Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Biến Thân

Keigo một lần nữa khẳng định ông là bậc thầy của dòng tâm lý xã hội qua cuốn tiểu thuyết mới xuất bản. Biến thân là cuốn sách của ông hoàng trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Tác phẩm mới được NXB Hồng Đức liên kết Công ty IPM phát hành ở Việt Nam qua bản dịch của Cẩm Hương. Biến thân kể về người thanh niên hiền lành tên Junichi (Jun). Jun hiền đến nỗi chẳng mấy khi phản đối lời người khác, thậm chí còn không dám giết một con chuột. Cuộc đấu tranh nội tâm Ngày kia, tai họa đột nhiên giáng xuống, người ta đưa Jun vào bệnh viện, tiến hành một ca phẫu thuật lần đầu tiên trên thế giới. Ra viện, Jun trở về với cuộc sống, với người yêu của mình, nhưng anh đã không còn hiền lành, trung hậu nữa. Jun trở nên hung hãn, bản năng và thú tính. Jun bắt đầu chuỗi ngày dằn vặt, đấu tranh với tính cách mới của bản thân. Cuộc chiến giữa cái thiện - phần bản tính hiền lành của Jun lúc trước và cái ác - phần bản tính mới xuất hiện sau cuộc đại phẫu, diễn ra trong anh. Và trên hành trình đó, anh bắt đầu khám phá ra sự thật, rằng các bác sĩ đã làm gì với bộ não của anh! Nhịp độ của Biến thân có thể khá chậm ở đoạn đầu, nhằm mục đích giới thiệu các nhân vật, giới thiệu cuộc phẫu thuật, hé mở dần những biến đổi trong tâm lý của nhân vật chính. Nhưng càng về sau, mạch truyện càng được đẩy đi nhanh hơn, các tình tiết xảy ra liên tục và cứ thế cuốn người đọc đến với cái kết. Cũng như hầu hết tác phẩm trước đây của Keigo, Biến thân sở hữu cốt truyện khá đặc sắc. Các tình tiết được liên kết với nhau chặt chẽ, mỗi chi tiết đều đóng một vai trò quan trọng trong việc thêu dệt nên bức tranh toàn cảnh. Điểm hay nhất ở cuốn sách này có lẽ đến từ việc lột tả nội tâm của hai tính cách trong cùng một con người. Keigo đã miêu tả một cách hoàn hảo sự dằn vặt nội tâm khủng khiếp của nhân vật chính. Ngay trong thân xác ấy, một cuộc chiến khốc liệt của cái thiện và cái ác, của thiên thần và ác quỷ để giành lấy quyền làm chủ. Bằng cách sử dụng sự đối lập giữa hai tính cách, Keigo đã nêu quan điểm của mình về một vài vấn nạn trong cuộc sống của con người. Trong cả hai nhân cách tồn tại trong con người của nhân vật, đâu là thiện, đâu là ác, ranh giới giữa chúng thật sự rất mong manh. Keigo đã đặt ra câu hỏi khiến độc giả phải suy ngẫm: “Liệu phần tính cách ác của Jun, có thật sự hủy hoại anh ấy? Hay chính phần thiện trước đây, đã ăn mòn bản thân anh bằng sự mờ nhạt, an phận?". Sức mạnh của tình yêu thương Nếu phần thiện trước đây của Jun tượng trưng cho tính cách hiền lành, hòa nhã, thì nó lại đi đôi với nhu nhược, an phận. Phần "ác" lại đi đôi với sự nhanh nhẹn, khao khát khẳng định bản thân, và không dung thứ cho sự giả dối, sai trái. Keigo đã mượn chính phần tính cách "ác" đó, để lột tả một sự thật tồn tại trong cuộc sống chúng ta, những người đang bị rơi vào cái bẫy của sự “ổn định”. Đó là sự trì trệ, sự an phận, trôi từ năm này sang năm khác, như những mẩu lục bình. Đó liệu có phải là sự ổn định mà chúng ta đang cần? Hay chính điều đó đang giết chết chúng ta từng ngày, từng giờ? Sau cùng, tình yêu thương cũng là vũ khí giúp ta chiến thắng tất cả! Bên cạnh việc nói lên những mặt tối của con người và xã hội, trong Biến thân, Keigo vẫn có chỗ để tôn vinh tình yêu thương. Rất nhiều tình yêu đã được nhắc đến, từ tình yêu đôi lứa, đến tình cảm gia đình. Điển hình và dễ thấy nhất, là tình yêu vô bờ bến của Megumi dành cho Junichi. Cô yêu anh vô điều kiện, kể cả anh có trở thành một con người khác, có xua đuổi cô hay thậm chí giết cô, cô vẫn chấp nhận. Bạn đọc có thể sẽ cảm thấy rất thương Megumi, cô phải đối mặt với một Junichi hoàn toàn khác sau cuộc phẫu thuật, đối mặt sự cô đơn trong chính tình yêu của mình. Nhưng cô vẫn không bỏ cuộc. Và mọi thứ đã được đền đáp xứng đáng. Tiếp theo đó, tình yêu điên cuồng và rồ dại như tình yêu của tên sát thủ dành cho người mẹ của mình. Keigo đã có đoạn miêu tả điều này: “Tình yêu với mẹ của anh Shunsuke mãnh liệt tới mức không diễn tả được thành lời, yêu đến kinh người ấy. Sau khi mẹ mất, anh ấy nhốt mình trong phòng, cả ngày khóc rống gào thét, đến mức tôi còn sợ anh ấy quẫn trí mà chết mất”. Nguyên nhân sự hóa điên của nhân vật này cũng xuất phát từ chính cái chết của mẹ anh ta. Điều đó đủ để cảm nhận anh thương mẹ đến nhường nào. Cuối cùng, tình yêu âm thầm nhưng to lớn của Junichi dành cho Megumi. Cũng chính tình yêu đó đã tiếp thêm sức mạnh cho anh chiến thắng được phần ác trong con người, vào thời điểm gần như tâm hồn của anh đã hoàn toàn nhường chỗ cho nó! Suốt thời gian bị cái ác chiếm ngự, Jun đã gần như quên mọi thứ thuộc về con người trước đây. Nhưng có một điều Jun không quên, là “không thể quên rằng đã yêu Megumi”. *** ”Chết – sống không đơn thuần là hít thở hay tim đập, có sóng não, mà là để lại dấu vết trên cõi đời. Phải nhìn thấy dấu chân mình trên con đường đã qua, đồng thời chắc chắn đó chính là dấu chân của mình, mới gọi là sống”_ Junichi là một thanh niên hiền lành, có thể nói có phần nhu nhược và an phận, không thích đua tranh, đang sống một cuộc đời bình lặng bên cạnh cô bạn gái Megumi. Trong một lần đến văn phòng bất động sản, vì cứu một bé gái khỏi phát súng của tên cướp, anh đã bị bắn trúng đầu, và tỉnh dậy tại bệnh viện đại học Towa. Anh dần khám