Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hồi Ký Nghệ Sĩ Kim Cương: Sống Cho Người

Tôi là ai? Không phải bây giờ là một Nghệ sĩ Nhân dân được nhiều người yêu mến, ở giai đoạn cuối đời không còn đứng trên sân khấu tôi mới tự hỏi mình như vậy, mà từ ngày còn thơ bé, vừa đủ trí khôn, tôi cũng đã nhiều lần tự hỏi. Câu hỏi không có lời đáp, nhưng nó đã theo tôi suốt tháng năm dài, luôn dằn vặt tâm trí tôi, lục vấn từ cõi lòng tôi một cách sâu thẳm. Tôi lờ mờ hiểu được rằng tôi là một người bình thường sinh ra trong cõi thế gian này với một số phận đã định sẵn, số phận ấy tôi không biết trước được nó sẽ đưa tôi về đâu, đi tới đâu. Một con đường thênh thang trước mặt hay là những khúc quanh nghiệt ngã của đời mình? Tôi sẽ lớn lên, học hành như bao cô gái khác, có người yêu ở lứa tuổi đẹp nhất một đời người. Rồi lập gia đình với người đàn ông mà mình yêu thương, sinh con đẻ cái, hưởng hạnh phúc hay gánh chịu những đau khổ đời thường? Tất cả những điều này đối với tôi là một khoảng không trắng xóa, không lời giải đáp, nó giống như màn ảnh rộng để chiếu một bộ phim trắng đen của ngày xưa cũ, phim dứt, trả lại cho khung vải trắng treo trên tường một bóng hình vô tận giống như ánh chớp bay qua bầu trời rồi mất tăm. “ Không ai chọn cửa để sinh ra ”. Cuộc sống vốn vô thường và câu nói này đã bắt đầu cho sự vô thường của đời người. Tôi là một đứa bé có gien nghệ sĩ trong máu và điều này không phải do tôi chọn, nhưng tôi đã từ bên trong cánh cửa này bước ra trước cuộc đời nhọc nhằn và cũng đầy mộng ảo. Nhọc nhằn với những cuộc chạy đua trên sông nước, những bến bờ ghé lại rồi đi. Nhọc nhằn với những chuyến xe bão táp, chở đầy ánh trăng thơ mộng của vinh quang hay ám ảnh hãi hùng. Tôi là ai? Cái tên Kim Cương không phải ngẫu nhiên mà cha mẹ tôi đặt ra để gọi cho đứa con gái đầu lòng vốn có cá tánh của đứa con trai từ khi chập chững biết đi, biết bi bô những tiếng nói đầu đời. Tôi đã may mắn sinh ra trong một gia đình có truyền thống sân khấu, từ bà nội tôi là cô Ba Ngoạn, chủ rạp Palikao, đến ba tôi là ông bầu Phước Cương, rồi má tôi, nghệ sĩ Bảy Nam, dì tôi là nghệ sĩ Năm Phỉ, người mà nghệ sĩ Ba Vân đã gọi là một thiên tài của sân khấu cải lương Việt Nam. Ba má tôi là đôi nghệ sĩ tài danh trên sân khấu, là đôi vợ chồng rất mực yêu thương nhau trong cuộc đời, nhất là khi cuộc đời đó trải qua những biến động thăng trầm của nghệ thuật cải lương thời kỳ khai mở và trôi theo dòng lịch sử của hai cuộc chiến tranh. “ Sân khấu cũng như cuộc đời ”, ai đã nói câu này tôi không biết nhưng khi sinh ra trong một gia đình nghệ sĩ, lại là nghệ sĩ tài danh mà theo như cụ Nguyễn Du đã nói cho thân phận Thúy Kiều: “ Chữ tài liền với chữ tai một vần ” thì tôi hiểu hơn ai hết sân khấu không chỉ giống như cuộc đời mà nhiều khi còn cay đắng hơn cả cuộc đời. Khi nói về gia đình tôi, nghệ sĩ Năm Châu bảo: “ Đối với gia đình lớn của Kim Cương thì Hát không phải là cái Nghề mà là một cái Đạo. ” Suốt đời, tôi đã đi theo cái Đạo ấy. Từ lúc còn trong bụng mẹ, má tôi đã mang tôi lên sân khấu. Khi tôi chào đời được mười tám ngày thì đúng vào lúc đoàn hát của ba tôi về Huế hát chầu nhân ngày sinh nhật nội tổ vua Bảo Đại. Đứa hài nhi mười tám ngày tuổi tên Kim Cương ấy đã làm con của Thị Mầu trong vở Quan Âm Thị Kính trên sân khấu Duyệt Thị Đường trong thành nội. Nên tôi viết hồi ký này cũng là để nhớ ơn những bậc tiền bối trong sân khấu, những người đã yêu thương đùm bọc, dẫn dắt tôi, đưa tôi vào nghề. Đó là các nghệ sĩ Năm Phỉ, Năm Châu, Ba Vân, Phùng Há, Duy Lân, và ba tôi - ông Nguyễn Ngọc Cương, má tôi - Nghệ sĩ Nhân dân Bảy Nam. Những người đã chấp nhận bao chông gai trên con đường đến với nghệ thuật để giờ này thế hệ của chúng tôi được đi tới với nghệ thuật trên con đường đầy hoa thơm cỏ lạ, hưởng đầy sự thương yêu quý trọng của mọi người. Khi bọn bắt cóc bắt đứa con trai lên năm tuổi của tôi, chúng kêu điện thoại đến hăm dọa đủ điều nhưng có một câu nói làm tôi suy nghĩ: “ Bà Kim Cương à, tôi với bà là hai con ốc trong hai bộ máy khác nhau. Cả hai chúng ta đều phải quay theo, không thể ngừng lại được. ” Như vậy, bộ máy của chúng là gì? Còn tôi, tôi là con ốc trong bộ máy nào vậy? Hồi mới giải phóng, người ta đồn tôi là “Thượng tá Việt Cộng”. Một dân biểu ra trước Quốc Hội tố rằng: Cộng Sản đã bỏ ra 200 triệu để Kim Cương làm Lá Sầu Riêng , cũng như sau ngày giải phóng chồng tôi đi học tập và đã bị gán cho là người của CIA gài lại. Rồi cũng có người lại cho rằng tôi sống rất buông thả, từng quan hệ tình cảm với nhiều tướng tá chế độ cũ. Những chuyện đó hư thực thế nào không thể nói vài lời mà hết được. Cuộc đời của một con người nào phải đơn giản như thế. Chính vì vậy mà hôm nay tôi muốn thưa chuyện cùng các bạn, có lẽ hơi dài dòng nhưng tôi tin ở tình cảm mà từ lâu nay các bạn đã dành cho tôi, cho những nhân vật tôi đã thể hiện trên sân khấu cũng như cho đoàn kịch nói Kim Cương từng tồn tại trong quá khứ. Tình cảm ấy rất lớn, rất đẹp và cao quý, nó khuyến khích tôi viết hồi ký này. Vì lòng tôi cũng thiết tha yêu