Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cú Săn Đêm

Tháng Mười. Mùa đông đến sớm như tấm mạng sương giá xám xịt phủ lên cả thành phố, và lên tấm thân lõa thể của cô gái mười bảy tuổi bị sát hại trong một nghi lễ kỳ dị vương đầy lông vũ. Một lần nữa, chỉ huy đội trọng án Holger Munch và nữ đồng nghiệp Mia Krüger dấn thân vào cuộc truy đuổi, đào sâu vào những bí mật ẩn giấu của một thành phố tưởng như êm đềm, đến với những tâm hồn tổn thương bị quên lãng, để rồi đưa sự nghiệp và thậm chí cả đời mình vào cuộc chơi của tên sát nhân bệnh hoạn. Cú săn đêm, tập tiếp theo trong series truyện về Holger Munch và Mia Krüger của Samuel Bjørk tiếp tục đưa độc giả đến với vùng đất Bắc Âu lạnh giá ẩn chứa nhiều bí mật rợn người. “Những tình tiết của Cú săn đêm không những thu hút, mà còn phức tạp như một ma trận, với vô vàn sự kiện xoay vần phi phường, khiến chúng ta không thể rời mắt cho tới tận phút cuối.” - Crime Scene Magazine *** Vốn có ấn tượng tốt với tác giả Samuel Bjork từ sau quyển “Tôi du hành một mình” (không hiểu sao Biển cứ nghĩ tác giả này là người Do Thái nhưng thật ra ông là người Na Uy), tuy từng đọc được review chê quyển “Cú săn đêm” nhưng Biển vẫn bất chấp mua về đọc, thật may rằng đây cũng là một câu chuyện hay, đáng đọc. Trong quyển “Cú săn đêm”, thi thể một thiếu nữ khoảng 16 tuổi được tìm thấy giữa đám lông vũ, hiện trường được xếp đặt như một nghi lễ hiến tế kỳ lạ. Chỉ huy đội trọng án Holger Much, nữ cảnh sát Mia Kruger và các đồng nghiệp khác đảm nhận việc phá án. Holger Munch phải cố gắng dành thêm thời gian cho gia đình, Mia Kruger phải vật vã cân bằng giữa cuộc sống hiện tại và những ký ức đau buồn trong quá khứ, những người khác trong đội trọng án cũng phải đương đầu và tìm cách vượt qua những khó khăn riêng của họ. Vụ án xoay chuyển theo hướng tồi tệ khi họ tình cờ nhận được sự hỗ trợ của một nhân vật tài giỏi bí ẩn…   Tuy thích trinh thám Bắc Âu nhưng Biển chưa có dịp đọc nhiều truyện thuộc thể loại này, tuy nhiên hầu như quyển trinh thám Bắc Âu nào Biển đọc, các nhân vật cũng nghiện rượu hoặc / và thuốc lá. Chẳng lẽ tại khí hậu Bắc Âu quá lạnh nên con người phải dựa vào chất cồn và thuốc lá để giữ ấm, giữ minh mẫn? Trinh thám TQ thì hay ca tụng nhân vật quá đáng, ai cũng long lanh lộng lẫy khí chất siêu phàm thoát tục, còn trinh thám phương Tây / Bắc Âu thì hay tả thực khuyết điểm của nhân vật đến mức gần như hạ thấp họ. Trong quyển “Cú săn đêm” này, nhiều lúc Biển bực bội với tính cách yếu đuối và sự thiếu kiểm soát bản thân của các nhân vật chính lẫn phụ. Holger Munch là ông già 60 mà đôi lúc còn suy nghĩ hành xử như một gã trai trẻ chưa hiểu chuyện đời; Mia Kruger có tài năng thiên bẩm trong việc phá án nhưng mãi chẳng thể vượt qua nỗi đau mất chị gái từ 10 năm trước, suốt ngày chỉ lạm dụng chất cồn và các loại thuốc, còn trẻ còn sống tốt mà cứ liên tục nghĩ đến chuyện tự tử để đoàn tụ với gia đình ở thế giới bên kia; còn một nhân vật phụ khác có gia đình êm ấm, người yêu hết lòng cưng chìu, thế mà ngoại tình và bị hãm hại nguy hiểm đến tính mạng… Đồng ý rằng trong tiểu thuyết nếu xây dựng nhân vật quá hoàn hảo thì sẽ bị rơi vào hình tượng Mary Sue (xin hãy Google để biết Mary Sue là ai) nhưng nếu bản thân đã là người có trách nhiệm / học vấn / địa vị / tài sản thì nên sống sao để có ích cho chính mình và sinh linh khác. Thân làm cảnh sát mà đầu óc cứ lơ mơ, hành xử bất cẩn, đến sống chết của mình còn chưa quản được thì làm sao cứu giúp người khác. Đây có lẽ là một trong những trường hợp Biển thích truyện của tác giả nhưng không thích nhân vật do tác giả xây dựng. Nhân vật Biển thích nhất trong quyển này là Kristian Karlsen. Về cốt truyện thì Biển thấy ổn, có lẽ sẽ có độc giả cho rằng quyển này dông dài lê thê nhưng ngoại trừ các đoạn viết hơi dư thừa về khuyết điểm của nhân vật thì tình tiết truyện đủ lôi cuốn, đọc không nhàm chán. Riêng đoạn kết Biển phải đọc hai lần mới biết ai là người qua đời. Bối cảnh là mùa đông Bắc Âu nên trong truyện có nhiều câu chữ và từ ngữ nói về cái lạnh, vừa là sự lạnh lẽo của thời tiết vừa là sự lạnh lùng trong lòng người. Truyện cũng khiến Biển nghĩ ngợi một chút về các thể loại hung thủ, có khi vì tuổi thơ bất hạnh dẫn đến đầu óc không bình thường, rối loạn nhân cách phản xã hội. Hung thủ như vậy dẫu đem xử tử thì vẫn thấy đáng thương. Như mọi khi, bìa sách của Nhã Nam vẫn rất hoàn hảo. Sách trình bày đẹp, dịch thuật rất tốt, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Tuy khá thích nội dung và văn phong của tác giả Samuel Bjork nhưng nếu các quyển sau vẫn là nhân vật Mia Kruger nghiện rượu nghiện thuốc và thích tìm chết thì khả năng 50% là Biển sẽ không đọc tiếp, trừ khi cốt truyện quá xuất sắc. – Biển *** LỜI DẪN Vào một ngày thứ Sáu mùa xuân năm 1972, lúc cha xứ thành phố Sandefjord đang khóa cửa nhà thờ, một cuộc viếng thăm bất ngờ đã khiến ông phải mở cửa phòng làm việc lâu thêm một chút. Ông chưa từng gặp cô gái, nhưng ông nhận ra chàng trai. Anh ta là con cả của một trong những người đáng kính nhất trong thành phố, một tay trùm vận tải không những thuộc hàng giàu nhất Na Uy mà còn là người ủng hộ trung thành của nhà thờ, và bằng sự hào phóng của mình, bên cạnh nhiều điều khác, mười năm trước đã cho làm một bức tranh thờ lớn bằng gỗ gụ chạm khắc mười bảy cảnh đời của Chúa Jesus, một tác phẩm trang trí khiến vị cha xứ rất đỗi tự hào. Cặp đôi trẻ có một đề nghị đặc biệt. Họ muốn thành hôn, nhưng họ muốn cha xứ chủ trì nghi lễ và không có bất kỳ ai khác hiện diện. Đề nghị đó không có gì khác thường, nhưng lý do đằng sau nó thì lại kỳ lạ đến nỗi ban đầu, cha xứ tưởng cặp đôi hắn đang nói đùa. Nhưng ông hiểu tay trùm vận tải, ông biết rõ hắn sùng đạo và bảo thủ đến mức nào, và ông bắt đầu nhận ra cặp đôi trẻ quả thật nghiêm túc. Sức khỏe của tay trùm vận tải dạo gần đây không được tốt, có lời đồn hắn đang nằm chờ chết. Chàng trai trẻ đang ngồi trước mặt ông sẽ sớm được thừa kế một cơ nghiệp kếch xù; tuy nhiên, bố anh ta đã đính kèm một điều kiện vào quyền thừa kế: không giọt máu ngoại tộc nào được trộn lẫn với huyết thống gia đình. Người phụ nữ kết hôn với người kế nghiệp, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không được phép có con riêng từ những mối quan hệ trước. Mà rắc rối lại nằm ở đó. Người phụ nữ trẻ mà con trai của tay trùm vận tải đang yêu say đắm đã có con riêng từ cuộc hôn nhân trước. Một cô bé hai tuổi và một cậu nhóc đã lên bốn. Bọn trẻ sẽ được giấu đi xa, và khi đó vị cha xứ có thể lặng lẽ làm lễ thành hôn cho cặp đôi để có vẻ như cô dâu đáp ứng được yêu cầu của tay trùm vận tải, và sẽ không có ai nổi hứng tìm cách khui ra sự thật. Liệu việc đó có khả dĩ? Đây là kế hoạch mà cặp đôi đã vạch ra: chàng trai có một người họ hàng xa ở Úc. Bà ta hứa sẽ chăm sóc bọn nhỏ cho đến khi tay trùm vận tải qua đời. Một năm nữa, hoặc có lẽ là hai, và sau đó lũ trẻ có thể trở lại Na Uy. Ai mà biết được chứ, tay trùm vận tải có khi sẽ lên cổng thiên đàng sớm hơn dự kiến. Vị cha xứ nghĩ sao? Liệu ông có sẵn sàng giúp đỡ họ lúc cần? Vị cha xứ giả bộ như đang phân vân về đề nghị của họ, nhưng thật ra ông đã có quyết định. Chiếc phong bì mà chàng trai kín đáo để trên bàn rất dày, và tại sao lại không giúp đôi tình nhân trẻ chứ? Xét cho cùng, đòi hỏi của tay trùm vận tải quá mức vô lý, chẳng phải vậy sao? Cha xứ đồng ý làm lễ cho cặp đôi, và một tuần sau đó, trong buổi lễ nhỏ tổ chức tại nhà thờ đóng kín cửa, phía trước bức tranh thờ hoành tráng, họ đã thành hôn. Chưa đầy một năm sau, tháng Một năm 1973, cha xứ lại được viếng thăm lần nữa, lần này, người phụ nữ trẻ đến một mình. Rõ ràng cô đang rất bất an và thú nhận với ông cô không biết trông cậy vào ai khác. Tay trùm vận tải già đã qua đời, nhưng có điều gì đó không ổn. Cô không nghe được bất kỳ tin tức nào về bọn trẻ. Người ta hứa cô sẽ nhận được ảnh, thư, nhưng lại chẳng có gì hết, không một chữ nào, và cô bắt đầu nghi ngờ không biết người họ hàng xa ở Úc này có thật sự tồn tại hay không. Cô còn giãi bày với ông rằng người đàn ông cô lấy làm chồng hóa ra không như cô vẫn tưởng. Họ đã bất hòa đến mức không thèm nói chuyện với nhau, cũng không còn ngủ chung; anh ta có nhiều bí mật, những bí mật đen tối, những điều thậm chí cô còn không thể nói thành lời; những điều cô thậm chí khó có thể nghĩ tới. Liệu cha xứ có thể giúp cô? Ông trấn an cô, cam đoan là tất nhiên ông sẽ giúp, rằng ông sẽ cẩn thận suy nghĩ mọi chuyện, rồi ông dặn cô mấy ngày sau quay lại. Sáng hôm sau, người ta phát hiện ra thiếu phụ này đã chết, gục trên vô lăng trong xe hơi của mình giữa khe núi sâu gần căn nhà sang trọng của gia đình tay trùm vận tải tại Vesteroya, ngoài trung tâm Sandefjord. Báo chí bóng gió rằng người phụ nữ có thể đã lái xe khi đang say rượu, và cảnh sát quả thật đã xem cái chết của cô là một tai nạn thương tâm. Sau khi giúp đỡ gia đình thu xếp tang lễ, cha xứ quyết định tới thăm tay trùm vận tải trẻ tuổi. Ông giải thích, đúng theo sự thật, là người phụ nữ trẻ đã đến gặp ông hôm trước vụ tai nạn. Rằng cô rất lo lắng cho những đứa con của mình. Rằng có điều gì đó, chậc, có điều gì đó không hợp lý. Tay trùm vận tải trẻ lắng nghe và gật đầu. Giải thích rằng, buồn thay, dạo này vợ anh ta đang bệnh nặng. Phải uống thuốc. Uống rượu vô độ. Xét cho cùng, chính cha xứ đã chứng kiến cái kết cục bi thảm rồi đấy. Tay trùm vận tải trẻ viết một con số lên mẩu giấy rồi đẩy nó sang phía bên kia bàn làm việc. Thị trấn này chắc hẳn quá nhỏ đối với cha xứ? Chẳng phải sẽ tốt hơn nhiều nếu ông phụng sự Chúa ở một nơi khác, có lẽ gần thủ đô hơn? Cha xứ đứng lên khỏi ghế, và đó là lần cuối cùng ông gặp tay trùm vận tải trẻ tuổi và quyền lực. Vài tuần sau ông thu dọn hành lý. Ông không bao giờ đặt chân trở lại Sandefjord nữa. Trên sofa, cô gái nhỏ cố hết sức nằm yên dưới tấm chăn, đợi những đứa trẻ khác chìm vào giấc ngủ. Em đã quyết định. Tối nay, em sẽ làm việc đó. Em sẽ không phải sợ hãi nữa. Không phải chờ đợi nữa. Em đã bảy tuổi và đã người lớn lắm rồi. Em sẽ rời đi ngay khi trời vừa tối. Em đã không nuốt viên thuốc ngủ dành cho tối nay. Chỉ đẩy nó xuống dưới lưỡi, giữ nó ở đấy trong lúc em cho dì Julia thấy em ngoan như thế nào. “Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Anh trai em đã làm thế này một thời gian dài. Kể từ khi họ nhốt cậu vào trong hầm đất nện. Tối nào cậu cũng giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt. "Cho dì xem nào.” Lè lưỡi ra. “Ngoan lắm. Người tiếp theo.” Ba tuần trong bóng tối vì không chịu xin lỗi. Tất cả bọn trẻ đều biết cậu không làm gì sai, nhưng người lớn vẫn luôn nhốt cậu