phá ra mình đã trở thành người thử nghiệm cho ca mổ đầu tiên trên thế giới – ca phẫu thuật thay não. Được đưa từ cõi chết trở về, tưởng chừng là hạnh phúc, nhưng dần dần Junichi phát hiện ra nào phải vậy. Bác sĩ Dogen và đồng sự đều đang cố gắng giấu giếm anh điều gì đó. Anh nhận ra bản thân mình đang biến đổi, từ những thói quen nhỏ nhặt nhất, đến cả sở thích hội họa cũng không còn. Tồi tệ hơn, tình cảm thuần khiết của anh đối với Megumi cũng dần dần phai nhạt. Và kinh khủng nhất là khi Junichi cảm thấy phần “con” của mình bắt đầu lớn dần, lấn át cả phần “người”. Anh dễ kích động hơn, cảm thấy khó chịu với những người kém cỏi hay không chịu cố gắng, và trở nên bạo lực, dễ gây hấn, thậm chí còn cảm thấy muốn giết người. Trước khi đánh mất hẳn con người trước đây, Junichi điên cuồng tìm hiểu, rốt cuộc điều gì đã xảy ra với mình trong cuộc phẫu thuật định mệnh ấy? Khách quan mà nói, Biến thân hoàn toàn không phải là một tiểu thuyết trinh thám. Cuộc điều tra của Junichi không phải nội dung chính của tiểu thuyết, và kết quả của nó cũng khá là dễ đoán. Tiểu thuyết này thiên về tâm lý, nó đi sâu vào phân tích nội tâm và những suy nghĩ, giằng xé của Junichi khi nhận ra việc dần đánh mất bản thân mình, và quá trình anh đấu tranh với điều đó. Chính vì thế, tôi sẽ so sánh với một tiểu thuyết thiên về tâm lý khác của Keigo, quyển Bí mật của Naoko. So với Naoko, quyển này hoàn toàn không bằng. Về tình tiết, Naoko hấp dẫn và gay cấn hơn. Về mô tả tâm lý, Naoko làm tôi đồng cảm và xót xa cho cả người chồng lẫn người vợ, còn quyển này không hiểu sao tôi chỉ như một khán giả đứng ngoài nhìn vào trận chiến của Junichi với vẻ lãnh đạm. Về kết thúc, Naoko tạo được một bất ngờ ở cuối truyện, điều mà Biến thân chẳng hề làm được. Đọc đến vài trang cuối cùng rồi, tôi vẫn còn hoang mang, cái “chất” của Keigo ở đâu khi không hề có pha bẻ lái (dù gắt hay không gắt cũng được), mọi diễn biến cứ đi theo con đường của nó, trơn tru đến bất ngờ. Nói tóm lại, tôi đã kỳ vọng ở Keigo nhiều hơn thế này. Nhã Nguyễn *** Review BIẾN THÂN – Keigo Higashino Dịch giả: Cẩm Hương. NXB: IPM và Hồng Đức Điểm: 8,5/10 BIẾN THÂN – Lại là một bi kịch xã hội đến từ Keigo Higashino  Junichi tỉnh dậy, cuộc đời của một người đàn ông hiền lành, ít nói không còn đơn giản như trước. Những tưởng khoảnh khắc anh vì cứu người mà trọng thương đã khiến anh ghé thăm căn nhà của Tử thần. Vậy thì sau khi được cứu sống nhờ sự hiện đại của y học, anh lại lần nữa “lăn xuống con dốc của địa ngục”. Không biết lần này, điều gì sẽ cứu anh khỏi lưỡi hái của Tử thần đây? Cả cuốn sách chủ yếu đi theo góc nhìn của Junichi, cũng chính là nhân vật TÔI. Đan xen giữa đó là các trang nhật ký của các nhân vật khác. Không phải tự dưng mà tác giả thêm vào mạch truyện những dòng nhật ký ấy. Đó chính là minh họa trực quan nhất cho sự BIẾN THÂN của Junichi. Xét về toàn bộ câu chuyện thì BIẾN THÂN ko mạnh về việc đánh lừa người đọc hay cốt truyện bất ngờ, mà BIẾN THÂN xuất sắc ở cách khắc họa tâm lý của nhân vật. Và trong tác phẩm này, Keigo đã phát huy tối đa tài hoa của mình trong việc vẽ nên những dằn vặt trong nội tâm nhân vật. Vậy mình ấn tượng gì ở cuốn sách này? Rõ ràng từ đầu đến cuối, chỉ có một danh xưng TÔI. Nhưng người đọc cảm nhận rõ được cái TÔI kia đang dần thay đổi. Lần theo từng dòng suy nghĩ của nhân vật, cảm nhận được sự đấu tranh giữa 2 Junichi trong từng tế bào thần kinh, người đọc phải tự hỏi rốt cuộc TÔI đã biến mất chưa? Để đến những trang cuối cùng, bạn sẽ nhận ra, người vẫn xưng TÔI đã trở thành một TÔI hoàn toàn khác từ lúc nào không hay. Tôi ở trong mặt kính đang lặng lẽ nhìn tôi… Rõ ràng đây là mắt của Naruse Junichi. Từ đầu đến cuối, luôn là tôi, luôn là Junichi. Nhưng đâu là Junichi, đâu là Junichi đã biến thân? Trên đây là những cảm nhận của mình về BIẾN THÂN, còn bạn thì sao? Lý Hoàng *** Ghi chép của Dogen (1) Thứ Bảy, 10/3. Ca phẫu thuật đã hoàn thành một cách suôn sẻ. Hiện tại chúng tôi chưa phát hiện ra điều gì bất thường, người nhận không có rối loạn tín hiệu hay sóng điện não lạ. Chúng tôi sẽ liên tục phân tích hình dạng sóng não và ghi chép đồ thị từng phút một, không thấy có phản ứng thải ghép, các hoạt động duy trì sự sống đang diễn ra thuận lợi. Tôi đã thông báo lần cuối cho người phát ngôn và gửi lời cảm ơn tới đội ngũ bác sĩ hỗ trợ. Trước buổi họp báo, tôi cũng đã gọi điện báo cáo cho trưởng khoa, ông bảo, “Sau đây thì trông chờ số mệnh thôi, phải không?” Chính xác là như thế. Các tính toán cho thấy tình trạng hôn mê sẽ tiếp tục kéo dài thêm vài tuần. Trong thời gian đó, chúng tôi sẽ quan sát người nhận trong phòng hồi sức tích cực. Khi cậu ấy tỉnh dậy, chúng tôi sẽ ứng phó linh hoạt tùy thuộc vào mức độ nhận thức của cậu ấy. Trợ lý Tachibana là người phụ trách việc này. Thi thể người hiến sau khi khâu lại đã được xử lý theo kế hoạch. Lúc họp báo cũng có vài câu hỏi đặt ra về người này, chúng tôi đều từ chối trả lời, với lý do đã thống nhất tại hội đồng y đức. Bây giờ là 11 giờ 30 phút đêm. Chẳng mấy chốc là ngày 11, một ngày dài và căng thẳng. Các mạch đã nối có hoạt động bình thường không? Tôi không khỏi bồn chồn, nóng lòng chờ người nhận tỉnh dậy.   1 Đầu tiên, tôi cảm thấy mình vẫn đang trôi bồng bềnh trong mơ, nhưng dần dần phần âm u tan đi, chỉ còn lại thứ bóng tối nhờ nhờ. Sau đó