mến các bạn, những khán giả của tôi nên tôi muốn đem cả tâm tình của mình, đem chuyện của cả cuộc đời mình ra tâm sự cùng các bạn như một lời tri ân với tất cả những gì tôi đã được hưởng trong suốt cuộc đời. Tôi được sống một đời nổi trôi từ nhỏ, đã từng nếm đủ vinh quang lẫn nhục nhã, nghèo đói lẫn giàu sang, hạnh phúc và bẽ bàng trong đời thường cũng như trong tình yêu. Tôi cũng may mắn (hay là rủi ro đây) sinh ra và lớn lên trong một đất nước Việt Nam đầy bom đạn lửa khói, từ kháng chiến chống Pháp đến chống Mỹ, chứng kiến những tao loạn từ lúc còn là đứa bé con cho đến ngày thống nhất đất nước. Vì lẽ đó, cuốn hồi ký này có thể xem như một nhân chứng khiêm nhường bên dòng lịch sử vĩ đại của dân tộc, cho dẫu tôi có một chỗ đứng khép nép nào đó trong dòng chảy lớn của cuộc đời. Cuối cùng, trong khuôn khổ hạn chế của một cuốn hồi ký, dẫu viết nhiều đến đâu cũng không thể nào nói hết tường tận cuộc đời của một con người, nhất là người nghệ sĩ đầy phức tạp như tôi. Vì vậy tôi chỉ hy vọng nhận được sự cảm thông của quý vị. Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến những người bạn, người em đã hết lòng ủng hộ và giúp đỡ tôi ghi chép lại thành quyển hồi ký đang có trong tay các bạn. Đó là anh Đào Hiếu, mà tôi rất biết ơn và quý trọng. Đó là những người em hết sức dễ thương đã thu xếp thời gian bận rộn của mình để lắng nghe những câu chuyện lòng của cuộc đời tôi: Tiến sĩ Quách Thu Nguyệt, nhà văn Võ Diệu Thanh, nhà thơ Ngô Hạnh, em Tạ Nguyễn Tấn Trương, em Thu Thủy, em Trần Thị Nhiễu. Tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam, nhất là hai em Phan Thị Lệ và Phạm Uyên Nguyên đã hết lòng khuyến khích, động viên tôi hoàn thành quyển hồi ký này. Và đặc biệt sau cùng, tôi không thể nào diễn đạt sự biết ơn từ tận đáy lòng đến những khán giả mọi thế hệ, mọi tầng lớp, từ vùng quê đến thành thị, đã luôn tiếp cho tôi ngọn lửa đam mê nghệ thuật từ tình yêu vô cùng tận của các bạn đối với Kim Cương, cho dù tôi đang ở trong hoàn cảnh nào của dòng chảy lịch sử gần 80 năm trôi qua đời tôi. *** Chiếc xe ngựa leo dốc một cách khó nhọc. Gió từ biển thổi tạt đến ném cát bụi vào trong xe. Nắng xế làm cho mặt đất như cằn cỗi hơn, những gò đống đầy cỏ gai, xương rồng, bụi cây dại thấp lè tè như cũng phai tàn hết cái màu xanh của lá. Con ngựa gầy rướn người tới trước, đầu cúi xuống, mồ hôi chảy dài theo chiếc cổ khẳng khiu. Trong chiếc xe có ba người, má tôi, tôi và ba tôi. Ba tôi nằm trên chiếc võng gai treo tòn teng trong xe. Xe qua một đoạn đường mấp mô nên xốc dữ dội, chiếc võng gai cứ đong đưa làm ba tôi chóng mặt khó thở và thỉnh thoảng nôn mửa. Ông nằm lả đi, mắt nhắm nghiền và lõm sâu xuống khiến cho hai gò má nhô lên cao hơn thường ngày. Sóng biển không lớn lắm nhưng gió từ ngoài khơi thổi vào khá mạnh đem theo cả tiếng hú bí ẩn xa lạ. Năm ấy tôi lên 9 tuổi, và đó là lần đầu tiên tôi nghe một tiếng hú như thế. Tôi nghe một cơn lạnh trùm xuống, người tôi mềm nhũn kinh hãi. Nếu ba còn khỏe ba sẽ ôm tôi vào lòng, thì thầm vào tai tôi: “Đừng sợ, có ba đây, Kim Cương ơi”. Mà thực ra nếu có ba ôm tôi lúc này, thì chắc tôi cũng không có gì phải sợ. Nhưng giờ đây ba tôi chỉ ở cạnh tôi bằng hơi thở thiêm thiếp. Ba có nghe tiếng gió hú không? Chắc là không. Ba đang vật lộn với những cơn co giật xen lẫn những cơn ói khan quặn ruột. Má tôi có nghe gì không? Tôi không chắc. Má tôi đang bận nhìn từng hơi thở của ba tôi, che chắn cho ba tôi trước cơn gió vô tâm của biển. Xe ngựa vẫn lọc cọc lắc trên con đường gập ghềnh đá sỏi. Võng ba tôi nằm cứ đong đưa theo những cơn dằn xốc. Hơi thở ba dường như kiệt dần theo từng bước đường từ Mũi Né về Phan Thiết. Tôi tự hỏi chúng tôi đang đi về đâu. Đó là câu hỏi lạ nhất trong đời. Chúng tôi là con người của những chuyến đi. Có khi ba cho cả đoàn xuống cái ghe hát lớn, có khi chúng tôi ngồi tàu, có khi ngồi xe. Chúng tôi đôi khi cũng không hát được vì mưa dầm. Cuộc sống đôi khi cũng túng thiếu phải ăn uống tiện tặn. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy phía trước là dấu hỏi. Dường như là dù no dù đói, ba không để tôi phải hỏi những điều chơi vơi như vậy. Giờ thì ba tôi chỉ nằm trên xe thở hụt từng cơn. Tôi không hề biết nó nghiêm trọng hay thường tình. Nhưng trong linh cảm, tôi thấy mọi thứ đang trôi vào chốn mông lung. Tôi ngồi sát người vào ba hơn, như để tự an ủi mình ba vẫn còn đây. Xe lắc lư xuống dốc. Thành phố Phan Thiết đã hiện ra trước mặt, thấy cả cái tháp nước công viên và hai cây cầu bắc ngang dòng sông đục ngầu. Rạp Thất Ngàn ở đối diện xéo góc chợ, đôi cánh cửa đóng im lìm trơ lạnh vì không có đoàn nào diễn. Nửa tháng trước đây, đoàn của ba tôi hát rầm rộ ở rạp này, rất đông khán giả. Lúc đoàn dời đi, ngồi trên xe tôi có ngoái nhìn lại, thấy nó nằm buồn bã ở góc phố, leo lét một ngọn đèn vàng. Thường là vậy. Nơi nào chúng tôi đến cũng là náo nhiệt, tưng bừng rồi khi đi chúng tôi dường như đem cái náo nhiệt ấy theo cùng. Tôi đã quen rồi chuyện sau lưng mình là hoang vắng. Nhưng hôm nay đón chúng tôi lại là nó, cái hoang