi tìm lại chút hương cố nhân ở người tình cũ của hai mươi bốn năm về trước là Otoko. Otoko hiện là họa sĩ, và vẫn còn rất đẹp. Nàng đang sống trong nhà khách của một ngôi đền cùng với Keiko, người học trò họa sĩ. Keiko là một nhân vật vô cùng đam mê và không quan tâm đến luân lý, và cũng vừa mới hai mươi tuổi. Khi ba người gặp nhau tại một điểm hẹn của định mệnh, thì chính Keiko là người đã tạo ra một sự tàn phá chết chóc vì lòng ghen và một cuộc trả thù rất lạ lùng.   Tình Yêu Và Nỗi Buồn mô tả nhiều đến khía cạnh tình dục, nhưng bằng một văn phong rất nhẹ nhàng, như mặt hồ thu phẳng lặng trong một hoa viên yên tĩnh. Tình Yêu Và Nỗi Buồn chính là một bằng chứng về nét điêu luyện tâm lý của Kawabata, cùng với nghệ thuật kể chuyện siêu đẳng, một sắc thái độc đáo trong tinh thần cổ truyền Nhật Bản. Chuyến đi của Oki về Kyoto để nghe tiếng chuông chùa và gặp lại người tình cũ, phải chăng biểu tượng niềm hoài cổ và lòng yêu mến nước Nhật Bản cổ xưa của tác giả? Buồn thương và tinh tế, sáng tác của nhà văn người Nhật Yasunari Kawabata là một trong những di sản tinh thần quý giá nhất của thế kỷ 20. Tác giả của những trang văn nhạy cảm và mong manh ấy cũng là người mang nhiều nỗi sầu thương, kết đọng lại từ cuộc đời riêng đầy tang tóc, từ cảm thức hoài cổ và những suy tư trầm mặc về cuộc sống và con người. *** Năm chiếc ghế xoay được xếp dọc một phía trong toa dành cho khách ngắm cảnh của chuyến xe lửa tốc hành Kyoto. Oki Toshio thấy chiếc ghế cuối dẫy đang lặng lẽ quay theo chuyển động của xe lửa. Chàng không thể rời mắt khỏi chiếc ghế ấy. Những chiếc ghế bành thấp bên cạnh chàng không quay. Oki ngồi một mình trong toa ngoạn cảnh. Thu mình trong chiếc ghế bành, chàng ngồi nhìn chiếc ghế cuối quay. Chiếc ghế không quay theo cùng một chiều, hoặc cùng một tốc độ: đôi khi nó quay hơi nhanh hơn, hoặc hơi chậm hơn, hoặc ngừng lại rồi quay ngược lại. Nhìn chiếc ghế quay trước mặt trong một toa xe trống vắng, chàng cảm thấy cô đơn. Những ý nghĩ của quá khứ bắt đầu chập chờn qua tâm trí chàng. Hôm ấy là ngày hai mươi chín tháng mười hai. Oki đang đi Kyoto để nghe tiếng chuông đêm giao thừa. Chàng nghe những tiếng chuông ấy qua máy phát thanh đã bao nhiêu năm rồi? Những buổi phát thanh đó bắt đầu từ bao giờ? Có lẽ kể từ đó, năm nào chàng cũng nghe những tiếng chuông, cùng với lời bình luận của nhiều xướng ngôn viên, trong lúc họ phát lại tiếng chuông từ nhiều ngôi đền khác nhau tại khắp nước. Năm cũ nhường bước cho năm mới trong buổi phát thanh, nên những lời bình luận thường có vẻ hoa mỹ và cảm động. Âm thanh rộn ràng thăm thẳm của một cái chuông khổng lồ từ một ngôi đền Phật giáo vang lên thong thả cách quãng nhau, và tiếng ngân kéo dài gợi nhắc đến nước Nhật Bản cổ và báo hiệu sự trôi đi của thời gian. Sau tiếng chuông của những ngôi đền miền Bắc thì đến tiếng chuông của Kyushu, nhưng giao thừa nào cũng chấm dứt bằng tiếng chuông của Kyoto. Kyoto có nhiều đền chùa đến nỗi đôi khi nhiều tiếng chuông hòa lẫn với nhau qua máy phát thanh. Vào lúc nửa đêm, vợ và con gái chàng vẫn bận rộn lắm, sửa soạn những món ăn đặc biệt cho ngày Tết trong bếp, dọn dẹp lại nhà cửa, hoặc có lẽ soạn sẵn những chiếc áo kimono, hoặc cắm hoa. Oki thường ngồi