âm thanh sống dậy bên tai nghe như tiếng gió thổi xa xa, tiếp đến là tiếng kim loại leng keng. Cơ má tôi đột ngột co giật. “Có phản ứng rồi.” Giọng một thanh niên vang lên, và ngay bên cạnh là ai đó nữa. Tôi tự hỏi tại sao mình lại không nhìn thấy, và chẳng mấy chốc nhận ra mắt mình đang nhắm. Những ngón tay cảm nhận được làn chăn. Hình như tôi đang ngủ. Tôi chầm chậm mở mắt, ánh sáng trắng ập tới chói lòa. Tôi nheo mắt lại, chờ một lúc, khi đã thích nghi với ánh sáng, tôi mở mắt lần nữa. Tôi bắt gặp ba gương mặt, hai nam một nữ. Trông họ căng thẳng như thể đang nhìn thứ gì rất đáng sợ. Tất cả đều mặc blouse trắng. Đây là đâu? “Cậu nhìn thấy chúng tôi chứ?” Người cất tiếng hỏi là một người đàn ông với mái tóc bạc trắng, người lớn tuổi nhất trong bọn. Từ đuôi mắt đến trán chi chít nếp nhăn, mắt đeo cặp kính mạ vàng. Tôi muốn đáp “Tôi nhìn thấy”, nhưng không thể nói cho trôi chảy. Tôi há miệng. Họng và môi cứng chặt cứ như của ai khác. Thế nên tôi dùng nước bọt làm ướt cổ họng, ra sức thử, kết quả âm thanh chẳng ra âm thanh và tôi ho một cách nhọc nhằn. “Không phải cố đâu. Cậu gật hay lắc đầu cũng được.” Người đàn ông tóc bạc trắng nói bằng giọng thân tình. Tôi chớp mắt hai ba lần và gật đầu, ông thở phào nhẹ nhõm. “Bệnh nhân nghe được, hiểu được ngôn ngữ và nhìn được.” Tôi hít vào rồi mở miệng, thận trọng cảm nhận trạng thái cổ họng. “Đây… là… đâu?” Câu hỏi như cổ vũ tinh thần những người này. Mắt sáng lên, họ nhìn nhau. Thanh niên có cái cằm nhọn nói, “Bệnh nhân đã đặt câu hỏi. Chúng ta thành công rồi, thưa giáo sư.” Mặt anh ta đỏ bừng, có phải anh ta đang hào hứng không? Người đàn ông tóc bạc thoáng gật đầu rồi nhìn vào mắt tôi. “Đây là bệnh viện. Chúng ta đang ở Tòa số 2 Bệnh viện Đại học Towa. Cậu hiểu lời tôi nói chứ?” ông hỏi, và tôi khẽ gật đầu. Xác nhận rồi, ông tiếp tục, “Tôi là Dogen, người phụ trách phẫu thuật cho cậu. Hai người có mặt ở đây là trợ lý Wakao và Tachibana.” Thanh niên cằm nhọn và cô gái trẻ lần lượt cúi đầu chào tôi theo lời giới thiệu của người đàn ông. “Tôi… tại sao… ở đây?” “Cậu không nhớ phải không?” Tôi nhắm mắt lại, suy nghĩ về câu hỏi của ông Dogen, cảm giác như mình đã trải qua một giấc mơ dài. Trước giấc mơ đó thì thế nào nhỉ? “Nếu không nhớ nổi thì không phải cố đâu.” Ông Dogen đang nói thì một hình bóng bất ngờ nháng lên trong mắt tôi, một tên đàn ông. Tôi không quen hắn. Hắn đang cầm cái gì đó, chĩa vào tôi và hét lên. Không, kẻ đang hét là tôi chứ! Tay hắn lóe đỏ. “Súng…” Tôi mở mất, “Súng lục.” “Đúng thế, có vẻ cậu đã nhớ ra rồi đấy. Cậu bị bắn, bằng súng lục.” “Bị bắn…” Tôi cố lục lọi tâm trí, nhưng ký ức không rõ rệt, như thể đang phủ bụi. “Không được… tôi không nhớ nổi.” Tôi lắc đầu, khép mắt. Đúng lúc đó, hình như có cái gì kéo ra khỏi phía sau đầu tôi, và khắp người không còn cảm giác gì nữa. Mời các bạn đón đọc Biến Thân của tác giả Higashino Keigo & Cẩm Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Ký của Mẹ - Kawa Chan
Nhật ký của mẹ là cuốn nhật ký bằng tranh, là tâm sự chân thành và đầy tình cảm mà tác giả Kawa Chan muốn gửi đến cậu con trai đầu lòng của mình. Xuyên suốt cuốn sách là những bức tranh được vẽ theo phong cách dễ thương, hài hước đôi lúc lại tự trào xoay quanh nhân vật chính là người mẹ đáng yêu, hay xúc động nhưng rất yêu con. Mở đầu cuốn sách hình ảnh người mẹ hiện ra là người “chỉ thích rong chơi” và “chưa từng nghĩ đến việc chăm sóc một em bé”. Thậm chí khi biết tin có bầu, cảm giác đầu tiên của người mẹ trẻ này là “tiêu rồi”. Thế nhưng những điều kỳ diệu mà thiên thần mang tên “đứa trẻ” mang đến đã thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ của người phụ nữ ham chơi và vô lo vô nghĩ này. Bên cạnh đó, bạn cũng sẽ gặp trong cuốn sách một ông bố điềm đạm, hai ông bà nội ngoại luôn chăm lo từng chút một cho cháu, những người họ hàng và đồng nghiệp vui tính… Thông qua hơn 80 tranh vẽ, Nhật ký làm mẹ mô tả lại sống động quá trình mà bất kỳ người mẹ nào khi mang thai cũng phải trải qua. .Từ những lúc bị đau lưng, phù chân, đi lại khó khăn, chuột rút… cho đến những nỗi lo lắng cho con khi bị ốm mà không dám uống thuốc, khi đi cầu thang suýt trượt chân ngã mà cảm thấy như vừa trải qua một sự việc khủng khiếp, niềm vui háo hức khi nhìn thấy những hình ảnh siêu âm đầu tiên, cảm giác vui sướng khi lần đầu cảm nhận được cử động của con trong cơ thể, sự sốt ruột khi đến ngày mà con chưa chịu chào đời… và niềm xúc động vô bờ khi lần đầu tiên được ôm con trong vòng tay. Lật giở từng trang của cuốn sách, bạn sẽ đi từ vui thích đến đồng cảm. Bởi lẽ những tâm sự và câu chuyện của tác giả rất gần gũi và đúng với tâm trạng của rất nhiều bà mẹ đã từng sinh con. Khi mới bắt đầu vẽ những bức tranh đầu tiên, Kawa Chan chỉ đơn giản muốn lưu giữ những khoảnh khắc đáng nhớ trong quá trình mang thai để sau này có thể cho con mình xem lại, nhưng sau đó, những nét vẽ đáng yêu, hài hước của tác giả đã nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của rất nhiều người. Hy vọng với cuốn sách nhỏ  này, bộ tranh sẽ đến được với nhiều người hơn nữa. *** Kawa Chan tên thật là Nguyễn Hải Hà, sinh 21/05/1988, chuyên ngành thiết kế đồ họa và với lý lịch trích ngang “siêu” bất hủ: Một mình ăn hết 1 cái bánh gato Ngủ một mạch 15h đồng hồ Mời các bạn đón đọc Nhật Ký của Mẹ của tác giả Kawa Chan.