tàn quạnh quẽ mà chúng tôi từng bỏ sau lưng. Tôi thấy mình như đang dò dẫm đi và đã lạc đường, xung quanh mọi hướng đều xa lạ. Đứng lại cũng sợ, bước đi càng sợ. Chiếc xe ngựa đậu lại trước cửa rạp. Má tôi nhảy xuống xe xăm xăm đi thẳng vô rạp còn tôi thì ngồi lại ôm lấy ba vì ông đang lên cơn, vừa run lập cập vừa co giật. Lát sau má trở ra cùng với người gác rạp và bảo tôi: - Xuống đi con. Tôi nhảy xuống xe. Chân tê buốt. Người gác rạp và má tôi dìu ba vào trong rạp. Ông ta nói: - Ở đây không có giường chiếu mùng mền gì hết, nước nôi cũng thiếu. - Thôi kệ, - má tôi năn nỉ - bác thông cảm, chúng tôi không có ai quen biết ở đây. Tiền cũng không có. Người gác rạp đỡ ba tôi nằm xuống, chiếc chiếu trải ở một góc sân khấu. Rạp tối mù, âm u và câm lặng một cách đáng sợ. Ông ta vấn một điếu thuốc châm lửa hút, thở dài và nói: - Tui thì không sao. Tui cũng thương ông bầu lắm nhưng để ông nằm đây thiệt bất tiện. Ông chủ mà biết được ổng la chết. - Không sao đâu. - Má tôi nói - Hôm trước đoàn tụi tui diễn ở đây ổng cũng vui vẻ lắm mà. Ông già lại thở dài. Có những khó khăn phía trước ông biết chắc mà không thể nói hết được và cũng không có cách gì hóa giải được. Nhưng vì thương ba tôi ông không thể làm gì khác. Mọi chuyện tới đâu thì tới. Còn ba tôi sau cơn vật vã đã ngất đi, nằm mê man. Ba chúng tôi ngồi ở góc chiếu, quanh người bệnh. Một lát ông già hỏi: - Cơm nước gì chưa? - Chưa, - má tôi nói - nhưng không ăn uống gì được đâu. Cám ơn bác. Ông già quay sang vuốt tóc tôi, cử chỉ ấy làm tôi muốn bật khóc. Tôi cứ ngồi im như thế, tựa cằm lên hai đầu gối, mắt đăm đăm nhìn xuống những dãy ghế đen xỉn san sát nhau khuất dần trong ánh đèn leo lét lù mù cũ kỹ. Má tôi mệt mỏi quá đã thiếp đi bên cạnh ba. Dường như ông già gác cửa cũng đã ngủ. Nhưng con bé Kim Cương lên 9 tuổi là tôi vẫn ngồi bó gối ở một góc sân khấu tối om nhìn xuống những dãy ghế. Cái rạp hát trong những ngày lưu diễn nhìn thấy chật hẹp không nhúc nhích nổi mà bây giờ bỗng rộng mênh mông như một cái nhà mồ khổng lồ và những dãy ghế kia cứ thẳng tắp, lặng câm như mộ bia. Ý nghĩ đó làm tôi sợ hãi. Nhưng tôi tỉnh táo hơn bao giờ hết. Tôi không hề thấy buồn ngủ và cũng không muốn ngủ. Trong tôi lúc đó hiện dần một nỗi lo sợ, một linh cảm mơ hồ nào đó rằng tôi sắp phải rẽ sang một con đường khác, sắp phải đương đầu với những bất trắc đang chờ tôi và má tôi. Ba tôi vẫn mê man còn má tôi thì ngủ mê mệt, không hề biết đứa con gái nhỏ vẫn còn ngồi đó. Dẫu sao, sự có mặt của ba má bên cạnh cũng làm tôi đỡ sợ, chính vì thế mà tôi vẫn ngồi. Lúc ấy tôi cảm thấy mình như một người lớn và tôi tưởng tượng mình đang ngồi đối diện với một con thú vô hình nào đó. Nó đang nhìn tôi, lặng im nghe ngóng chờ đợi. Nó không hung dữ, không giương nanh vuốt mà đang rình rập, đe dọa. Nhưng sự bướng bỉnh trong tôi đã giục tôi tiếp tục ngồi im để thách thức nó. Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Nghệ Sĩ Kim Cương: Sống Cho Người của tác giả Kim Cương.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Trên Những Con Đường
"Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay ở những thành phố lớn... Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một tẹo về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp". *** Review sách Trái Tim Trên Những Con Đường  Phan Thị Thu Thảo đã review       28 tháng 12, 2018 Tôi biết đến tác giả Mai Thanh Nga qua cuốn sách Paris trong hộp giày, rồi sau cuốn sách này tôi mới tìm đến Trái tim trên những con đường. Tôi thích cả hai cuốn sách này nhưng có lẽ tôi thích Trái tim trên những con đường hơn, có lẽ vì tôi thích thể loại du ký, cũng có thể vì hình ảnh một Mai Thanh Nga lạc quan, vui vẻ hơn hiện lên qua cuốn sách này. Nếu Paris trong hộp giày chỉ lấy bối cảnh riêng về thành phố Paris vừa cổ kính lại vừa hiện đại thì Trái tim trên những con đường lại là hành trình chạy dọc xuyên suốt các thành phố của Châu Âu từ những thành phố lớn như Paris, London hay Venice rồi đến những thành phố nhỏ, cả những thành phố mà đến bây giờ tôi vẫn chẳng nhớ tên. Trái tim tôi cứ lửng lơ theo từng hành trình, cứ theo dấu chân của tác giả mà băng qua biển, qua rừng, hòa mình với thiên nhiên và với mong ước được một lần đặt chân đến những thành phố Châu Âu đó để đi, để yêu và để trải nghiệm. Trái tim trên những con đường được tác giả Mai Thanh Nga viết theo lối văn du ký, giọng văn nhẹ nhàng nhưng mang đầy sự lạc quan và mang hơi thở của thiên nhiên đem đến cho người đọc những cung bậc cảm xúc giản dị và chân thành nhất. Thật sự đây là một cuốn sách rất tuyệt vời cho những ai đam mê xê dịch, không gượng ép, cứ trôi theo dòng chảy của trái tim như vậy. *** Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng Từ đó tôi nguyện suốt đời rong chơi.