vào hầm. Kể từ lúc đó cậu đã thay đổi. Mọi tối cậu đều giấu viên thuốc dưới lưỡi chứ không nuốt, và khi viên thuốc của em bắt đầu phát huy tác dụng và em dần chìm vào giấc ngủ, em sẽ nhìn thấy cái bóng của cậu nhón chân rời khỏi phòng rồi biến mất. Cô gái nhỏ đợi cho đến khi nghe ra bọn nhóc đã chìm vào giấc ngủ rồi lẻn ra khỏi nhà. Trời đã vào đông nhưng vẫn còn ấm áp, hoàng hôn đã nhẹ nhàng buông xuống giữa những tán cây. Cô gái nhỏ đi chân trần băng qua khu vườn, nép mình trong bóng tối cho đến khi được cây cối che khuất. Sau khi chắc chắn mình sẽ không bị phát hiện, em chạy dọc con đường nhỏ nằm giữa những hàng cây cổ thụ hướng về phía cánh cổng mang dòng chữ “Kẻ xâm phạm sẽ bị truy tố”. Đây là nơi em quyết định bắt đầu cuộc tìm kiếm. Em đã nghe anh trai và một thằng nhóc khác thì thầm về nó. Một nhà kho cũ đổ nát, một cabin nhỏ bị bỏ quên nằm tít tận phía bên kia khu đất, nhưng em chưa bao giờ tận mắt thấy. Ngày nào cũng vậy, chúng luôn bị đánh thức vào sáu giờ sáng và lên giường vào chín giờ tối. Luôn là một quy trình giống nhau, không có sự thay đổi, với hai lần nghỉ mười lăm phút giữa các tiết học, bài tập về nhà, yoga, giặt giũ và đủ mọi việc vặt phải hoàn thành. Cô gái nhỏ mỉm cười trước tiếng dế kêu, và em cảm thấy những ngọn cỏ mềm mại đang mơn trớn bàn chân khi em rời khỏi con đường mòn và di chuyển thận trọng dọc hàng rào đến nơi em chắc mẩm cái cabin tọa lạc. Chẳng hiểu vì sao, em không sợ hãi. Em cảm thấy lâng lâng; nỗi khiếp sợ phải một lúc nữa mới đến; ngay bây giờ, em thấy hạnh phúc, tự do như một chú chim, một mình với những suy nghĩ trong khu rừng xinh đẹp tỏa mùi dễ chịu. Em cười rạng rỡ, lướt ngón tay bên trên một cái cây nhỏ giống hình ngôi sao; cảnh tượng gần giống như em thường mơ những khi viên thuốc ngủ không phát huy hết công dụng. Em vội thụp xuống bên dưới một cành cây và thậm chí không dám nhảy dựng lên khi nghe thấy tiếng sột soạt ở bụi cây gần đó. Có lẽ một con gấu túi đã đánh bạo trèo từ trên cây xuống. Em cười khúc khích một mình và tự hỏi không biết nếu vỗ về một con gấu túi thì sẽ như thế nào. Em biết chúng có móng vuốt sắc bén, và không được âu yếm cho lắm, nhưng em vẫn cố gắng tưởng tượng ra những xúc cảm khi xọc tay vào bộ lông mượt mà ấm áp của chúng, khi cái mũi mềm mại cù vào cổ em. Em suýt chút nửa quên mất lý do mình ra ngoài, nhưng rồi bỗng nhiên em nhớ ra và dừng khựng khi bức tường cabin xuất hiện ngay phía trước. Cô gái nhỏ nghiêng đầu chăm chú nhìn những tấm ván gỗ màu xám. Vậy ra nó có thật. Có một nơi ở trong rừng. Một nơi ta có thể ẩn náu. Được ở một mình. Em rón rén bước tới gần ngôi nhà gỗ và cảm thấy một niềm phấn khích râm ran khắp cơ thể khi em tiến dần đến cửa. Cô gái nhỏ không hề biết cảnh tượng đang đợi phía trước sẽ thay đổi cuộc đời em mãi mãi, và nó sẽ ám ảnh em hàng đêm suốt bao nhiêu năm tháng sắp tới: dưới tấm chắn trên chiếc sofa cứng, trên chuyến bay xuyên lục địa sau khi cảnh sát phát hiện ra những đứa trẻ đang kêu khóc, dưới chiếc chăn lông vịt trên chiếc giường êm ái tại một đất nước mới, nơi những âm thanh đều khác biệt. Em không biết gì về chuyện này khi với tay về phía nắm đấm cửa bằng gỗ và từ từ mở cánh cửa cọt kẹt. Bên trong tối thui. Mất một vài giây mắt em mới có thể nhìn rõ, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa. Lúc đầu chỉ là những đường nét mơ hồ, rồi mọi thứ trở nên rõ ràng hơn, cậu đang ở trong nhà. Anh trai em. Cậu không mặc quần áo. Cậu hoàn toàn trần truồng. Trần truồng, nhưng cơ thể lại được bao phủ bởi… lông vũ? Cậu co rúm trong góc, giống như một con chim, một sinh vật vặn vẹo từ thế giới khác, miệng ngậm gì đó. Một con thú nhỏ. Một con chuột? Anh trai em người phủ đầy lông vũ và đang ngậm một con chuột chết giữa hai hàm răng. Đây sẽ là hình ảnh thay đổi cuộc đời em mãi mãi. Anh trai em từ từ quay lại nhìn em, đôi mắt ngập tràn vẻ băn khoăn, như thể không nhận ra em là ai. Ánh sáng xuyên qua cái cửa sổ bẩn thỉu chiếu xuống đôi bàn tay phủ lông vũ của cậu, lúc này đang chậm chạp cử động trong không trung. Miệng cậu ngoác ra thành một nụ cười toe toét để lộ hàm răng trắng bóc trong lúc cậu lấy con chuột trong miệng ra, đôi mắt tái dại nhìn thẳng vào mắt em và nói, “Tôi là con cú.” Mời các bạn đón đọc Cú Săn Đêm của tác giả Samuel Bjørk.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Tội Ác Trứ Danh
“Những tội ác trứ danh” là tuyển tập truyện tội phạm dựa trên những sự kiện có thật của Alexandre Dumas. Thời gian đầu khi mới bắt đầu chuyển sang viết tiểu thuyết, Dumas cũng biên soạn “Những tội ác trứ danh” trong ba năm từ 1839 đến 1841, với sự giúp đỡ của một số người bạn. Tuyển tập này có 17 truyện, bao gồm cả những truyện ngắn và các truyện dài, kể lại chi tiết những tội ác diễn ra trong suốt 5 thế kỷ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, trên cả Pháp, Nga, Netherlands, Đức, Ý,… Bạn đọc sẽ được đọc về tội loạn luân tàn nhẫn và vụ án con giết cha nổi tiếng của gia đình Cenci (1598); vụ ám sát tàn nhẫn nữ hầu tước de Ganges do hai tên anh chồng là linh mục và hiệp sĩ gây ra (1657); những tội lỗi và hành vi vô đạo đức, vô pháp của gia đình Borgia quyền thế, đầy mưu mô và bạo lực; theo dõi hành trình chạy trốn, bị cấp dưới phản bội, và cuối cùng là án tử hình của thống chế Joachim Murat – em rể