99 Truyện cười dân gian Việt Nam - Nhiều Tác giả
Cùng với tục ngữ, ca dao, dân ca, cổ tích, thần thoại..., truyện cười dân gian, cũng còn gọi là truyện tiếu lâm, là di sản quý giá mà cha ông đã để lại cho chúng ta, để gìn giữ và phát triển... Ngoài việc tích hợp văn hóa và phản ánh đời sống và trình độ văn minh của dân tộc ta qua các thời đại, truyện cười dân gian tham dự và góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Tập 99 Truyện cười dân gian Việt Nam này, vì lẽ đó, luôn là một kho tàng cần được đọc và chia sẻ. *** 99 Truyện cười dân gian Việt Nam gồm có: THẦY CHÚNG MÀY NÓI DỐI THẦY KHÔNG BẰNG CON! CHẾT NHẦM VĂN HAY NGỬI VĂN BÁNH TAO ĐÂU? TẠI THẦY KHÔNG HỎI ĐỂ TRÁP LẠI VẬY THẦY ĐỒ LIẾM MẬT BÁN KHÔNG ĐƯỢC GIÁ CHẾT HÓC VẪN CHƯA CHẾT BA NGƯỜI ĐẦY TỚ TRẢ THÙ BIA MỘ NHÀ GIÀU KHÔNG CÒN CHỖ TRẢ NỢ KHÔNG DÁM LÀM ÔNG KHỔ LÂY SANG CẢ MÌNH CON BÔI BẨN MẶT QUAN LÍ SỰ NÓI VỚI QUAN THẦY ĐỀ TÁN THƠ QUAN VỊT HAI CHÂN XỬ KIỆN GIỎI MAY ÁO CHO QUAN QUAN ĐẤY TIỄN QUAN TOÀN CHÓ CẢ THẦN BIA TRẢ NGHĨA CÁI ẤY THÌ CON XIN CHỊU THẬT LÀ ĐEN ÔNG QUÁ TAO MỪNG QUÁ CÒN AI VÀO ĐÂY ĐỂ MẸ XƠI NỮA Ạ! CON VỊT MUỐI CẮN CÀ TRỨNG NGÓT TO BẰNG CÁI NỒI CŨNG CHẢ BIẾT NỮA CÁI GÌ CỨNG NHẤT ĐỔI GIÀY MẸ DẶN CON THỪA MỘT CON NGHE LỜI VỢ LÀM ĐÚNG LỜI VỢ DẶN HÂM NƯỚC MẮM KHÔNG TỰ BIẾT MÌNH CÔNG VIỆC TRONG NGÀY CẢM ƠN VỢ CHO NÓ CHẾT KHÁT CHỮ "VẠN" DÀI LẮM BẠN QUAN QUAN THANH LIÊM THƠM RỒI THỐI GIÀN LÝ ĐỔ RÂU DÀI QUAN SẮP ĐÁNH BỐ LẠY CỤ ĐỀ Ạ RẮM CỦA CON CÓ NUÔI ĐƯỢC KHÔNG KHÔNG PHẢI LÀ TA NHỚ TIẾNG BẬT BÔNG BÁN HÀNG AI CŨNG PHẢI CẢ ĐẼO CÀY GIỮA ĐƯỜNG ĐÁ CŨNG NHƯ VÀNG CẦM SỢI DÂY THỪNG TÚNG QUÁ CÓ NHẼ ĐÂU THẾ! ĐỂ ĐƯỢC BÁO GIỜ HÃY GIẢI THÍCH TRONG RẠP CHIẾU BÓNG ĐIỂM YẾU THUỐC TUYỆT CẢNH CUỐI CÙNG THIẾU DẤU NGƯỜI MÊ TÍN ĐƯỢC TRẢ LƯƠNG LỜI TRÊN BIA MỘ DIỆU KẾ! GIẤU ĐẦU HỞ ĐUÔI CON DÃ HỔ KHÔNG CÒN THANH TỊNH SÁT SINH TỘI NẶNG LẮM BA QUAN ĐẮT QUÁ HÀN KIM NHUỘM MÀU TRỨNG SÁO CƯỠI NGỖNG RÁCH GIÀY ĐỐ THẦY ĐẤY BÀI HỌC LÁI ÔTÔ CHUYỆN ĐỔ XĂNG NGƯỜI GIÚP VIỆC TẬP CHẠY NHÌN VÀ NGHĨ ĐỠ ĐẺ TẠI SAO? TÔI CHẢ CÓ NGUYỆN VỌNG GÌ KHI ĐẾN THĂM EM ĐỪNG QUAN TÂM THOÁT NỢ SỐ HỌC VÀ BÓNG ĐÁ TẠI SAO PHẢI TRÓI VẪN CHIẾC ĐEN CHIẾC VÀNG CHIẾC GHẾ TRỐNG DÀI LƯỠI CHUYỆN MƯỢN Ô CHỚ BÁN CON BÒ ẤY THẾ MỚI TÀI ĐƯỢC ĂN THẢ CỬA SÀN SÀN BẰNG NHAU CÒN MƯỜI NĂM NỮA AI NUÔI MÈO ĐEN MŨI TRẮNG HÁ MIỆNG CHỜ SUNG KHỎI MẤT CÔNG RƯỢU CHUA HẸN TRƯỚC THỈNH THẦN XA VẮT CỔ CHÀY RA NƯỚC HAI CÁI XÔ NHỰA PHẢI RÕ NGHĨA HƠN RÈN LUYỆN HAI HIỆP PHỤ CÓ MẶT CẢ CHỨ LUẬT PHÁP KHÔNG CHO PHÉP LÀ MỘT THƯƠNG BINH HIỂU Ý CHỈ CÓ CON NÀY THÔI Ạ! KẾT QUẢ HÃY LÀM NHƯ TÔI BỆNH NGOẠI TRONG GIỜ TẬP BẮN SỢ NÓI ĐÚNG SỰ THẬT LUYỆN MẮT MUA VÀ BÁN THỦ MÔN SỮNG SỜ CŨNG LẠI CHUYỆN MỸ TÌM VỢ CẬU GIẢI PHÁP CUỐI CÙNG KÉN RỂ GIÀU CHỦ NHÀ, ĐẦY TỚ VẬY THÌ KHÔNG MẤT NÓI KHOÁC MẤT TIỀN CHẲNG PHẢI TAY ÔNG CỨT ĂN MẤT RỒI TÍ NỮA TAO SANG BA ĐỜI GÀN MẤT RỒI MỜI BÁC XƠI NGỌC HÀNH KHÔNG XU NỊNH QUAN LỚN NHÂN ĐỨC THẬT CHẾT MỘT NGÀN NĂM CHẾT CŨNG KHÔNG CHỪA ĐỪNG NÓI NỮA MÀ TAO THÈM THẦY BÓI LẠC ĐƯỜNG THẦY BÓI XEM VOI CHỈ TẠI ANH THẦY ĐỊA LÝ THẦY PHÙ THUỶ SỢ MA CHỒN NÀO, CHỒN NẤY TÔI LẤY MỘT CON NGÀY TỐT TÀI BỊA THI NÓI KHOÁC CON RẮN VUÔNG CHƯA GHÊ BẰNG TỚ KHOE TÀI LỢN CƯỚI ÁO MỚI HIỂU BIẾT CHÂN MỚI DÀI RA SÁU CHÂN NHANH HƠN NGỐC CẨN THẬN MẸ RẤT BẬN LẦN ĐẦU TIÊN CHUYỆN CÁI ĐẦU NGƯỜI LẠC QUAN GIÁ TRỊ BÀ XÃ MAY QUÁ CÓ LÝ SẴN SÀNG NỖI LO CỦA ÔNG CHỒNG NHÀ MỚI ĐÁNH ĐỔ CÁI THANG AI ĐÂY? NHÌN BÀI NHAU ĐAU Ở ĐÂU? VẪN CÓ THỂ CẠO RÂU KÍNH PHÓNG ĐẠI TẮM NỬA NGƯỜI TRUYỆN NGẮN HAY KHÔNG NGỦ ĐƯỢC TRÒ CHUYỆN GIỮ MỒM GIỮ MIỆNG MÁT-SA TRÁI TIM KHÔNG ĐẺ ĐƯỢC TRỨNG TẠI ĐI GIÀY QUAY LẠI HÃY TÌM Ở TAI TÔI CÓ CÒN HƠN KHÔNG THẦY ĐỒ ĐỠ ĐẺ CHỮ LẺ CÂY BẤT BỂ ĐÔNG KHÔNG VIỆC GÌ ĐÂU KHÓ HƠN RẶN ĐẺ THƠ BỐN ANH HỌC TRÒ NÓI CHỮ NHÀ THÔNG THÁI THẦY ĐỒ VÀ THẦY CÚNG THẦY BÓI VỚI THẦY LANG THAY ĐỔI AI KHÔNG HIỂU AI CHUYỆN GÀ DỄ THẤY NHƯỜNG CHỖ SIÊU NHÂN THUẬN CẢ HAI TAY LIÊN HỒI CÁCH TRẢ LỜI HOA HỒNG VÀ HOA VI-Ô-LÉT THEO CÁCH THẦY LANG GIỎI CHẨN BỆNH CHỌN NGƯỜI GẦY MÀ CHỮA DÙNG THUỐC GÌ CÒN TRÁCH TÔI Ư? CÁI CHỔI LÔNG GÀ LÍ THẦY LANG KÉN RỂ HAY CHỮ KÉN RỂ SANG NÓI CHO CÓ ĐẦU CÓ ĐUÔI TIN Ở MÌNH SAO LẠI GẶP NHAU ĐỂ CẢM ƠN HAI GÃ BẦN TIỆN GẶP NHAU SẼ NGỦ NGAY KHỎI BỆNH LA SAO ĐƯỢC CHUYỆN CỦA NGƯỜI GÁC THANG MÁY SAO LÂU VẬY CÁI ÁO BẰNG DA TRẢ LỜI KHÔNG SAO MƠ ƯỚC TƯƠNG LAI NHIỀU CÔNG DỤNG PHÂN ĐỊNH BIỆN PHÁP TỐT NHẤT HƠN BÁN ĐẢO SƯỚNG Mời các bạn đón đọc 99 Truyện cười dân gian Việt Nam - Nhiều Tác giả.