* *Câu gốc: “Đời vẽ tôi tên mục đồng, rồi vẽ thêm con ngựa hồng. Từ đó lên đường phiêu linh” trong bài “Chỉ có ta trong cuộc đời” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bạn nói ôi trời, hát sai lời rồi kìa, tôi nói tôi có hát nhạc Trịnh đâu, tôi đang nói về kim chỉ nam cuộc sống của mình lúc này. Tôi không biết liệu cách sống ấy sẽ còn đúng tới bao giờ, khi tôi qua tuổi 20? Khi tôi đầu bốn? Khi tôi tóc bạc, cháu quấn chân? Hay khi tôi không còn tự ngồi dậy mỗi sáng được nữa? Tôi nghĩ nó sẽ thực sự chấm dứt khi tôi đủ lười, đủ lười để trái tim hết cảm giác với những bước chân. Khi căn bệnh nan y và đáng sợ ấy tới, tôi sẽ bước đi chỉ là bước, không nghĩ suy, không hoài bão, không tò mò, không xao động, và không trăn trở trong những giấc ngủ đêm. Dĩ nhiên tôi vẫn sống tốt khi không di chuyển, chỉ là cuộc sống sẽ hơi thiêu thiếu, thiếu một cái gì đó như là chính bản thân mình. Giờ thì tôi vẫn thích đi, thích điên lên được, bởi đi làm tôi hết đau lưng. Cái ghế đang làm tôi biến dạng cột sống, lại còn cài thêm mấy cái gai tinh túy vào, dĩ nhiên giết dần cơ thể và tâm hồn. Thật đấy! Người ta bảo “Con người hình thành khi khỉ đi hai chân”, đạo diễn Lê Hoàng phản pháo theo đúng kiểu đanh đá của ông: “Con người hình thành khi họ bắt đầu di chuyển”. Di chuyển ở đây chắc không chỉ nói về tình trạng địa lý mà còn trong tư duy. Nếu ta đi, không nghĩ suy, chỉ rong chơi, đơn giản đó là kẻ hành khất, giống người Gipsy một đời không nơi nương náu. Nếu ta đi, mang theo suy nghĩ khám phá vùng đất mới, say mê phiêu lưu thì sẽ thành như Gristoforo Colombo tìm thấy châu Mỹ hay James Cook cập bến châu Úc. Nếu ta đi, lòng chất đầy ham muốn chiếm đoạt thì sẽ thành thực dân Anh, Pháp, Bồ. Còn nếu ta đi, vì không có nơi nào để sống, khát khao tìm vùng đất của mình, xã hội của mình, thì sẽ thành những người Do Thái khôn ngoan. Thực chất, khi họ đến với châu Âu, ngày đó người ta coi giao thương là nhơ nhớp, dân Do Thái làm việc đó và thành công xuất sắc, có tiền nhưng không địa vị. “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Họ là những người sáng lập nên mô hình ngân hàng, mà sau này cả thế giới phải đi theo. Vậy mới là đi, thực sự là đi bằng chân và bằng đầu. Chủ nghĩa xê dịch đang “làm loạn” thế giới này, trong cộng đồng những người trẻ có nhiệt huyết, đam mê, và hơn cả là dũng cảm. Cuộc sống của con người có sinh, lão, bệnh, tử, trong đó quá trình “lão” kéo dài nhất: trẻ nhỏ, niên thiếu, trưởng thành, người già. Nhưng ở thế kỷ XXI, có thêm giai đoạn nữa gọi là hậu niên thiếu, tiền trưởng thành - quá độ Peter Pan* . Về cơ bản, giai đoạn này nằm trong quá trình “lão” bất di bất dịch, nhưng già thể xác mà trẻ tâm hồn. Bạn có thể gặp họ ở hình thái ông cụ Benjamin Button* tập nhảy, chơi đu quay, khóc oe oe gọi mẹ. Tôi nằm trong thế hệ này, thích rong chơi, vô lo vô nghĩ, không gò bó bản thân trong gia đình, nhà cửa, xe cộ, coi mình là trẻ con. Mà thế hệ này ngày càng nhiều người sống với khẩu hiệu “Forever Young”. Thật sự không biết đó là tốt hay xấu nữa? Sống theo bản năng, tự do với xã hội, bứt mình ra mọi khuôn khổ, nâng cao nhân quyền, sống thế thật tuyệt, nhưng có phần ích kỉ với gia đình. Hòa hợp giữa sống vì mình và vì gia đình khó như xã hội hiện đại cố gắng giữ bản sắc truyền thống. * Peter Pan - nhân vật hư cấu của nhà văn J.M.Barrie - mang hình hài của một thiếu niên 15-16 tuổi biết bay, luôn muốn vui chơi và hưởng thụ cuộc sống, luôn chối bỏ “sự trưởng thành”. * Nhân vật trong phim “Dị nhân Benjamin Button” (tên gốc “The Curious Case of Benjamin Button) - một cậu bé có chu trình sinh học ngược với bình thường, sinh ra đã già, dần dần trẻ ra. Phim do David Fincher đạo diễn, dựa trên một truyện ngắn cùng tên của nhà văn Mỹ F. Scott Fitzgerald xuất bản năm 1992. Dù thế nào tôi và vô số người vẫn đang xê dịch, đi chỉ vì muốn đi, hoặc đi vì chán ngồi một chỗ. Đi thì cứ đi, làm thì cứ làm, vui cứ vui, miễn sao thoải mái, chỉ đừng hô khẩu hiệu: “Người ta chỉ sống khi xê dịch”. Ông bà tôi, bố mẹ tôi nghìn đời vẫn sống, sống đẹp là đằng khác. Nhiều người lại thích câu “Đừng nói với tôi bạn giỏi thế nào, hãy nói với tôi bạn đi những đâu”. Thomas Edison cả ngày chỉ ngồi trong phòng và ông ấy mang văn minh cho toàn nhân loại. Ông Mạc Ngôn chỉ ngồi yên ở huyện Cao Mật để vẽ lên toàn bộ hiện thực Trung Quốc, giật về giải Nobel. Ngày xưa có bài báo nói vui rằng nếu nhà văn Tô Hoài lên Tây Bắc trước khi viết truyện thì “Truyện Tây Bắc” đã không hay như thế. Mỗi người một cách sống, hãy để mình tự do trong suy nghĩ về người khác. Chúng ta về cơ bản chỉ khác nhau ở đam mê. Chỉ hy vọng rằng mỗi vùng đất mình tới, mỗi trải nghiệm mình có, mỗi bước chân mình đi sẽ làm con người lớn lên. Người ta khổng lồ trong tư duy, còn tư duy khổng lồ lại nằm trong hình hài đơn giản. Đi cho sự ngu xuẩn giảm bớt, can đảm tăng lên, trí tuệ rèn giũa để đương đầu với một cuộc sống ổn định trong xã hội bất ổn phía trước. Tôi đi không hẳn đã nhiều, chỉ đủ để viết cho mình một cuốn cẩm nang nho nhỏ, có những bức ảnh, những tranh vẽ về ngày tháng tuổi trẻ ít biếng lười. Thông thường những chuyến đi sẽ bắt đầu từ các thành phố lớn: Paris, London, Prague, Venice… lâu dần con đường hẹp về những thành phố nhỏ hơn như Torino, Strasbourg, Heidenberg… rồi lại dẫn tới những thành phố kém tiếng hơn như