trong phòng ăn và lắng nghe máy phát thanh. Khi những tiếng chuông vang lên thì chàng quay nhìn lại năm cũ đang ra đi. Chàng thường cảm thấy đó là một kinh nghiệm cảm động. Có năm cảm xúc ấy rất mãnh liệt hoặc đau đớn. Đôi khi chàng bị dầy vò bởi những đau buồn và hối tiếc. Ngay cả khi sự cảm xúc của các xướng ngôn viên làm chàng khó chịu thì tiếng chuông chùa vẫn âm vọng lên trong tâm chàng. Đã từ lâu chàng ước muốn có mặt tại Kyoto vào đêm giao thừa để nghe âm thanh sống thực của những tiếng chuông đền chùa cổ xưa ấy. Điều ao ước ấy trở lại với tâm trí chàng vào cuối năm nay, và chàng bốc đồng quyết định đi Kyoto. Chàng cũng hồi hộp vì sự ao ước dai dẳng được gặp lại Ueno Otoko sau những năm xa cách, và cùng nghe tiếng chuông chùa với nàng. Otoko không hề viết thư cho chàng, kể từ khi nàng dọn về sống tại Kyoto, nhưng bây giờ nàng đã trở thành một họa sĩ theo trường phái cổ điển Nhật Bản. Nàng vẫn chưa lập gia đình. Bởi vì đó là một việc làm nổi hứng bất ngờ và chàng không thích giữ chỗ trước trên xe lửa, nên chàng chỉ tới ga Yokohama và lên toa xe ngoạn cảnh của chuyến xe lửa tốc hành Kyoto. Gần ngày lễ nên xe lửa chắc đông lắm, nhưng chàng quen một người bồi tầu và tin sẽ lấy được chỗ nhờ người ấy. Oki thấy xe lửa tốc hành Kyoto rất là thuận tiện, vì chuyến xe rời Đông Kinh và Yokohama ngay lúc xế trưa, đến Kyoto vào buổi tối, và cũng rời vào lúc xế trưa trên đường về. Chàng luôn luôn đi Kyoto bằng chuyến xe này. Phần lớn các chiêu đãi viên trên toa hạng nhất đều biết chàng. Khi đã lên xe lửa rồi, Oki ngạc nhiên thấy toa xe trống trơn. Có lẽ không bao giờ có nhiều hành khách vào ngày hai mươi chín tháng mười hai. Có thể xe lửa sẽ lại đông vào ngày ba mươi mốt. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Nỗi Buồn của tác giả Yasunari Kawabata.
Thủy Tiên Đã Cưỡi Chép Vàng Đi - Trương Duyệt Nhiên
Thủy tiên đã cưỡi chép vàng đi là khúc nhạc buồn bã, đẹp đến kì dị về cuộc đời của những bông thủy tiên. Thủy tiên là một ẩn dụ, từ điển tích chàng trai Narcisuss xinh đẹp trong thần thoại Hi Lạp, vì quá yêu bản thân mình nên đã bị hóa thành bông hoa Thủy Tiên. Trong tiểu thuyết này, hình tượng Thủy Tiên xuất hiện trong ba nhân vật nữ. Đó là Tùng Vy – dù phần lớn chỉ xuất hiện trong tâm tưởng của Quỳnh – nhưng có lẽ là bông thủy tiên rực rỡ, ấn tượng nhất. Bà có tâm hồn sôi nổi, mãnh liệt tới mức vì quá yêu bầu trời tự do và rồ dại của mình, bà đã từ bỏ Tôn Dật Hán để trôi dạt về phương trời xa lắc, sống cuộc đời bấp bênh, vô định…Đó là Quỳnh, cô gái luôn thần tượng Tùng Vy và cố gắng trở thành một tiểu thuyết gia tài hoa. Nhưng Quỳnh lại yêu cái bóng của mình theo một cách khác: cô sống quá nhiều với ký ức, ngày ngày vuốt ve những vết thương. Thế nên vết thương cũ chẳng thể lành, mà cô lại vô tình rạch thêm những vết thương mới… Và đó còn là Mạn, người mẹ ruột đài các của Quỳnh. Bà Mạn là hình ảnh bông thủy tiên Narcissus với cái nghĩa đơn giản, trần thế nhất: bà quá yêu mến, quyến luyến nhan sắc của mình, tới nỗi bà oán hận Quỳnh – bởi việc mang thai, sinh nở Quỳnh khiến bà mất đi vẻ trẻ trung thời con gái, mất bao nhiêu ánh mắt đàn ông ngưỡng mộ, xuýt xoa… Những bông thủy tiên xinh đẹp, kiêu hãnh, với một thế giới nội