Nửa Mặt Trời Vàng - Chimamanda Ngozi Adichie
Chimamanda Ngozi Adichie đã mang đến một tác phẩm thông minh, hy vọng và từ bi cho lịch sử đau đớn của Biafra trong cuốn tiểu thuyết "Nửa mặt trời vàng". Để nắm bắt được câu chuyện của cuốn tiểu thuyết này, trước hết cần biết về địa danh Biafra. Đây là một bang ly khai của miền Đông Nigeria, chỉ tồn tại được ba năm, và tên nó đã trở thành khẩu hiệu toàn cầu trong cuộc chiến tranh chống nạn đói. Cuốn tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng tập trung vào câu chuyện của hai chị em sinh đôi, Olanna và Kainene, con cái của giới tinh hoa. Họ phải đấu tranh với lòng trung thành với sự thất vọng và phản bội. Du học Anh quốc trở về, hai chị em song sinh Olanna và Keinene với hai tính cách trái người đã đi theo hai con đường khác nhau. Keinene nối nghiệp cha - một ông trùm có thanh thế của miền Bắc Nigeria, và bắt đầu mối tình với Richard, một người say mê nghiên cứu văn hóa nghệ thuật Igbo. Còn Olanna chuyển đến sống cùng anh chàng “người tình cách mạng” Odenigbo của mình, họ tìm được sự hòa hợp tuyệt đối về tâm hồn và chí hướng. Olanna là một mẫu người phụ nữ cũ, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là cô gái con nhà giàu lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để chọn yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Trong khi đó, Keinene lại là điển hình cho mẫu người phụ nữ hiện đại, cá tính mãnh mẽ, quyết liệt. Cô có một mối tình với Richard, nhưng bản thân cô luôn băn khoăn, cô xem trọng sự nghiệp, và luôn thể hiện bản lĩnh trước mọi sóng gió của đời sống. Khi cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: “Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cái cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” Trong tình yêu, cô gái da đen tuyệt đối là người cầm cương, dẫn dắt chàng trai da trắng vào thế giới của cô. Có lẽ, hình tượng Kainene cũng chính là một ẩn dụ nghệ thuật mà tác giả muốn hướng đến, trong mối quan hệ giữa châu Phi và nền văn minh phương Tây. Cuốn tiểu thuyết được kể qua những quan điểm lồng vào nhau của ba nhân vật: Ugwu, chú bé nhà quê 13 tuổi, ít học, mê tín, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo – Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Olanna, một phụ nữ thượng lưu của Biafra đã từ bỏ cuộc sống tươi đẹp của mình để đến sống cùng người yêu, chàng giáo sư nghèo, Odenigbo; và Richard, một nhà báo Anh, nhận được tài trợ để viết một cuốn tiểu thuyết Nigeria. Cuộc sống đẩy ba nhân vật chính đến Nsukka, ở phía Nam Nigeria, nơi trở thành trung tâm của cuộc nội chiến ở nước này. Adichie đã đào sâu cuộc xung đột chính trị này, tạo nên nhưng căng thẳng về kinh tế, sắc tộc, văn hóa và tôn giáo giữa các dân tộc khác nhau của Nigeria, để rồi sau đó làm bật lên những hậu quả nặng nề về tình cảm và những tổn thương tâm lý đối với mỗi nhân vật. Đồng thời khắc họa một vùng đất xa xôi, oằn mình trong bi thương mà rực rỡ và say đắm. Đây là một cuốn tiểu thuyết siêu việt với nhiều vấn đề sắc xảo, trong đó đã làm bật rõ ảnh hưởng tàn bạo của cuộc chiến tranh đối với nông dân và trí thức, là một bài học lịch sử trong hình thức hư cấu, được viết một cách mạnh mẽ, đầy đặn, chảy trôi. Lối kể chuyện của Adichie trong cuốn tiểu thuyết dù không phong phú, có đôi lúc khá nghèo nàn, đơn thuần, nhưng khi viết về lòng trung thành và sự phản bội, nữ nhà văn tỏ rõ bút lực của mình nhất, với những trang viết thấm đẫm đời sống. Cô dường như là người rất thích đặt nhân vật của mình tại các ngã tư, nơi những giá trị trái ngược đụng độ và va chạm nhau. Những tác phẩm văn học phản ánh cuộc chiến Biafra đã có một lịch sử khá lâu đời với những tác phẩm của các nhà thơ Christopher Okigbo, đến Chinua Achebe, Cyprian Ekwensi và Flora Nwapa. Sinh năm 1977, Adichie không sống trong giai đoạn nội chiến, nhưng trí tưởng tượng của cô dường như được hình thành từ đó: Một số thành viên trong gia đình cô sống sót qua Biafra, một số khác thì không. Và giống như nhà văn trẻ người Mỹ Tom Bissell, người mà cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành một người say mê định hình thông qua người cha cựu chiến binh bị tàn phế, Adichie tiếp cận bạo lực trong quá khứ của đất nước với sự pha trộn giữa khoảng cách thế hệ và ám ảnh gia đình. Sự xa lạ và gắn bó này mang lại cho Nửa mặt trời vàng một giai điệu đồng cảm, xúc động, vượt lên những câu chuyện về anh hùng, bạo lực hay quỷ dữ. Nền văn học Nigeria dường như còn khá xa lạ với bạn đọc Việt Nam.   sẽ là một cơ hội thú vị để làm quen và hiểu về lịch sử đất nước Nigeria của lục địa đen. Chắc chắn bạn sẽ hoàn toàn bị hấp dẫn bởi những chi tiết sinh động của cuốn sách này với bối cảnh là cuộc nội chiến Biafra. Chiến tranh và những hậu quả do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá, đói kém... ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Nỗi đau đớn do cuộc chiến Biafra mang đến cho mỗi người dân Nigeria trở nên thêm sâu sắc, bi thương bởi sự kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp. Chimamanda Ngozi Adichie hiện nay được coi là nhà văn nữ trẻ tuổi xứ Nigeria xuất sắc nhất từ khi quyển tiểu thuyết Nửa mặt trời vàng có số bán hàng triệu bản trên khắp thế giới và được trao tặng giải thưởng văn chương Orange của Anh quốc. *** Đây là một quyển sách phong phú về lịch sử, lấy chiến tranh Biafra làm bối cảnh và bao gồm mấy chủ đề có thể được phân tích. Chúng ta có thể đọc quyển sách này qua chủ đề kỳ thị sắc tộc, tôn giáo, giai cấp trong một quốc gia hay có thể nhìn qua một lăng kính đơn giản hơn, đó là cuộc đời và chuyện tình của hai chị em song sinh trong thời chiến tranh. Tuy nhiên đối với tôi, một độc giả Việt Nam, thì điểm quan trọng nhất trong Nửa Mặt Trời Vàng chính là cuộc nội chiến Biafra có nhiều điểm tương đồng với chiến tranh Việt Nam. Một trong những điểm tương đồng này là, tuy là nội chiến nhưng lại có một hay vài cường quốc “giật dây” phía sau. Cũng giống như chính quyền Pháp đã