Echallens, Founteinbleau, Biella… cứ thế đi về phía những cánh rừng, những bãi biển, những ngọn núi, về với thiên nhiên. Thành thị đôi khi làm người ta ngột ngạt dù ở châu Âu, cuộc sống rất thảnh thơi, có sự thanh bình, chậm rãi ngay cả ở những thành phố lớn. Nếu không phải chen lấn nhiều tại tàu điện ngầm thì người ta sẽ thấy cuộc sống ở nơi hỗn độn như Paris cũng còn yên lành lắm. Thế nhưng sau tất cả, thiên nhiên vẫn nhiều sức vẫy gọi nhất, về với những cánh đồng, những con đường, những ngôi làng, hoặc những thành phố nhỏ bé. Có rất nhiều vẻ đẹp tiềm tàng ở đó, không chỉ trong cảnh sắc dân dã mà còn trong bầu không khí thật tươi mới, trong những con người hiền lành - những con người thật sự Pháp, Ý hay Đức. Tôi sẽ kể một chút về những hành trình ấy - những hành trình sẽ đưa bạn đi giữa bát ngát hoa cỏ, núi rừng, mặt trời, chạy theo những vòng quay, những nỗi nhớ, biển, những câu chuyện không thể lãng quên, và tình yêu chưa bao giờ lụi tàn trên con đường tít tắp. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Trên Những Con Đường của tác giả Mai Thanh Nga.
Hồi Ký Trần Vàng Sao
Lời người sưu tầm: Tài liệu mà tôi gởi tới độc giả sau đây là một tập hồi ký, dày 134 trang A4 đánh máy vi tính chữ nhỏ xuất hiện dưới hình thức samizdat được photocopy (thứ văn chương chuyền tay khá phong phú ở Việt Nam sau những năm “đổi mới”) cách đây có hơn 10 năm [1] . Tác giả của nó là Trần Vàng Sao (tên thật là Nguyễn Đính), một người làm thơ ở miền Nam, nhưng vào những năm 60 của thế kỷ trước, đã cùng với nhiều bạn bè đồng lứa đứng lên chống lại chế độ chính trị của miền Nam lúc đó bằng cách “đi lên núi” để cuối cùng, sau khi thoát khỏi bom đạn Mỹ, anh đã vướng phải một tai hoạ cực kỳ tệ hại. Cuốn hồi ký này kể lại cái tai hoạ đó khi từ chiến khu, anh được đưa ra miền Bắc trị bệnh: ở nơi đây, sau một thời gian quan sát, anh đã ghi lại những suy nghĩ của mình về cái gọi là “hậu phương xã hội chủ nghĩa” đó bằng nhật ký và chính vì những suy nghĩ ghi thành chữ viết này anh bị các đồng chí của mình truy bức, nguyền rủa, phỉ nhổ, cô lập, đến chỗ như anh cho biết anh không còn được coi là con người mà đã thành “một con vật, một con chó”. Trong rừng, tôi đã nghe biết một số trường hợp những trang nhật ký bị tố cáo, nhưng chưa thấy có trường hợp nào sự tố cáo lại dẫn đến một cuộc hành hạ, trừng trị độc địa như trường hợp của Trần Vàng Sao. Những ai đã đọc Đặng Thuỳ Trâm cùng những bàn tán về nhật ký của chị, khi đọc xong hồi ký của Trần Vàng Sao, sẽ thấy rất khó mà coi các tài liệu chiến tranh này là những “bản chứng nghiệm chân thực của lịch sử” – như có một tác giả nào đó đã cho là vậy. Tuy cùng “chung một chiến hào”, thuộc cùng một thế hệ những người đi vào chiến tranh (Trần Vàng Sao cũng sinh năm 1942 như Đặng Thuỳ Trâm), nhưng những giá trị mà Đặng Thuỳ Trâm tin tưởng một cách “chân thực” để sống và để chết thì đối với Trần Vàng Sao lại chỉ là những điều huyễn hoặc đơn thuần. Không thể nói là không “chân thực” nỗi thất vọng của một trí thức như anh, một người đi qua máu lửa để tìm đường chợt thấy trước mắt mình hiện ra một khoảng hư vô mù mịt. Với tai hoạ ấy, anh đã bị đẩy vào tình thế đứng giữa hai lằn lửa. Là người miền Nam, nhưng anh đã phủ định cái huyền thoại ngô nghê về một “một miền Nam đúng nghĩa” dưới một chính thể mệnh danh “dân chủ, tự do, no ấm” để chọn lựa đi về “phía bên kia”, cuối cùng đã bị cả “phía bên kia” lẫn “phía bên này” kết án. Ngày nay, với sự xuất hiện lại của hồi ký này, không thể loại trừ những tố cáo ấy sẽ tái diễn, và nếu như vậy thì cũng chẳng có gì khó hiểu. Như có người đã nói rồi, cuộc chiến đã chấm dứt 30 năm nhưng những vết thương mà nó để lại trong lòng người còn quá sâu đậm: bên cạnh hàng triệu người vui vẫn còn hàng triệu người buồn. Những vướng mắc trong quá khứ vẫn chưa tìm được cơ sở chung để tháo gỡ một cách thanh thản, hoà bình. Dù sao, tôi thấy giới thiệu lại những trang hồi ức của Trần Vàng Sao như dấu tích của một thời đã qua vẫn là cần thiết, nhất là với những ai chợt thấy có mong muốn nhìn lại cái thời đã qua ấy một cách nhiều mặt hơn: ngoài những tiếng nói của hai phe đối nghịch có đủ lý do (Bắc/Nam, quốc/cộng…) để tố cáo nhau một cách ác liệt, còn có tiếng nói của những người cũng có đủ lý do để không còn phải đứng về phe nào trong hai phe ấy nữa. Có thể chẳng giải quyết được gì: nhiều lắm cũng chỉ là trải nghiệm của một cuộc dấn thân máu lửa, cần được nhắc đến để rọi sáng thêm một cuộc máu lửa mà những hệ luỵ của nó chưa chịu nằm yên trong những nấm mồ. Sự chân thực mang tính chất nhân chứng ở đây không có lý do nào chính đáng để nâng mình thành sự chân thực của bản thân lịch sử, dù đó là sự chân thực của một niềm tin hay là sự chân thực của một hận thù. Sài Gòn ngày 2.11.2005 Lữ Phương *** Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ) ở Thừa Thiên Huế. Năm 1961 ông thi đỗ tú tài rồi vào Đại học Huế, tham gia các phong trào đấu tranh của sinh viên cùng thế hệ với Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Quang Long, Ngô Kha. Từ 1965 đến 