của Napoléon Bonaparte – dưới tay của kẻ thù là Ferdinand IV 1815 – 1825, vua mới của xứ Naples;… Sẽ là quá tải nếu tóm tắt tất cả nội dung của 18 truyện “Những tội ác trứ danh”. Vậy nên, trong phạm vi bài viết, tôi sẽ chỉ đề cập đến các điểm chính của tập truyện, và dành phần trải nghiệm thú vị nhất cho người đọc. “Những tội ác trứ danh” là tuyển tập mô tả tỉ mỉ, chi tiết bậc nhất về tội ác: động cơ của tội phạm, những âm mưu, hành động dẫn dắt; các đồng phạm và nhân chứng; cách nạn nhân sa bẫy, chống trả và chết; những manh mối khi điều tra; phán xử của tòa án. Dumas đã không tiếc ngôn từ của mình để mô tả những cảnh tượng bạo lực, những hình thức tra tấn ép cung, những cách thức giết người rùng rợn đã được thực hiện trên thực tế. Toàn bộ “Những tội ác trứ danh” có thể coi là một tập hồ sơ tội phạm kỹ lưỡng nhất, xứng đáng là đóng góp lớn cho ngành tội phạm học và tâm lý tội phạm sau này. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là hồ sơ tội phạm, thì có lẽ “Những tội ác trứ danh” sẽ không nổi tiếng đến vậy. Các câu chuyện được Dumas biên soạn lại, kể lại bằng giọng điệu và kết cấu của riêng ông. Đọc “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc chắc chắn sẽ không cảm thấy khô khan hay nhàm chán, cũng không hề cảm thấy toàn bộ là bạo lực và giết chóc. Có thể coi “Những tội ác trứ danh” là sáng tạo của Dumas dựa trên những chất liệu thực tế. Ông dẫn dắt độc giả vào từng câu chuyện riêng, lúc thì giới thiệu các nhân vật ngay từ đầu, lúc thì đi từ cái chết của nạn nhân để lật ngược về quá khứ, lúc lại mô tả quang cảnh rộng lớn của một vùng đất nào đó trước rồi dần dần thu hẹp vào con người… Các câu chuyện của Dumas vì thế mà trở nên hấp dẫn hơn, li kỳ hơn, đậm chất văn chương hơn. Cách dùng ngôi thứ ba của Dumas khiến cho người đọc trở thành chúa tể của mỗi câu chuyện. “Vị chúa” nào cũng biết trước kết cục, nhưng lại cần gã đàn ông vui tính và phóng túng tên Dumas dắt đi, dò dẫm từng bước, từng bước, qua từng trang sách, vì cái hay của những câu chuyện về tội ác không phải ở kết quả, mà là ở hành trình: từ hành trình gây án cho đến hành trình phá án và chịu tội của kẻ thủ ác. Và dù có những câu chuyện bạo lực, kinh dị, dưới ngòi bút của Dumas, vẫn có thể coi “Những tội ác trứ danh” là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn u ám qua những ám ảnh rùng rợn, những mô tả chi tiết, cận cảnh về cái chết mà nó bày ra cho người đọc. Tất cả những yếu tố trên khiến “Những tội ác trứ danh” trở thành một trong những tác phẩm tiên phong cho thể loại văn học kinh dị giật gân, tội phạm. Cùng với Mary Shelley, Edgar Allan Poe, Robert Louis Stevenson,… Alexandre Dumas với “Những tội ác trứ danh” đã đem lại những đóng góp quan trọng cho thể loại văn học thách thức tâm lý người đọc này. Có một điều cần lưu ý, đó là: Khi “làm quen” với Dumas qua “Những tội ác trứ danh”, độc giả cần ghi nhớ rằng đây chưa phải Dumas lão luyện khi viết “Bá tước Monte Cristo” hay “Ba chàng lính ngự lâm”, mà mới đang là một kịch gia đang tập tành viết tiểu thuyết. Tuy nhiên, tài năng kể truyện và dẫn dắt người đọc bằng câu chữ của Dumas đã được thể hiện rõ nét ở ngay những năm 1839-1841 này. Trên thực tế, Dumas đã viết “Những tội ác trứ danh” trước khi ra mắt loạt tiểu thuyết phiêu lưu lịch sử tuyệt vời của ông (“Bá tước Monte Cristo” được hoàn thành vào năm 1844, “Ba chàng lính ngự lâm” được viết chỉ trong 4 tháng – từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1844). Như vậy, có thể coi “Những tội ác trứ danh” chính là cuốn sách đặt nền móng cho những tác phẩm trong tương lai của Alexandre Dumas. Trong tuyển tập này, ông đã đúc rút được nhiều kiến thức sâu rộng về các quốc gia và các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đồng thời những câu truyện lịch sử ấy cũng giúp Dumas hiểu thêm về cơ chế hành động, đặc điểm tâm lý của nhiều kiểu người trong xã hội, từ quý tộc cho đến kẻ hầu, từ người trong quân đội cho đến người thường, phụ nữ, đàn ông, giám mục, trẻ nhỏ, hoàng thân quốc thích,… Cùng với kinh nghiệm sống phong phú của mình, chỉ 3 năm sau (1844), Dumas đã công bố với người đọc những bộ tiểu thuyết đồ sộ nhất, hấp dẫn nhất, phiêu lưu nhất, lãng mạn nhất của mình. Ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có một bản dịch đầy đủ nào của “Những tội ác trứ danh”. Bản dịch phổ biến nhất hiện nay do NXB Văn Học ấn hành vào năm 2003, do Mai Thế Sang dịch. Tuy nhiên, bản dịch cũng chỉ có 6/18 truyện. Các bản ebook tiếng Việt hiện có trên Internet cũng từ bản dịch này ra. Do vậy, nếu muốn đọc toàn bộ “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc sẽ phải đọc bằng tiếng Anh hoặc đọc nguyên gốc tiếng Pháp. (Đọc bản tiếng Anh tại đây). Qua tìm hiểu về cuộc đời của Alexandre Dumas và tuyển tập “Những tội ác trứ danh” có thể thấy Dumas là một văn hào đặc biệt: Ông có cuộc đời tự do, thống khoái. Cái lãng mạn của Dumas không phải là xa rời thực tế, chạy trốn hiện thực, đau khổ với hiện thực rồi khát khao vượt thoát, mà là chấp nhận hiện thực và coi hiện thực (dù khắc nghiệt đến đâu) là một cuộc phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu ấy có lúc khó khăn thử thách, nhưng cũng có lúc vui vẻ sảng khoái. Trong cuộc đời mình, Dumas sống và viết, ăn chơi và trả nợ, phiêu lưu và