chia Việt Nam thành ba miền và áp dụng chính sách chia để trị, chính quyền Anh đã chia Nigeria thành ba miền và lợi dụng sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tôn giáo, sắc tộc để chia rẽ nội bộ Nigeria. Để bạn đọc tiện theo dõi cốt truyện lồng vào bối cảnh lịch sử chiến tranh Biafra, tôi xin giới thiệu sơ lược lịch sử hình thành cuộc nội chiến này. Vào năm 1885, sau cuộc chiến tranh với Napoleon, đế quốc Anh bành trướng sang châu Phi. Năm 1901, Nigeria chính thức nằm dưới sự bảo hộ của Anh. Con sông Niger chảy từ miền Tây Bắc của Nigeria gặp sông Benue chảy về hướng Đông Nam tạo thành hình chữ “Y” chảy dọc xuống miền Nam, chia Nigeria thành ba miền. Miền Bắc cua Nigeria có diện tích lớn nhất và dân số đông nhất, đa số là người Hausa-Fulani và theo tôn giáo Muslim. Người dân vùng này sinh sống bằng cách khai thác quặng mỏ và buôn bán. Họ tuân phục các vị tiểu vương Hồi giáo gọi là Emir. Các Emir là lãnh tụ cả về tôn giáo lẫn chính trị và áp dụng chế độ chuyên chế. Họ sống cô lập, hạn chế tiếp xúc với ngoại quốc để chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Tước vị và của cải được lưu truyền từ đời cha qua đời con. Càng về sau miền Bắc của Nigeria càng trở nên cô lập hơn, người dân ngày càng nghèo khổ và ít học hơn. Phía Tây Nam của Nigeria, đa số là người Yoruba sinh sống. Chế độ chính trị cũng gần giống như chế độ của người Hausa ở miền Bắc; họ tuân phục những vị tiểu vương Oba nhưng chế độ này ít chuyên chế hơn. Họ có thể thăng tiến trong xã hội nhờ tài nghệ hay của cải. Sự giàu có hay chức vị không bị bắt buộc phải theo truyền thống cha truyền con nối. Người Igbo sống ở vùng Đông Nam bao gồm khoảng hơn 600 bộ lạc độc lập, tự trị, và theo chế độ dân chủ. Mọi chuyện quan trọng đều được mang ra thảo luận và bình bầu ở sân làng. Người dân Igbo có quyền tham gia ý kiến vào những quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh tồn của chính họ và của bộ lạc. Anh quốc áp dụng chính sách chia để trị, lợi dụng sự khác biệt về phong tục, ngôn ngữ và sự tự hào của ba miền để gây chia rẽ nội bộ. Các tiểu vương Emir nộp thuế cho chính quyền Anh để được bảo vệ chống sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo. Vì thế các nhà truyền giáo hoạt động ở khu vực phía Nam của Nigeria. Dân Igbo và Yoruba tiếp cận với nền văn hóa mới của chính quyền bảo hộ Anh. Họ cho con đi học các trường đại học ở nước ngoài nhiều hơn và khuếch trương các hải cảng để giao dịch thương mại. Người Igbo ở vùng Đông Nam trở nên giàu có, thịnh vượng và hấp thụ văn hóa Tây phương. Người ta khám phá ra những mỏ dầu lớn ở khu vực sông Niger. Vào những năm 1940 và 1950, người Igbo và Yoruba là những lực lượng tiên phong giành quyền độc lập cho Nigeria. Năm 1960, người Anh trao trả quyền độc lập cho Nigeria. Họ chủ trương thống nhất quốc gia và chia làm các tiểu bang để quản lý. Người miền Bắc của Nigeria e ngại rằng dân Igbo sẽ chiếm thế thượng phong trong việc điều hành chính quyền vì họ có nền học vấn tân tiến, có khuynh hướng cởi mở với Công giáo và Tây phương, do đó cương quyết tiếp tục chia Nigeria làm ba miền như trước. Năm 1965, có một cuộc nổi loạn, khoảng 30.000 người Igbo bị giết và cả triệu người phải chạy loạn. Tháng Giêng năm 1966, một nhóm sĩ quan trẻ người Igbo đảo chính cướp chính quyền. Tháng Bảy năm 1966, sĩ quan miền Bắc đảo chính lại, chọn Yakubu Gowon, một sĩ quan Công giáo của một bộ lạc nhỏ, lên làm lãnh tụ. Gowon dùng quân đội để cai trị. Người dân chống đối đòi trở lại chế độ dân sự. Cuộc bạo động kéo dài, có khoảng tám đến mười ngàn người Igbo bị giết; cả người miền Bắc sống ở các thành phố miền Đông Nam cũng bị sát hại. Tháng Giêng năm 1967, lãnh tụ của ba miền họp mặt ở Aburi ký hiệp ước liên bang nhưng người miền Bắc không đồng ý. Obafemi Awolowo, lãnh tụ của quân đội miền Tây Nam, tuyên bố nếu miền Đông Nam rút tên ra khỏi liên bang thì miền Tây Nam cũng rút lui. Chính phủ miền Đông Nam không chấp nhận Hiệp ước Aburi. Tháng Năm ngày 26, miền Đông Nam tuyên bố ly khai và ngày 30, Chukwuemeka Odumegwu Ojukwu, lãnh tụ lực lượng quân đội miền Đông Nam tuyên bố thành lập xứ Cộng hòa Biafra vì lý do người Hausa đã giết người Igbo. Nguyên do chính là vì nhiều mỏ dầu được khám phá ở khu vực miền Nam; trong khi sự phồn thịnh của nền kinh tế Nigeria chủ yếu dựa vào việc khai thác dầu. Thoạt tiên Lực lượng Quân sự Liên bang xem đây là một cuộc nổi loạn nhỏ, chỉ cần lực lượng cảnh sát là có thể tái hồi trật tự nhưng Biafra đã đánh lui lực lượng cảnh sát. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau, lực lượng quân sự của liên bang đã đánh chiếm lại phần lớn lãnh thổ và vào năm 1968, Biafra chỉ còn lại một phần mười lực lượng ban đầu. Tháng Chín năm 1968, quân đội Biafra bị kiệt lực vì thiếu vũ khí. Tháng Sáu năm 1969, chính quyền Nigeria bắt đầu phong tỏa thuốc men và lương thực. Tháng Mười năm 1969, Ojukwu kêu gọi sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc để ngưng chiến. Chính quyền liên bang Nigeria kêu gọi Biafra đầu hàng. Tháng Mười hai, quân đội liên bang cắt Biafra thành hai mảnh. Ojukwu chạy sang Ivory Coast giao quyền lãnh đạo cho Philip Effiong. Tháng Giêng năm 1970, Effiong đầu hàng. Con số người chết vì nạn đói lên đến hơn một triệu. Chiến tranh và những nỗi buồn do chiến tranh gây ra như chết chóc, tàn phá và đói kém, ở bất cứ nơi nào trên thế giới cũng có những điểm giống nhau. Người dân sống trong chiến tranh là người dân bất hạnh. Qua quyển sách này độc giả sẽ nhìn thấy nỗi bất hạnh của người dân sống trong vùng đất đòi độc lập và tự trị Biafra và tôi nghĩ độc giả có lúc sẽ đặt quyển sách xuống, thở dài, đôi khi lau giọt nước trào ra nơi khóe mắt khi liên tưởng đến những đau khổ và sự đối diện với cái chết hằng ngày của người Việt Nam. Chiến tranh là một đề tài rất rộng lớn mà tôi không hiểu biết đủ; lạm bàn có thể gây ngộ nhận. Với vai trò của một người dịch, sau vài tháng đọc từng lời từng chữ của cuốn sách, tôi cảm