1970, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế, viết báo với các bút danh Nguyễn Thiết, Lê Văn Sắc, Trần Sao. Năm 1970 ông được đưa ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh. Ở nơi đây, ông có viết nhật ký gồm những suy nghĩ của ông về cái gọi là "hậu phương xã hội chủ nghĩa" và sau đó bị tố cáo, đấu tố và cô lập [2] đến nỗi ông có cảm giác không còn được coi là con người mà đã thành "một con vật, một con chó, theo như Hồi ký "Tôi bị bắt (Nhớ lại những năm tháng tôi bị bắt rồi được thả ra và sống như tù)" sau này của ông[3]. Sau khi Việt Nam thống nhất (tháng 4 năm 1975), Trần Vàng Sao xung phong về quê công tác nhưng không được chấp nhận; ông tự trở lại Huế làm liên lạc ở xã, sau đó được bố trí công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế rồi được điều về làm liên lạc ở xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), Huế cho đến khi nghỉ hưu năm 1984. Ông sống tại thành phố Huế và mất hồi 14h45 phút ngày 09/5/2018. Ông hầu như không cho xuất bản thơ nhưng vẫn nổi tiếng với "Bài thơ của một người yêu nước mình" ký bút danh Trần Vàng Sao sáng tác tháng 12 năm 1967 và được chọn trong 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20. Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến hiện định cư ở Pháp: Năm 1993 nhà xuất bản Tân Thư (California, Hoa Kỳ) in tập “Bài thơ của một người yêu nước mình” của nhà thơ Trần Vàng Sao. Năm 2008, Nhà xuất bản Giấy Vụn đã cho in tập thơ "Bài thơ của một người yêu nước mình" của ông [2]. Tháng 8/2020 tập thơ BÀI THƠ CỦA MỘT NGƯỜI YÊU NƯỚC MÌNH của nhà thơ Trần Vàng Sao do Nhà xuất bản Hội Nhà văn và Công ty Nhã Nam hợp tác xuất bản. Một ấn phẩm đặc biệt về thơ và mỹ thuật. Sách được bán trên toàn bộ hệ thống của Công ty Nhã Nam. Ngày 12/11/2021, tập thơ được trao thưởng Giải thưởng sách Quốc gia 2021.   Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Trần Vàng Sao của tác giả Trần Vàng Sao.
Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp
“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Française) là tác phẩm của Hồ Chủ tịch viết bằng tiếng Pháp trong khoảng những năm 1921-1925, đăng tải lần đầu tiên năm 1925 tại Paris (thủ đô nước Pháp) trên báo Imprékor của Quốc tế Cộng sản. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục, với cách hành văn ngắn gọn, súc tích, cùng với những sự kiện đầy sức thuyết phục, tác phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt “dân bản xứ” phải đóng “thuế máu” cho chính quốc... để “phơi thây trên chiến trường châu Âu”; đày đọa phụ nữ, trẻ em “thuộc địa”; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ, v.v... Tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn ngay từ khi ra đời, thức tỉnh lương tri của những con người yêu tự do, bình đẳng, bác ái, hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga và chủ nghĩa Mác – Lênin, thắp lên ngọn lửa đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội của dân tộc Việt Nam. Nhân hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trẻ in tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” – một trong những đỉnh cao của văn chương chính luận cách mạng.  *** Hồ Chí Minh (chữ Nho: 胡志明; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh Nguyễn Sinh Cung (chữ Nho: 阮生恭), là một nhà cách mạng và chính khách người Việt Nam. Ông là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, từng là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ 1945–1969, Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong những năm 1945–1955, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ 1956–1960, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951 cho đến khi qua đời. Trong quãng thời gian sinh sống và hoạt động trước khi lên nắm quyền, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều quốc gia và châu lục, ông được cho là đã sử dụng 50[1] đến 200 bí danh khác nhau.[2] Về mặt tư tưởng chính trị, Hồ Chí Minh là một người theo chủ nghĩa Marx – Lenin. Ông là nhà lãnh đạo phong trào độc lập Việt Minh tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ông cũng là người đã soạn thảo, đọc bản Tuyên ngôn độc lập thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và trở thành Chủ tịch nước sau cuộc tổng tuyển cử năm 1946. Trong giai đoạn diễn ra chiến tranh Đông Dương và chiến tranh Việt Nam, Hồ Chí Minh là nhân vật chủ chốt trong hàng ngũ lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Hồ Chí Minh giảm dần hoạt động chính trị vào năm 1965 vì lý do sức khỏe rồi qua đời vào năm 1969. Năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chiến thắng, hai miền Việt Nam được thống nhất, dẫn đến sự ra đời của nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Thành phố Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh để tôn vinh ông cũng như sự kiện này. Ngoài hoạt động chính trị, Hồ Chí Minh cũng là nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp.   Mời các bạn đón đọc Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp của tác giả Nguyễn Ái Quốc.