chết. Tác phẩm của ông, dù u ám hay bay bổng, thì đều thể hiện rất rõ tinh thần phiêu lưu. Tinh thần phiêu lưu ấy, nếu không phải là một người dám mạo hiểm, dám sống hết mình, dám tự do, thì sẽ không thể nào có được. ***   GIA ĐÌNH HỌ XĂNGXY (1598) Khi nào các bạn có điều kiện đến tham quan La Mã, mời các bạn đến thăm tu viện Bramăng. Giữa tu viện, tại một chỗ lõm vài piê có xây một đền thờ nhỏ, cấu trúc pha tạp kiểu Hy Lạp cổ đại với kiểu gôtích phong kiến, rồi các bạn đi lên qua một cửa ngang và chính giữa nhà thờ. Ở đấy người dẫn đường sẽ hướng dẫn các bạn xem trong miếu đường thứ nhất, bên phải bức họa "Chúa Jêsu bị đánh đòn" của Xêbáttiêngđen Piômbô và trong miếu đường thứ ba bên trái "Jêsu trong mộ" của Fiamingô. Sau khi đã chiêm ngưỡng thỏa mãn những tác phẩm đó, các bạn tìm dưới chân bàn thờ, một tấm bia đá mà các bạn sẽ nhận ra được do một dấu chữ thập và một chữ đơn giản Orat. Chính dưới tấm bia đó đã chôn Bêatrich Xăngxy mà câu chuyện bi thảm về cô gái ấy sẽ để lại cho các bạn một ấn tượng sâu sắc. Cô là con ông Frăngchetcô Xăngxy. Frăngchetcô sinh dưới thời Giáo hoàng Clêmăng VII lên ngôi ngày 18 tháng 11 năm 1523. Frăngchetcô là con trai ông Nicôla Xăngxy, thủ quĩ của Giáo hoàng dưới thời Pie V. Sinh ra với những bản tính không tốt và làm chủ một gia tài kếch xù, Frăngchetcô lao mình vào những cuộc ăn chơi trụy lạc. Ba lần bị bắt giam vì những cuộc tình ái bất chính và ông đã phải mất gần năm triệu Frăng để thoát khỏi tù tội. Nhất là dưới thời Grêgoa XIII, người ta mới bắt đầu quan tâm đến Frăngchetcô một cách đúng mức. Dưới thời Bôlône buôncompani, ở La Mã tất cả mọi hành động đều được hợp thức hóa đối với những ai có tiền trả, kể cả kẻ giết người và người quan tòa. Cưỡng hiếp và giết người là những vấn đề rất thường mà công lý rất ít khi để ý đến những trò vụn vặt ấy nếu không có ai ở đây để truy đuổi thủ phạm. Vào thời kỳ này, Frăngchetcô trong khoảng bốn bốn, bốn lăm tuổi, cao năm piê, bốn pút, dáng cân đối và rất khỏe mặc dù có vẻ hơi gầy. Tóc ông màu xám, cặp mắt to và đầy ý nghĩa mặc dù mi trên hơi xụp xuống và trở nên rất dữ tợn khi gặp kẻ thù. Ông chơi các môn thể thao rất khá, nhất là môn bơi thuyền. Đôi khi ông bơi thuyền một mình một mạch từ La Mã đến Naptlơ, một quãng đường bốn mươi dặm. Không tôn giáo, không tín ngưỡng, ông không vào nhà thờ bao giờ, nếu có vào cũng là chỉ để xúc phạm Chúa. Nhiều người nói rằng ông rất thích những sự kiện kỳ quặc và không có một tội ác nào mà ông phạm không ngoài mục đích để có một cảm giác mới lạ. Năm bốn mươi nhăm tuổi ông lấy vợ. Vợ ông rất giàu nhưng không có một tài liệu nào nói tên bà là gì. Bà chết để lại cho ông bảy người con, năm trai hai gái. Ông lấy người vợ thứ hai, Lucrêgia Pêtrony, ngoài nước da trắng ngần, bà còn là một điển hình hoàn hảo về sắc đẹp La Mã. Lần lấy vợ thứ hai này ông không có con. Cũng vì Frăngchetcô không có được những tình cảm tự nhiên của con người nên ông rất ghét các con mình và ông cũng chẳng cần giấu giếm mối căm ghét đó. Một hôm, ông cho xây dựng trong sân của mình một tòa lâu đài tráng lệ bên cạnh con sông Tibrơ, một đền thờ để tặng thánh Tômát. Ông nói với kiến trúc sư thiết kế cho ông một hầm mộ: "Tôi mong sẽ nhốt hết bọn con tôi vào đây". Do đó khi các con ông vừa mới tự lập được, ông đã gửi ba người con lớn đến trường đại học Xalamăng ở Tây Ban Nha. Chắc hẳn ông nghĩ rằng xa chúng là bỏ rơi chúng vĩnh viễn, vì khi các con ông vừa đi khỏi nhà là ông không hề nghĩ đến chúng nữa, ngay cả đến việc gửi lương ăn cho chúng. Chính là vào những năm đầu của triều đại Clêmăng VIII, một triều đại được nổi tiếng về công bằng, cho nên ba chàng trẻ tuổi ấy mới quyết cùng nhau lên kêu với Người. Ba chàng lên tìm Giáo hoàng Fratcatti và trình bày mục đích. Giáo hoàng công nhận quyền lợi của ba chàng và người bố là Frăngchetcô phải trợ cấp cho mỗi người con hai nghìn êcu. Frăngchetcô tìm mọi cách để hủy bỏ quyết định ấy, nhưng nhận được mệnh lệnh cụ thể nên buộc phải chấp hành. Chính trong thời kỳ đó ông bị bắt giam lần thứ ba cũng vì tội tình ái xấu xa. Thế là ba người con trai của ông lại lên kêu với Giáo hoàng là cha họ làm nhục thanh danh của gia đình, và yêu cầu luật pháp trừng trị thích đáng. Giáo hoàng thấy hành động của con thế là không tốt nên đuổi họ về. Còn Frăngchetcô thì lần ấy cũng như hai lần trước được thoát thân bằng tiền bạc. Người ta hiểu rằng hành động ấy của ba người con trai không thể thay đổi lòng căm ghét thành tình thương yêu của Frăngchetcô đối với các con được. Nhưng con trai còn có thể thoát khỏi sự giận dữ của cha, còn những cô con gái thì bị giông tố đổ xuống đầu. Chẳng bao lâu tình hình đó trở nên không thể chịu đựng được nữa, đến nỗi cô gái lớn, mặc dù bị giám sát chặt chẽ, cũng gửi được một lá đơn lên Giáo hoàng. Trong đơn cô kể hết những cách đối xử tàn tệ mà cô phải chịu đựng và xin với Giáo hoàng gả chồng cho mình hoặc cho mình vào một nhà tu kín. Clêmăng VIII mủi lòng thương hại, buộc Frăngchetcô phải trợ cấp cho cô một món tiền hồi môn là sáu chục nghìn êcu và gả cô cho Caclô Gabrieli, một gia đình quý tộc ở Gupbiô. Frăngchetcô nổi giận tưởng phát điên vì thấy cô gái ấy thoát được tay mình. Cũng vào thời gian đó thần chết lại đến giải thoát cho ông hai đứa con nữa: Rốc và Crittốp Xăngxy bị giết chết