tâm đầy phức tạp, nhạy cảm và nhiều độc tố, họ rồi sẽ tới đâu trong cuộc đời này? Trương Duyệt Nhiên bao giờ cũng vậy, tài hoa và u oán, giọng văn mềm mại như nước, mãnh liệt như lửa, cốt truyện hấp dẫn, thế giới nội tâm được miêu tả tinh tế đến nỗi ta cảm thấy đây chính là câu chuyện của mình, ta thấy đau trong tim. Thủy tiên đã cưỡi chép vàng đi sẽ là cuốn sách phù hợp cho một buổi chiều mưa, khi bạn đang cần một cớ nào đó để được khóc. *** C on yêu, những điều này mẹ muốn nói với con: 1. Con hãy nhớ rằng đã từng đến , mẹ con mình từng cùng sống những tháng ngày, dù ngắn ngủi. 2. Con hãy nhớ rằng đã từng đau , nhớ những nuối tiếc mà bất lực của mẹ khi xa con. 3. Con hãy nhớ rằng đã từng nghe , một câu chuyện được kể bằng tình yêu – truyền từ mẹ sang con. Mồng 6/1, mình ăn sáng với bánh mì lát và mứt hạnh. Đó là bữa sáng cuối cùng, con yêu ạ. Sẽ đến một ngày, mẹ già đi, là lúc con khôn lớn như mẹ bây giờ. Còn họ , đều đã xa – những người đã từng rất quan trọng đối với mẹ, trong đó có cha con. Họ đã đi trên con thuyền đang chìm dần xuống đáy nước, về phía tiên giới lạnh lẽo. Sẽ chẳng có ai kịp chứng kiến con lớn khôn, chẳng ai kịp cùng con qua hết mọi ghềnh vượt thác, để tới những đỉnh cao hạnh phúc của cuộc đời. Họ bất quá chỉ là những thời khắc – dài ngắn khác nhau - trong đời một người. Sẽ đến một ngày, mẹ cũng trở thành - chỉ một đoạn – trong cuộc đời con, con yêu. Nhưng đừng vì vậy mà đau buồn quá. Khi còn trẻ mẹ cũng đã từng ăm ắp những kỷ niệm: chia li, vĩnh biệt, mất mát. Mỗi khi nghĩ đến sự xa lìa với những người mình yêu, tim nhói đau mà chẳng cam tâm, bởi mẹ còn quá tham lam, quá ham mê với cuộc đời này. Mẹ tin con sẽ trưởng thành nhanh chóng, và sẽ như mẹ: đến một ngày có thể buông xuôi những gì mình vốn không thể nắm bắt được, trong tâm trạng thoải mái. Con có nhớ về một giấc mơ mẹ kể, về chuyện thả cá chép không? Mẹ thường mơ về thành cổ Lệ Giang có con sông nhỏ, nước chảy rì rào, như ước mơ được bay nhảy chưa bao giờ thôi. Mẹ mơ thấy cùng cha con ra bờ sông thả cá chép. Trời ngả tối, cô bé mặc bộ áo rực rỡ của dân tộc NẠP TÂY ngồi bên thùng gỗ đầy cá chép, tay cầm cây nến hình bông hoa. Mẹ đưa tiền cho cô ấy. Cô bé dùng chiếc gáo gỗ vớt lên hai chú cá chép, xách nến dẫn hai người ra bờ sông. Cha của con là một chàng trai cao lớn, lúc nào cũng đứng bên trái mẹ. Cha mẹ cúi xuống, nhìn nhau cười, rồi nhắm mắt ước nguyện. Sau đó, thả hai chú cá chép vàng óng ánh xuống nước. Chỉ một loáng chúng đã bơi đi. Dưới ánh nến yếu ớt, chỉ thấy cá chép ve vẩy cái đuôi rực rỡ, dần dần mất hút. Con sẽ hỏi mẹ đã ước điều gì – con nhất định là một đứa bé hiếu kì, nhưng thú thật, mẹ cũng không nhớ rõ. Đại khái cũng chỉ là những điều mà nam nữ yêu nhau vẫn quan tâm, những lời vàng đá, những thủy chung, gắn bó. Con yêu, con có biết khi mẹ nhúng tay xuống nước, cá chép vùng vẫy để thoát thân, đến lúc nó bơi đi, mẹ tiếc đến nhường nào. Nhưng thời gian chờ đợi quá dài, khi ước nguyện thành hiện thực, tâm hồn có lẽ không còn là của lúc ấy nữa. Vậy nên, thời khắc ước nguyện mới chính là điều trân trọng nhất, tựa như bông hoa đầu tiên nở với mùa xuân, hương thơm chợt bừng lên, nhắm mắt lại cũng cảm thấy như đang đứng giữa một rừng hoa. Thời