Tôi Kéo Xe
Tam Lang là cây bút ký sự khá nổi tiếng trong làng báo Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám. Hầu như không có tờ báo nào vắng bóng bài viết của ông. Với bút pháp nhẹ nhàng mà dí dỏm, các tác phẩm của ông là bức tranh khá chân thực về xã hội Việt Nam của những nǎm 1930 - 1945. Tập ký Tôi kéo xe là tuyển tập những tác phẩm ký đặc sắc nhất của ông. *** Thay lời giới thiệu Thiên phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang, do nhà Mai Lĩnh xuất bản từ năm 1935, đến nay đọc lại, vẫn thấy còn nguyên giá trị. Gần một thế kỷ đã trôi qua, xã hội đã trải qua biết bao thăng trầm, biến cố, với biết bao máu lệ của lịch sử, các thể tài sáng tác văn chương, báo chí đã biến đổi không ngừng với rất nhiều những hình thức mới, đầy tính cách mạng, tân kỳ... Nhất là kỹ nghệ làm báo, làm truyền hình, truyền thông mạng... đã có những thay đổi căn bản, những biến chuyển mà kể cả những người làm nghề nhà báo, phóng viên cũng khó mà hình dung hết được. Vậy mà bất chấp những thay đổi tưởng như bãi biển nương dâu ấy, thiên phóng sự mỏng mảnh, giản dị Tôi kéo xe của Tam Lang, ngay giờ đây, vẫn là một mẫu mực trong nghề, vẫn khiến người ta phải suy ngẫm... Vì xét kỹ ra, các nhà báo bây giờ, dẫu viết có khéo léo, mất công thế nào, cũng vẫn không qua nổi một điều: sự chân thực. Mà sự "chân thực" ấy, hiện tại ai cũng biết cũng rõ, dẫu đôi khi nó sờ sờ ra đấy, người viết báo nhìn thấy được, cảm thấy được đã khó, nhưng có đủ dũng khí mà đề cập đến nó, vạch rõ chân tướng nó còn khó gấp mười. Cái thách thức căn bản về nghề ấy, người viết Tôi kéo xe đã vượt qua không mấy khó khăn. Tam Lang Vũ Đình Chí, khi quyết định cởi áo ký giả, mặc áo cu li, để hóa thân thành một người kéo xe, một kẻ ngựa-người, quả thực đã thâm nhập hoàn toàn vào cái vai ấy, nghề ấy, để mô tả chi tiết một bức tranh thực tế sống động, và không phải là không rộng lớn về xã hội đang sống với những sự thực chua chát, những mánh khóe, lọc lừa đen bạc, những đểu giả và nhẫn tâm của xã hội, dưới đáy hoặc không, nhiều đĩ điếm và cũng lắm trưởng giả. Cứ như chúng ta thấy, rất nhiều ký giả hiện nay, khi nhập vai viết về tệ nạn xã hội, cái kỹ năng cũng vẫn chẳng vượt hơn tác giả Tôi kéo xe là bao, và với mức độ thiếu đầu tư cho một đề tài của các tờ báo hiện tại, thì kể cả một bài báo gọi là dài kỳ nào đó, cũng khó mà so sánh được với sự rốt ráo, thấu đáo, trọn vẹn của Tôi kéo xe của nhà báo họ Vũ cách đây non thế kỷ. Ấy là không bàn đến các thể loại phóng sự "tôi đi tôi đến tôi thấy" theo kiểu chuồn chuồn đạp nước. Nhưng cái giá trị trước nhất của Tôi kéo xe, phải nói đến, chính là văn phong của nó. Tiếng Việt và lối viết của Tam Lang quả thật vẫn khá trơn tru, hiện đại, rất khác với những trang viết ở cùng thời mà ta thấy hiện đã ít nhiều khó đọc bởi từ vựng cũ kỹ và diễn đạt lạc hậu. Là một phóng sự báo chí, nhưng Tôi kéo xe đã có những câu văn cá nhân hóa đặc sắc: "Ăn đã chẳng có gì béo bổ, ở cũng ở chui ở rúc, lại còn dãi gió dầm mưa, phơi sương phơi nắng, đến đá cũng phải ốm, đừng nói là người. Nhưng giời đã đày vào kiếp ấy, cũng chẳng chống lại được với giời! Biết giữ được phần nào, hãy cứ hay phần ấy". Ai đọc cũng thấy được đây là triết lý của một anh cu li kéo xe, gốc gác đồ nho vậy! Rồi những lối hạ bút không kiêng dè như đá tạc: "Người để người kéo người là loài người ôm chung một cái nhục". Những đúc kết thẳng băng, không khoan nhượng, mà đau xót, của người kéo xe: "Ồ đời này, thằng nào coi rẻ đồng tiền là thằng ngu. Thiên hạ nó đã lấy lực đồng tiền sai khiến mình thì mình có chịu cho nó sai, cũng phải nhổ vào mặt nó mà lấy đồng tiền của nó". Cùng cái nhạy cảm hài hước của một người viết mà có lẽ cũng ít ký giả có được khi hành nghề. "Tôi thấy tôi như một thằng trần truồng đi ra phố, đang kéo một chiếc xe bò trên có dựng tấm bảng đề rõ tên họ mình và cả tên họ những người thân thuộc của mình..." ° ° ° Hơn 70 năm đã trôi qua kể từ khi Tôi kéo xe ra đời, chiếc xe kéo đã biến mất từ lâu, xích lô vẫn còn nhưng chỉ là dấu tích ở những đô thị mà xe ôm và taxi đang là phương tiện đi lại phổ biến. Thế thời đã khác, phương tiện cũng khác. Thế nhưng, ai dám bảo rằng, cái cảnh tượng sinh hoạt với đầy