cách nhau một năm, đó là một niềm an ủi cho Frăngchetcô. Tính keo kiệt của ông theo đuổi các con ông đến cả sau cái chết của chúng vì ông tuyên bố sẽ không chi một đồng xu cho phí tổn nhà thờ. Xác chúng phải mang vào hầm mộ mà ông đã xây sẵn cho chúng, trong những áo quan của những kẻ ăn mày. Khi trông thấy hai xác con nằm ở đấy, ông tuyên bố rất sung sướng đã thoát khỏi hai đứa xấu xa ấy, nhưng sẽ được sung sướng hoàn toàn khi nào thấy năm đứa kia nằm bên cạnh hai đứa này để có đủ cả bầy, ông sẽ nổi lửa đốt tòa lâu đài để tỏ dấu hiệu vui sướng của mình. Tuy nhiên Frăngchetcô cũng tìm đủ mọi biện pháp để cô gái thứ hai, Bêatrich Xăngxy không theo gương cô chị. Lúc đó Bêatrich là một cô bé mười ba tuổi xinh đẹp và thơ ngây như nàng tiên. Mái tóc cô dài màu hung, một vẻ đẹp hiếm có ở nước Ý mà chúng ta đã thấy trong tất cả các bức họa của Rafaen(Họa sĩ trứ danh người Ý ). Mái tóc đó rủ xuống thành búi hai bên bờ vai để lộ ra một cái trán tuyệt mỹ, cặp mắt màu xanh da trời có một vẻ mê hồn nhất, thân hình cô tầm thước nhưng rất cân đối. Để giữ được cô, Frăngchetcô nhốt con gái vào một căn phòng kín của lâu đài mà chỉ mình ông có chìa khóa. Ông trở thành tên cai ngục của con gái mình. Hàng ngày ông vào thăm và mang thức ăn cho cô. Ông đối xử với cô rất khắt khe cho mãi đến năm cô mười bảy tuổi. Chẳng bao lâu cô bé tội nghiệp ngạc nhiên thấy bỗng nhiên ông đã dịu đi. Đó chỉ là vì cô bé Bêatrich đã trở thành một cô thiếu nữ, sắc đẹp của cô đã nở ra như một bông hoa. Và Frăngchetcô, một tên tội phạm không từ một tội ác nào, đã nhìn cô với cặp mắt loạn luân. Một thời gian sau, đêm đêm cô thường bị thức giấc bởi một thứ âm nhạc du dương như từ cõi thiên đường phát ra. Khi cô nói điều đó với cha, cha cô dỗ dành để cô yên trí và còn nói thêm nếu cô ngoan ngoãn dễ bảo thì chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ ban cho cô một phần thưởng đặc biệt, không những cô chỉ được nghe mà còn được trông thấy nữa. Quả nhiên một đêm, trong khi cô đang tỳ khuỷu tay xuống giường để thưởng thức thứ âm nhạc du dương ấy, bỗng nhiên cửa buồng cô mở ra và từ trong buồng tối cô nhìn ra các buồng xung quanh thấy ánh đèn rực rỡ và đầy hương thơm, như hương thơm, mà người ta ngửi thấy trong giấc mơ, những con trai và con gái xinh đẹp gần như trần truồng như cô đã nhìn thấy trong những bức tranh của Ghit và của Rafaen. Họ đi dạo chơi trong phòng, tỏ vẻ đầy sung sướng và hạnh phúc. Chúng là một bọn vô lại mà Frăngchetcô đã thuê tiền vì hắn giàu có như một ông vua. Mỗi một đêm hắn lại cho thay đổi những cảnh say sưa phóng dục của "Alêchxăng trong bữa tiệc cưới Lucret" và những cảnh trác táng của "Tibe ở Capri". Sau một giờ, cánh cửa đóng lại và cảnh quyến rũ biến mất, làm cho Bêatrich bối rối và ngạc nhiên. Đêm hôm sau cảnh tượng như vậy lại hiện lên. Nhưng lần này Frăngchetcô bước vào buồng con gái, rủ rê con gái ra tham gia cùng hắn trần truồng. Không hiểu tại sao Bêatrich lại biết rằng làm theo lời nằn nì của cha là không tốt. Cô trả lời không thấy mẹ ghẻ Lucrêgia có mặt trong đám phụ nữ, nên cô không dám đứng lên ra ngoài với những người lạ mặt. Frăngchetcô dọa và van nài cô, nhưng đều vô ích. Hôm sau cô mặc cả quần áo đi nằm. Đúng giờ thường lệ, cửa buồng cô lại mở ra và cảnh tượng ban đêm lại tái diễn. Lần này mẹ ghẻ cô, Lucrêgia cũng có mặt trong đám đàn bà đi diễu qua trước cửa buồng cô, bạo lực đã buộc bà phải làm điều nhục nhã ấy. Bêatrich ở khá xa nên không nhìn thấy bà đỏ mặt và nước mắt tràn trề. Frăngchetcô liền chỉ cho con gái mình bà mẹ ghẻ mà hôm qua cô không thấy. Thấy cô không nói gì hắn liền đưa cô bé vào cơn cuồng si ấy mặc dù cô bối rối và đỏ nhừ cả người. Ở đây Bêatrich nhìn thấy những cảnh đốn mạt chưa từng có và cô nhìn thấy những điều cô chưa từng biết. Tuy nhiên cô cũng chống cự lại khá lâu, Frăngchetcô cho rằng những cảnh tượng ấy kích thích cảm giác của con gái, hắn lại còn thêm vào đấy những tà thuyết hòng đánh lạc lý trí của cô. Hắn nói với cô rằng những Thánh lớn nhất của nhà thờ đều sinh ra từ mối quan hệ tình dục giữa người cha và con gái. Thế là hắn không từ một thủ đoạn dã man nào. Hắn buộc Lucrêgia và Bêatrich phải cùng chung một chồng, đe dọa sẽ giết vợ nếu bà để lộ một câu cho con gái hắn biết sự chung chạ ấy là một điều ô nhục. Sự việc như vậy cứ diễn ra trong vòng gần ba năm. Đến thời kỳ này Frăngchetcô có việc phải đi xa trong một thời gian, buộc hắn phải để hai người đàn bà ở nhà với nhau và được tự do. Điều thứ nhất mà bà Lucrêgia thực hiện ngay là nói cho Bêatrich thấy tất cả sự bỉ ổi của cuộc sống của họ, thế là hai người cùng nhau viết một tờ đơn tố cáo với Giáo hoàng tất cả những gì mà họ đã phải đau khổ chịu đựng. Chẳng may, trước khi đi, Frăngchetcô đã đề phòng tất cả, những người xung quanh Giáo hoàng đều bị hắn mua chuộc hoặc sắp được mua chuộc cho nên đơn tố cáo của hai người đàn bà tội nghiệp không tới được tay Giáo hoàng.   Mời các bạn đón đọc Những Tội Ác Trứ Danh của tác giả Alexandre Dumas.
Khi Thiên Thần Sợ Hãi