thấy rất gần gũi và yêu mến các nhân vật mà tôi tin là sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết này, bạn cũng sẽ yêu mến họ. Người đầu tiên tôi chắc chắn bạn sẽ yêu mến là Ugwu, chú bé nhà quê mười ba tuổi, ít học, mê tín dị đoan, ngô nghê, thần tượng hóa ông chủ và bà chủ của chú là Odenigbo và Olanna. Ugwu thông minh, ham học, được sự bảo bọc và thương yêu của hai vợ chồng Odenigbo-Olanna. Chú cũng yêu thương gia đình chủ như chính gia đình mình. Ugwu bị đẩy vào chiến trận và trưởng thành trong chiến tranh. Chimamanda Ngozi Adichie đã chăm sóc, “vun trồng” kỹ lưỡng nhân vật Ugwu. Ugwu là biểu tượng của Nigeria mà Adichie đã gởi tất cả hy vọng, từ một quốc gia nghèo nàn, kém phát triển về kinh tế và văn hóa sau cuộc nội chiến sẽ trưởng thành, có tiếng nói và chỗ đứng trên thế giới. Đây là nhân vật chính và quan trọng nhất trong quyển sách này; tôi nghĩ là nên để bạn đọc thưởng thức và nhận xét. Bạn cũng sẽ yêu mến đôi vợ chồng Odenigbo — Olanna. Đây là đại diện cho giới trí thức trẻ của Nigeria lúc bây giờ. Odenigbo là một giảng viên ở Đại học Nsukka. Anh cùng với một nhóm giảng sư và sinh viên đã khởi đầu đòi hỏi được quyền thành lập quốc gia Biafra. Odenigbo, nhà trí thức trẻ tuổi, nhiệt tâm yêu nước, có ý chí cách mạng, có lòng nhân đạo, và là người bạn tốt của Ugwu. Có tài biện luận và yêu chủ nghĩa xã hội, tuy là nhà Toán học, anh dùng hết thì giờ của mình viết báo kêu gọi người dân Nigeria đứng lên đòi quyền độc lập và cải tổ xã hội. Odenigbo yêu rất nồng nàn nhưng cũng dễ sa ngã. Mẹ mất trong chiến tranh, tài trí của anh bị thui chột cũng vì chiến tranh, về phương diện tình yêu và hôn nhân, Odenigbo là một thí dụ điển hình mà khi yêu, người phụ nữ đã đặt kỳ vọng vào tiềm năng của một người đàn ông để rồi sau khi kết hôn, người phụ nữ sẽ nhận ra rằng những kỳ vọng này là ảo vọng. Những điểm đáng yêu ban đầu, về sau trở thành những điều khó chịu. Ban đầu rượu brandy làm Odenigbo hứng chí, ánh mắt long lanh và dễ dàng trở thành nhà hùng biện xuất chúng, chỉ sau vài ly rượu. Về sau, nỗi buồn chiến tranh và cái chết của mẹ biến anh thành người bạc nhược về tinh thần. Rượu trở thành chất độc giết chết khả năng suy nghĩ của anh. Sự phấn đấu không còn, rượu được dùng để khuây khỏa nỗi buồn chiến tranh. Anh phụ lòng yêu thương của Olanna ít nhất là một lần. Còn lần thứ hai, tác giả cố tình nhập nhằng để độc giả muốn hiểu thế nào cũng được. Olanna, một cô gái trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu trong xã hội, có nhan sắc của một mỹ nhân ngư. Nhan sắc của cô chinh phục tất cả mọi người từ những đồng nghiệp của Odenigbo như bác sĩ Patel, nhà thơ Okeoma, bác sĩ Nwala anh em họ của Okeoma. Ngay cả Richard, tuy yêu thương Kainene nhưng cũng ngã lòng trước sắc đẹp của nàng. Và cả chú bé Ugwu nhà quê cũng say mê nhan sắc của cô chủ, tuy nhiên sự say mê này mang sắc thái vừa sợ vừa phục một thần tượng. Tuy là một thiếu nữ được hấp thụ nền văn hóa Tây phương, học chương trình Anh từ lúc tiểu học, tốt nghiệp đại học ngành Xã hội học ở London, Olanna được Adichie chọn làm biểu tượng của người phụ nữ Nigeria truyền thống. Một mẫu người vượng phu ích tử, yêu chồng và chăm con, nhân ái với người giúp việc, hòa hợp với láng giềng và bạn bè, vâng lời cha mẹ, chiều chuộng người chị sanh đôi của mình. Là con gái một nhà giàu có, lái xe hơi riêng, được chàng công tử Hausa tên là Mohammed yêu say đắm nhưng Olanna từ chối tình yêu này để yêu một anh giảng viên nghèo thích làm cách mạng. Chiến tranh khiến cuộc sống của nàng trở nên nghèo khó, thiếu thốn đến độ không có cả cháo ăn với cá khô (một món ăn của dân nghèo mà Olanna có dịp chứng kiến ở nhà láng giềng của người cậu khi Olanna đến thăm cậu). Tình yêu của Olanna và Odenigbo là một tình yêu rất bình thường. Bạn đọc sẽ nhìn thấy qua Olanna hình ảnh người mẹ và người vợ Việt Nam trong chiến tranh. Một người phải lo lắng hôm nay ăn gì, phải tìm mua thức ăn ở đâu, và nhất là làm sao chi tiêu cho hợp lý. Người đọc dễ dàng cảm thấy một tình yêu chân thật, say đắm, nồng nàn của đôi uyên ương này. Và cũng qua nhân vật Olanna, người đọc cảm nhận được nỗi sợ hãi của một người dân sống trong bom đạn, hằng ngày phải đối diện với cái chết của người thân yêu và của chính mình. Ugwu, Odenigbo và Olanna là những nhân vật mà người đọc sẽ dễ dàng yêu mến họ. Kainene và Richard cũng đáng yêu nhưng phức tạp hơn. Cái đáng yêu của họ không dễ dàng được nhận thấy bởi vì hai nhân vật này không giống mẫu người đáng yêu truyền thống. Trong một xã hội da màu đã từng bị đặt dưới sự bảo hộ của chính quyền thuộc địa như Anh và Pháp, người đàn ông da trắng có một vị trí khá cao. Tuy nhiên Chimamanda Adichie đã truất phế cái quyền lực của một người da trắng mà xã hội thuộc địa ưu ái dành cho Richard. Richard là một thanh niên nghèo, mồ côi, sống nhờ tình thương và sự dưỡng nuôi của người bác. Anh đẹp trai, đỏm dáng, dịu dàng, hiền lành đến độ có thể bị xem là nhu nhược. Richard có cái mơ mộng của một nghệ sĩ và không thích đua chen với cuộc đời. Ngay cả cái nghề ký giả của anh cũng do bà bác dàn xếp. Rời Anh quốc để qua Nigeria, Richard có ý muốn thoát ly và tự lập. Anh muốn tìm hiểu bản thân và định hướng cuộc đời mình. Bác Elizabeth dàn xếp cho anh gặp Susan, một phụ nữ nhiều tuổi hơn Richard. Susan ngỏ ý muốn giúp anh có chỗ ở yên tĩnh để anh có thể viết văn. Richard về sống chung với Susan và rất nhanh chóng, cô yêu anh. Tuy không có ý định nhưng vô tình Richard trở thành một “gigolo” hay trai bao của Susan. Richard khám phá nghệ thuật đúc đồng thành bình hoa có cột dây của người Igbo và vì yêu bộ môn nghệ thuật này, anh ở lại Nigeria để nghiên cứu với ý định viết sách về nó. Trong một buổi tiệc Richard đi dự với tư cách người hộ tống Susan, anh gặp Kainene và ngay lập tức anh say mê Kainene bởi vẻ đẹp kỳ lạ và cá tính độc đáo của nàng. Hấp lực của Kainene mạnh đến độ anh chỉ muốn gạt Susan ra khỏi cuộc đời anh. Anh đã không ngần ngại nói