khắc ấy, thời gian đã dừng lại. Con yêu, con đến vào ngày thu, như một bông bồ công anh bay giữa trời, mệt nhoài đậu xuống trong cơ thể mẹ. Con là một đứa bé yên tĩnh và biết điều, con biết cuộc sống của mẹ lúc đó rối bời, nên chẳng hề làm cho mẹ thêm vất vả. Chân tay con ngọ nguậy rất nhẹ, khi mẹ đang ngủ. Vì vậy lần đầu tiên mẹ thấy con, là trong giấc mơ. Từ khi con đến, mẹ thường mơ giấc mơ thả cá chép vàng. Giấc mơ rực rỡ, lung linh, tựa hoa đăng không tắt trong đêm trăng của mùa xuân. Lúc đó, mẹ còn chưa biết rằng con đã đến, nhưng giấc mơ, đã mang lại một dự báo mơ hồ. Sách giải mộng viết, mơ thấy cá chép là điềm lành, sau đó không lâu thì con đến. Con là đóa san hô rực rỡ, dưới đáy nước, cô độc. Mẹ đoán con là bé gái, hay mang đến cho mẹ cảm xúc lãng mạn nho nhỏ và những giấc mơ. Hơn nữa, ở trong mẹ, con luôn tạo ra cảm giác dằng dai, giống như một cuộc thi kéo co. Cảm giác ấy thật kì diệu, nhưng chắc chắn đó là cuộc kéo co giữa một phụ nữ với một phụ nữ. Có lúc con nhõng nhẽo, có lúc lại bao dung. Mẹ gọi con là Narcicuss, bởi con xinh đẹp như chàng thiếu niên Narcicuss của thần thoại Hi Lạp, có khuôn mặt trắng ngần như hoa thủy tiên, và tĩnh lặng như bông hoa trong nước. Trong giấc mơ của mẹ, cá vàng bơi đi, và con đã đến. Vì thế, con sẽ sinh ra bên mặt nước, và mẹ muốn con biết yêu bản thân mình, biết tự hào về mình, tìm được niềm vui khi chỉ có một mình. Con phải biết rằng, chẳng có ai có thể vĩnh viễn đi cùng con. Nếu một khi họ bỗng nhiên ra đi, con không được hốt hoảng, không được sợ hãi. Con cần học theo Narcicuss yêu chính mình, cậu ta yêu cả cái bóng của mình, suốt ngày vui chơi cùng cái bóng, không hề chán. Mẹ ước được đem con đến thăm khu thành cổ mơ màng trong ánh nắng dịu ấy, mua cho con những áo quần sặc sỡ nhiều màu như những dải cờ đuôi nheo, ước được ngồi trên chiếc kỉ, xem con chơi xếp hình. Khi con bắt đầu bi bô, tiếng con trong như tiếng suối, con nhất định sẽ rất giỏi kể chuyện, ngồi trên xích đu, xung quanh là một vòng những người bạn nhỏ háo hức lắng nghe. Không biết con có giống mẹ, thích những câu chuyện buồn, lặng lẽ nhìn bạn bè đang rơi nước mắt, trong lòng lại thấy vui vui mãn nguyện?… Đợi con lớn thêm chút nữa, con sẽ tình cờ tìm thấy trên giá những cuốn sách mẹ viết, con có háo hức reo lên “Mẹ ơi, mẹ ơi!” và chạy về phía mẹ? Lúc đó, mẹ thấy con như chú chim đang tập bay, lông cánh rung rung dưới nắng mặt trời. Nhưng trên thực tế, mẹ đã quyết định ngăn cản con đến. Chính là hôm nay, sau ba giờ chiều, sẽ dứt con ra khỏi cơ thể của mẹ. Chúng ta sẽ xa nhau, không bao giờ gặp lại. Cho nên những điều trên chỉ là những ảo ảnh. Con ơi, mẹ của con là một nhà văn, viết lách để sống, bà ta viết rất nhiều câu chuyện. Từ những hồn ma trên tường thành cổ đến những thanh niên thác loạn trong thôn xóm, từ những bông hoa tuẫn tiết theo tình đến những con mèo đen truyền kiếp. Thế nhưng những câu chuyện của bà ta chẳng có cái nào là thật. Bà ta coi chuyện của người khác như của chính mình, coi câu chuyện của mình như của người khác. Bà ta viết truyện của người khác thì rơi lệ, viết truyện của mình thì tê dại vô cảm. ... Mời các bạn đón đọc Thủy Tiên Đã Cưỡi Chép Vàng Đi của tác giả Trương Duyệt Nhiên.
Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - James Albert Michener
Sáu người đi khắp thế gian (The Drifters), nhận giải thưởng Pulitzer, kể về cuộc hành trình vĩ đại của 6 người đến từ những vùng đất khác nhau khi bị dạt đến Torremolinos (Tây Ban Nha) vào những năm 1960. Mỗi nhân vật là một mảnh đời, một số phận riêng, tất cả đều trốn chạy cuộc sống hiện tại. Sáu Người Đi Khắp Thế Gian, như cái tên đã chuyển tải, là một cuộc hành trình của những kẻ lang bạt, hơn thế, là hành trình của những con người miệt mài trên những chặng đường vô tận để tìm cho mình một nơi dừng chân. Sáu con người, Joe, Cato, Yigal, Gretchen, Britta và Monica, là sáu mảnh đời, sáu số phận. Điểm chung duy nhất giữa họ chính là đều đang chạy trốn hiện tại đầy hỗn loạn. Và thế là câu chuyện được kể lại, thông qua một ông già ít nhiều quen biết cả sáu người, quen biết cả những gì họ chối bỏ, những gì họ muốn thoát khỏi để dấn thân vào cuộc du hành với đầy đủ mọi góc cạnh của cuộc sống đương thời. Sức mạnh, cám dỗ, cảm xúc, nhục cảm, buông thả, thương tổn... mọi trạng thái tinh thần hiện lên trong trang sách thông qua hình ảnh của những kẻ bỏ xứ để trôi dạt vô định. Sáu Người Đi Khắp Thế Gian có bóng dáng của một thiên tiểu thuyết sử thi khi lồng ghép nhiều câu chuyện vào một, tái hiện lại những khung cảnh thông qua cách kể vừa như tường thuật, vừa như nhìn thấu mà lại vừa như chiêm nghiệm. Sau cùng, Sáu Người Đi Khắp Thế Gian là hành trình vô tận con người tìm kiếm chính mình, tìm kiếm một nơi mình thuộc về dù hành trình ấy có khi kết thúc trong một cái kết hoàn hảo nhưng có khi để ngỏ vô định và mờ mịt. *** Đôi nét về tác giả James Albert Michener James Albert Michener (1907-1997) là nhà văn nổi tiếng người Mỹ với trên 40 đầu sách. Ông từng học và giảng dạy ở nhiều trường đại học, nhận bằng Thạc sĩ Văn chương năm 1937 và có hơn 30 học vị Tiến sĩ Danh dự về Nhân văn, Luật, Thần học, Khoa học. Các tác phẩm của Michener bán được gần 80 triệu bản trên khắp thế giới, nhiều lần được chuyển thể thành phim và nhận rất nhiều giải thưởng văn học uy tín (Giải Pulitzer, giải Franklin, Huy chương Vàng của Viện Nghiên cứu Tây Ban Nha, Giải Einstein của Einstein Medical College...). Michener đã tặng hơn 100 triệu đô la tiền nhuận bút cho một số trường đại học, thư viện, viện bảo tàng, chương trình nghiên cứu... Bảo tàng Nghệ thuật ở Doylestown, Pensylvania, quê ông, mang tên Michener. Sáu người đi khắp thế gian (tên gốc The Drifters) được xuất bản năm 1971 và suốt sáu tháng liền được nằm trong danh sách những tác phẩm bán chạy nhất New York. *** Lời khen tặng dành cho Sáu người đi khắp thế gian "Đặc biệt thấu hiểu giới trẻ." - Christian Science Monitor "Cuốn tiểu thuyết giang hồ thượng hạng… và một tấm gương chân thực phản chiếu đời sống đương thời." - John Barkham Reviews "Dường như chạm tới mọi khía cạnh của đời sống hiện đại." - Publishers Weekly "Truyền tải nhận thức về một thời đại mới, một thế hệ mới… cung cấp cái nhìn thấu suốt vào tình hình ‘hiện tại’." - Chicago Sun-Times "Cuốn sách bom tấn… tràn ngập sự bất ngờ, kịch tính và thú vị." - Philadelphia Bulletin     Mời các bạn đón đọc Sáu Người Đi Khắp Thế Gian của tác giả James Albert Michener.