Bối cảnh là năm 1811 ở nước Anh. Xã hội rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng sắp nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man và cưỡng hiếp trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng và nhân chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St. Giles. Bằng những kỹ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều... *** #Review Khi Thiên Thần sợ hãi Tác giả: C.S. Harris Dịch giả: Minh Phúc. Điểm: 9 cho nội dung + 0.75 cho bìa đẹp cực kỳ = 9.75. Mức: Dở-Trung Bình-Khá-Hay-Rất hay (vkl) = [Hay-Rất hay (vkl)] “Che giấu một bí mật bằng cách ngụy trang nó thành một bí mật khác, một bí mật hào nhoáng và tục tĩu đến mức nếu ai tình cờ phát hiện ra, họ sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn xa hơn để nhìn thấy một sự thật…” Một tác phẩm trinh thám kinh điển hội tụ đủ các yếu tố: giết người, điều tra, hành động, phiêu lưu, mạo hiểm và kết thúc bằng một cảnh anh hùng giải cứu mỹ nhân rực lửa kinh điển trong các phim hành động mỹ. Nếu bạn đang tìm kiếm một vị anh hùng, một người không phải thám tử điều tra, một soái ca ngon lành cành đào để điều tra thì có vẻ quyển này phù hợp với những ai thích thú điều đó ???? Sơ lược nội dung: Năm 1811, khi xã hội Anh rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St.Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St.Giles. Bằng những kĩ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều.... Và cứ như thế, hành trình của Tử tước Devlin bắt đầu lần ra manh mối truy tìm kẻ đã sát hại dã man cô gái diễn viên kịch ấy bắt đầu, khơi nguồn mọi thứ được tử tước tìm thấy trong một cuốn sổ ghi chép về các cuộc gặp mặt mà cô diễn viên kịch đã để lại trong nhà nhằm lần ra từng manh mối một, tử tước không phải là một kiểu người giàu có công tử bột mà anh ấy đã từng làm trong quân ngũ, phục vụ ở chiến trường, làm tình báo cũng có nên đây có thể coi là một người có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, và cả việc điều tra tìm ra manh mối kẻ thủ ác để minh oan cho mình, nhưng sự đời trớ trêu đường cong thì không bao giờ thẳng, tử tước đang có cuộc triệu tập tới đồn cảnh sát tự nhiên vô cớ vướng vào vụ đâm phải một viên cảnh sát khiến anh ấy hôn mê, nhưng không phải do mình làm, một lần nữa lại vướng vào vòng lao lý thật đáng tiếc ????). Chữ tài liền với chữ tai một vần. Vị tử tước đánh kiếm giỏi, đẹp trai (ổng mới 29 tuổi thôi quý vị à, rất soái car nhé :p, tập này sẽ không nói tuổi của tử tước, qua tập sau sẽ nhắc). Hình mẫu lý tưởng để chị em theo đuổi đấy, vừa giỏi vừa tự mình tìm hiểu manh mối nữa. Mạch truyện xảy ra vào đầu thế kỷ 19 nên rất ít kiểu điều tra hiện đại như lần theo manh mối từ vân tay hoặc khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng, nhưng trong truyện có miêu tả cảnh cô gái bị cắt cổ ra làm sao, máu me như nào khá chân thật so với những gì một nữ tác giả có thể nghĩ ra, tử tước Devlin có nhiều lúc hành sự khá cảm tính, không biết có phải do anh phục vụ ở quân trường hay không mà anh ấy rất thích việc xông vào nhà từng nhân vật khả nghi để tiến hành điều tra từng người, và anh này có tài hóa trang để có thể tiến hành điều tra khẩu cung từng người, điều này làm mình liên tưởng đến người đàn ông sống ở số 221B phố Barker :p, tuy nhiên anh không có bác sĩ Waston cùng đồng hành mà trên đường đi anh thu thập được một thằng nhóc móc túi làm đệ cho anh =)) nó sẵn sàng làm điệp viên cho tử tước vì anh ấy đã bỏ qua cho nó tội móc túi, và từ đó 2 anh em tiến hành quẩy banh Westminster để có thể lần ra manh mối cho dù là giới bần nông hay tầng lớp quý’s tộc’s nào đi nữa tử tước Devlin cũng không buông ????. Mạch truyện đi khá nhanh, 426 trag chủ yếu tập trung vào việc điều tra hỏi cung là chủ yếu, tuy không có người đồng hành là bác sĩ nhưng tử tước có khá nhiều mối quan hệ và đặc biệt thân thiết với vị bác sĩ Paul Gibson, anh ấy cũng giúp tử tước rất nhiều kể cả phi vụ đào xác lên để khám nghiệm tử thi lại một lần nữa, và có đổ máu có, có ái tử thi luôn, đọc càng về cuối các bạn sẽ thấy tởm lợm hung thủ đã là điều đó với cô Rachel, tác giả miêu tả rất văn học và không thô thiển cứng ngắc. Tất cả các nhân vật trong truyện đều có một bí mật ẩn giấu riêng, và càng điều tra, càng lộ ra nhiều chân tướng, kể cả gia đình của tử tước cũng có một bí mật khá lớn, và trong lúc điều tra mọi người đọc sẽ rất dễ bị dẫn dụ suy nghĩ người nào đó mới thật sự là hung thủ thật, nhưng không càng về cuối plot twist càng lớn lên khi mà người mà không ngờ tới lại chính là hung thủ thật sự lại là “người ấy”, và người ấy là ai thì khi đọc bạn sẽ bất ngờ lớn đấy ???? . Mạch truyện nhanh + diễn biến diễn ra liên tục, nhiều lúc hồi hộp cứ sợ tử tước Delvin bị bắt lại, nhưng anh ấy quá thông minh và pro để có thể ứng phó được + tất cả sự kiện và nhân vật đều che giấu bí mật cho dù đó là tầng lớp gì đi nữa, them vào nữa dòng thời gian của sự kiện là năm một ngàn tám tram hồi đó nên chúng ta sẽ biết được các tầng lớp quý tộc Anh có sự liên kết với Pháp như nào và đặc biệt làm tay sai cho Napoleon ra làm sao sẽ được đề cập đến trong truyện. Và kết thúc truyện là việc đối đầu với hung thủ, cứu mỹ nhân và cũng là người tình của vị tử tước chung tình này, họ sẽ sống bên nhau hanh phúc đến 8 tháng sau hẹn gặp lại vụ án kế tiếp “Lời nguyền của người cá” :p, có những bí mật sẽ được chôn giấu mãi, nhưng rồi nó bằng cách nào đấy vẫn giữ được thanh danh cho tất cả các bên liên quan, một cách giải, một đáp án thấu tình và đạt lý ???? . Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ #Rei_NTN *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Thứ Ba, 29 Tháng 1 năm 1811 Cô đổ lỗi cho màn sương. Bình thường cô không lo lắng đến vậy. Không sợ hãi đến vậy. Màn sương mù vàng đục của London là một thứ hôi hám sởn gai ốc. Mà nếu không có sương mù thì giờ này trời cũng đã tối. Đêm tháng một tối và lạnh. Nhưng làn hơi âm u càng làm mọi thứ thêm tồi tệ khi nó quấn quanh đèn lồng của Rachel như một bóng ma khiến cô suýt vấp ngã khi đang băng qua nghĩa trang nhà thờ. Một hòn đá lăn tròn dưới cái đế mảnh mai của đôi bốt ống ngắn, tạo thành tiếng kêu vang bất thường giữa đêm tĩnh lặng. Dừng lại, Rachel ngoái nhìn qua vai, ánh mắt xuyên qua đường nét mờ sương của những tượng đài và bia mộ rải rác khắp nghĩa trang. Từ xa vang lên tiếng lọc cọc và giọng nói hỏi giờ bị sương mù bóp nghẹt. Rachel hít một hơi thật sâu, lấp đầy phổi bằng không khí giá lạnh đượm hương thơm của đất và lá ẩm ướt cùng mùi hôi thối mốc meo khiến người ta liên tưởng đến những xác chết cũ kỹ, rồi rảo bước. Khối đá nặng nề của Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields lờ mờ hiện ra trước mắt cô. Rachel nắm những nếp lót satin của chiếc áo choàng đêm bằng nhung sát vào người. Lẽ ra cô nên bảo ông ta đến gặp mình vào lúc tám rưỡi tối. Muộn nhất là chín giờ. Tám rưỡi là khoảng thời gian thông thường. Chỉ có điều, đây không phải là một cuộc gặp mặt thông thường. Cô không ngờ mình lại cảm thấy sởn tóc gáy đến vậy. Cô không thích cảm giác này. Lo lắng khiến cô cảm thấy mình như một nạn nhân, và Rachel York không phải là một nạn nhân. Không bao giờ nữa. Đó là một lời hứa cô đã tự hứa với chính mình ở tuổi mười lăm, và trong ba năm qua, kể từ cái đêm định mệnh khi cô nắm quyền kiểm soát cuộc sống của chính mình, đó là một lời hứa cô chưa bao giờ phá vỡ. Giờ đây cô cũng không muốn phá vỡ nó. Tại bậc dẫn đến cửa cánh ngang phía bắc, một lần nữa cô dừng lại. Bên dưới mái vòm tròn sâu thẳm của cánh cổng tại mặt bên toà nhà, bóng tối gần như che phủ tất cả. Nâng đèn lồng lên cao, cô chiếu chùm tia sáng hẹp lên cánh cửa gỗ sồi cũ mòn. Qua lớp da dê mỏng của chiếc găng tay, chiếc chìa khóa sắt lạnh lẽo và nặng nề. Cô càng thấy khó chịu vì những ngón tay mình run lên khi cô cắm chìa vào ổ khóa. Chỉ một lần vặn, ổ khoá đã lách cách trơn tru và cánh cửa mở ra êm ru trước mắt cô nhờ những bản lề được tra dầu đầy đủ. Mục sư McDermott luôn chú ý đến những điều này. Tất nhiên, đó là trách nhiệm của ông. Rachel đẩy cánh cửa mở rộng hơn, một luồng khí đột ngột thổi ra, lay động lọn tóc vàng được uốn khéo trên má cô. Mùi nhà thờ quen thuộc, hương thơm của sáp ong, đá ẩm và gỗ cổ nhấn chìm cô. Cô lướt vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại. Cô không khóa cửa. Cô bỏ chìa khóa vào túi xách, cảm nhận sự nặng nề và rắn chắc của nó chạm vào đùi mình khi cô bước qua cánh ngang. Sự im lặng lạnh giá của nhà thờ bao quanh cô, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của cô dao động trên những bức tường đá ám khói nến đen và những bức tượng rải rác hình những hiệp sĩ và công nương đã chết từ lâu nằm nghiêng tĩnh lặng, lạnh lẽo trong khoảng không trống rỗng. Họ nói rằng Nhà thờ Thánh Matthew đã gần tám trăm tuổi, với mái vòm bằng đá sa thạch vươn lên từ những cột trụ dày và những chiếc cửa sổ nhỏ bé trên cao giờ chỉ cho thấy bóng tối bên ngoài. Cha của Rachel quan tâm đến những điều ấy. Có lần ông đưa cô đến thăm quan các nhà thờ ở Worchester và nói chuyện với cô hàng giờ về đường mái vòm, bao lơn1* và bức ngăn toà giảng. Nhưng cha cô đã chết từ lâu; Rachel đóng tâm trí mình lại trước những ký ức, không hiểu điều gì đã mang những suy nghĩ ấy đến với cô vào lúc này. *Nơi dành cho ban hát của nhà thờ. Điện thờ Đức Mẹ nằm ở tận cùng khu tụng niệm, một món trang sức nhỏ bé của thế kỷ mười bốn bằng đá cẩm thạch trắng, những cột trụ mảnh mai và bức ngăn chạm khắc tinh tế. Rachel đặt đèn lồng trên bậc trước bàn thờ. Cô đã đến sớm; ông ta sẽ không xuất hiện trong ít nhất hai mươi phút nữa. Sự trống rỗng của nhà thờ cổ xưa dường như ép chặt vào cô, lạnh lẽo và tối tăm. Cô liên tục nhìn vào những cây nến được ban phước tụm lại trên tấm khăn bàn thờ trắng như tuyết. Trong một lúc, cô đã ngập ngừng. Sau đó, đốt một dây nến, cô bắt đầu thắp nến, lần lượt từng cây một, ngọn lửa vàng của chúng nhảy lên ấm áp và tươi sáng cho đến khi chúng dường như hợp nhất thành một luồng ánh sáng an ủi. Rachel nhìn lên tấm vải lớn treo phía trên bàn thờ, một cuộn tranh tối màu miêu tả Đức Mẹ Đồng Trinh lộng lẫy thăng thiên trên nền những thiên thần chiến thắng. Trong khoảnh khắc, Rachel có lẽ đã thì thầm một lời cầu nguyện. Không phải bây giờ. Cô không nghe thấy tiếng cửa ngang mở và đóng, chỉ có tiếng vọng yếu ớt của những bước chân lén lút bước trên dàn hợp xướng. Ông ta đến sớm. Cô không ngờ đến điều này. Quay người lại, cô cởi mũ áo choàng và nặn ra một nụ cười gượng gạo, sẵn sàng thực hiện vai diễn của mình. Lúc này cô thấy cái bóng mờ, đường viền của áo choàng ngoài và chiếc mũ chóp cao của ông ta hiện lên qua bức phù điêu chạm trổ bằng đá của Điện thờ Đức Mẹ. Ông ta tiến lại gần ánh nến. Cô nhanh chóng lùi lại. "Ngươi," cô thì thầm, và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp. Mời các bạn đón đọc Khi Thiên Thần Sợ Hãi của tác giả C. S. Harris.