đủ sắc màu xanh đỏ tím vàng đen trước kia của Tôi kéo xe, hiện giờ, đã không còn đen tím vàng xanh đỏ? Trác Phong Hà Nội, 7.2014   Lời tác giả Năm 1932, viết thiên phóng sự Tôi kéo xe cho đăng trên Hà Thành Ngọ Báo và năm 1935 tự bỏ tiền ra in thành sách thiên phóng sự đó, tôi chân thành có hai ước vọng: chế độ "cai xe" sẽ không còn nữa; chiếc xe hai bánh "người kéo người" sẽ được chiếc xe 3 bánh "người đạp người" thay thế, để người phu xe không còn bị "cai xe" bóc lột, đồng thời lấy lại được phẩm cách con người khi họ không còn tự ti mặc cảm thấy xã hội coi khinh coi rẻ họ như thân trâu ngựa. Hơn 10 năm sau khi tập phóng sự Tôi kéo xe xuất bản, trên toàn quốc không còn bóng dáng chiếc xe kéo nào nữa; và hơn 30 mươi năm sau, với chính sách phu xe có chiếc xe mua trả góp thành của tư hữu để làm phương tiện sinh kế, chế độ "cai xe" tuy chưa mất hẳn nhưng cũng bớt phần hà khắc đối với một sô phu xe không có tiền mua xe trả góp để hành nghề. Từ ngày ấy đến ngày nay, tính đã được ngót nửa thế kỷ, tôi thấy đạt được một phần ước vọng đó, nhưng lại là một phần nhỏ nhoi, chẳng thấm tháp gì. Tôi có những cảm nghĩ ấy vào một buổi tối cách đây không lâu, khi không còn phương tiện xê dịch nào khác bằng cách thuê xe xích lô đạp từ quãng nhà thương Cơ Đốc Phú Nhuận về khu nhà thờ Cầu Kho, trong câu chuyện tán mảnh suốt dọc đường xe qua, người phu xe đã hỏi tôi - khách ngồi xe -: "Bác có Khoái... chơi gái không? Tôi dẫn bác đi. Chỉ hai ghim thôi! Có mắc mỏ gì. Đẹp, lại trẻ..." Để quảng cáo cho "món hàng" này, người ấy còn nói nhiều, giọng khó nghe, vì là tiếng của người xứ Nghệ. Thấy tôi không bắt chuyện nữa, người ấy cũng không nói nữa, ngoài câu nói sau chót: "Bác trả thêm chục đồng nữa chứ!" khi đã hết cuốc xe. Tôi kể câu chuyện trên để trả lời chung những bạn đã bảo tôi khi biết tập Tôi kéo xe sắp được tái bản: "... Bây giờ làm gì còn có xe kéo nữa! Mụ Cai Đen đã chết từ tám hoảnh, nên để cho mụ yên mồ yên mả, còn khai quật lên làm gì!" Dù những nhân vật được mô tả trong thiên phóng sự Tôi kéo xe đã là những xác chết thối tha, người ta cũng còn thấy vẫn phải khai quật cả lên nếu người ta cùng chung quan niệm với Vũ Ngọc Phan, nhà phê bình văn học đã ghi lại trong bộ sách Nhà văn hiện đại câu này: "... không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự". Lần này, cho tái bản tập Tôi kéo xe, tôi còn hoài bão một ngày nào đó ước vọng của tôi được thành đạt cả. Từ 2 bánh không bàn đạp biến thành 3 bánh có bàn đạp, chiếc xe đã thay đổi nhưng tâm hồn người phu xe vẫn chưa được gột rửa, khi nghề "làm xe" còn nuôi sống được người đeo đẳng nó, thì tập phóng sự này chưa đến nỗi là loại sách thuộc "đồ bỏ" đáng liệng vào sọt giấy để Sở Vệ sinh thành phố cho xe rác hốt đi. Sài Gòn, ngày 20-7-1969 Tam Lang *** Người đội lên đầu tôi chiếc nón phu xe kéo Ông Bùi Xuân Học - chủ nhiệm Ngọ Báo - một hôm, vỗ vào vai tôi mà bảo : - Anh có ngòi bút viết văn tả chân khéo, bây giờ đang là mùa các bạn đồng nghiệp của anh đi khắp bốn phương điều tra, phỏng vấn: Albert Londres sang Thượng Hải, Maurice Dekobra đi Hoa Kỳ, Geo London tới miền cương giới Tô-Nga, Louis-Charles Royer đến thành Leningrad Xô Viết..., mà anh thì chỉ lúi húi ở xó nhà với ba bài văn sầu cảm, sao không ném bút đi xem người cho sáng thêm con mắt, có hơn không? Tôi nghĩ câu nói nửa đùa nửa thật của bạn mà thẹn, thẹn rồi mà buồn, buồn rồi lại nghĩ: "Thằng em họ mình muốn sang làm ăn bên Cao Mên, xin căn cước đã ba hôm nay mà chưa được chữ; Thượng Hải, Nhiêu Do đều xa hơn Cao Mên cả, mình đi làm sao được, mà đi để làm gì bây giờ? Phỏng vấn với điều tra, hai việc ấy, không phải chỉ có cái tài viết văn tả chân mà làm nổi. Xỏ vào hai chân đôi hia đi bảy dặm, đeo lên vai một túi khôn với một túi bạc, cầm trong tay một cái gậy của kẻ vong gia, rồi hãy bàn đến những chuyện đường xa ấy". Cái xa chẳng được làm thì mình làm cái gần vậy. Bắt chước Marise Choisy đổi lấy bộ áo con đòi vào ở thổ, tôi cũng mượn bộ quần áo nâu của một bạn áo ngắn, khoác vào mình rồi mạnh bạo đi làm xe. Thế là ông Bùi Xuân Học, bạn tôi, một buổi trưa nắng gắt mùa hè, đã đội lên đầu tôi chiếc nón lá phu xe kéo. Mời các bạn đón đọc Tôi Kéo Xe của tác giả Tam Lang.