dối Susan để mình có thì giờ riêng tiếp tục trò chuyện với Kainene. Kainene là hiện thân của một phụ nữ mới, đi trước thời đại khoảng chừng 50 năm. Có thể nói hiện nay, số người phụ nữ thật sự nắm quyền lãnh đạo kinh tế và thương mại tuy có nhiều hơn những năm 60 của thế kỷ XX nhưng vẫn còn là thiểu số. Nigeria của những năm 60, người đàn ông là chủ gia đình. Dân Igbo có tục lệ đa thê. Người đàn ông ở gian nhà chính. Mỗi người vợ và con của họ ở trong gian nhà riêng, chung quanh căn nhà chính. Các bà vợ tự trồng rẫy, làm ruộng của mình. Đến bữa ăn họ được chia phiên người nào nấu thức ăn gì và mang đến cho chồng. Họ trọng nam khinh nữ. Tuy nhiên, Kainene vừa tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc về đã lập tức nắm quyền quản lý cơ sở thương nghiệp của bố và được ông bố tán dương là có giá trị gấp đôi một người con trai. Kainene là một cô gái vượt qua những giới hạn mà xã hội Nigeria đã dành sẵn cho phụ nữ. Kainene khẳng định quyền tự do chọn lựa và quyết định cuộc đời mình, cho dù sự quyết định hay chọn lựa của Kainene không được xã hội chấp nhận hay tán thành. Tính tự quyết và tự do trong việc chọn lựa thể hiện qua cách trang điểm, ăn mặc, cách chọn người để yêu và bạn giao du. Ngay cả cái quyết định tối hậu ảnh hưởng đến mạng sống của cô là vượt vòng đai cấm để đi tìm mua thức ăn cho dân tị nạn cũng là một quyết định đơn độc. Kainene không phải là một người quyết định dựa vào sự tán đồng của người chung quanh. Cô có thái độ kiên định của một người lãnh đạo, quyết đi trên con đường đã chọn cho dù phải hy sinh tính mạng. Độc giả có thể không thích Kainene lúc mới vừa gặp cô. Không thể nói là Kainene đẹp bởi vì cô không có vẻ đẹp mà xã hội của cô đã tạo tiêu chuẩn. Cô có hình dáng khác thường, cao bằng một người đàn ông ngoại quốc, gầy đến độ trông giống như một thanh niên. Tính khí thì kỳ quặc, tô môi son đỏ chóe, hút thuốc phì phèo. Trong cái nhìn của Richard, anh cho rằng cô giống những cô nàng “bồ nhí” của các ông lớn hơn là con gái của một Ông Trùm thầu khoán, tốt nghiệp đại học ở ngoại quốc mới về. Kainene ít nói đến lạnh lùng, hay châm biếm mỉa mai. Thế nhưng người đọc sẽ nhận ra rằng không thể nhìn hình bìa mà đánh giá nội dung của quyển sách. Càng vào sâu trong truyện, Kainene càng để lộ lòng nhân ái, biết suy nghĩ, quyết định đúng đắn. Kainene dùng tài quản lý của mình để săn sóc, nuôi nấng người tị nạn. Cô dùng sự suy xét và quyết đoán để cứu người thanh niên đào ngũ vì đói nên đi trộm khoai và bị dân tị nạn đánh đập. Cô can đảm mạo hiểm vượt tuyến để đi tìm mua thức ăn về nuôi sống mọi người trong trại tị nạn. Cô có thái độ và lòng can đảm của một nhà lãnh đạo đáng kính phục. Thông thường trong những cuộc tình dị chủng, đa số là người đàn ông da trắng kết hợp với phụ nữ da màu. Trường hợp ngược lại, người đàn bà da trắng kết hợp với đàn ông da màu, ít xảy ra hơn. Rất thường xuyên, người đàn ông da trắng ở cương vị chủ động cung cấp tài chánh, vật chất và bảo vệ người phụ nữ da màu. Người đàn ông da trắng mang người phụ nữ da màu vào trong cái xã hội mà anh ta đã quen thuộc và người phụ nữ như loài cá sống trong nước lạ thường ở cương vị phục tùng. Trong Nửa Mặt Trời Vàng, Adichie đã cấu tạo một môi trường ngược lại. Kainene mang Richard vào thế giới của nàng, một nơi mà nàng có quyền hành và thế lực. Kainene là người che chở và bảo bọc người tình. Chẳng những Adichie đã tước đoạt tất cả sức mạnh và quyền lực của người da trắng trong xã hội da đen bằng cách khắc họa một nhân vật Richard nghèo, không vây cánh, không quyền lực, mà còn cấu tạo ra một Richard đầy thất bại; suốt thời gian ở Nigeria anh đã không xuất bản được tác phẩm nào (một bị thất lạc trong chiến tranh và một bị Kainene đốt bỏ khi cô biết Richard đã ngủ với Olanna). Adichie còn tước đoạt cả quyền làm người đàn ông của Richard bằng cách biến anh thành kẻ bất lực khi lần đầu hai người giao hoan. Tại sao Adichie lại sáng tạo một nhân vật nữ có cá tính rất mạnh và một nhân vật nam có bản tính rất mềm mại, dịu dàng đến độ nhu nhược và cho hai nhân vật này yêu nhau? Tôi nghĩ nên để các bạn tự tìm câu trả lời. Bạn đọc có thể nhận thấy Richard yêu Kainene say đắm, yêu đến độ tôn thờ và khiếp sợ bản lĩnh của cô. Tuy nhiên khó có thể khẳng định là Kainene yêu Richard. Cô vẫn còn phân vân không biết tình cảm của cô đối với Richard có phải là tình yêu hay không. Lúc cuộc nội chiến Biafra còn trong thời kỳ phôi thai, Kainene đã viết một lá thư ngắn, trong đó cô phân vân: ”Có phải tình yêu là cái nhu cầu đặt không đúng chỗ mà hầu như lúc nào em cũng cần có anh bên cạnh? Có phải tình yêu là cái cảm giác an toàn mà em cảm thấy trong sự im lặng của hai đứa mình? Có phải tình yêu là cái cảm giác chúng ta thuộc về nhau, cảm giác có đầy đủ mọi thứ khi chúng ta có nhau?” ... Mời các bạn đón đọc Nửa Mặt Trời Vàng của tác giả Chimamanda Ngozi Adichie.
Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn - Trần Dần
Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là Những ngã tư và những cột đèn của nhà văn Trần Dần. Chuyện rằng: vào giữa những năm 1960, nhà văn Trần Dần, khi đang trong hoàn cảnh hết sức ngặt nghèo của bản thân đã được một vài cán bộ công an hảo tâm tìm cách cho đi thâm nhập một số trại giam do Bộ Công an quản lý đang giam giữ những ngụy quân thời Pháp sau ngày tiếp quản Thủ đô. Kiểu đi như thế gọi là “đi thực tế” để khi về viết văn trên những cứ liệu của thực tế chuyến đi đó. Công thức ở đây là: cơ sở cung cấp tài liệu về một vấn đề cụ thể, nhà văn đi cho thấy, tiếp xúc cho biết, và cái viết ra thường chỉ là một báo cáo, một sơ đồ, dù có được vẽ vời thêm cho có vị văn chương. Vậy, với Trần Dần, bài toán đặt ra là: viết về hoàn cảnh của những người ngụy quân Pháp ở Hà Nội khi chiến tranh kết thúc, phần thắng thuộc về đội quân cách mạng, với định hướng viết đã rõ ràng là họ phải quy phục chế độ mới. Đề bài này không khó đối với ngòi bút Trần Dần. Nếu an phận, viết theo lối trả bài (trả cả ơn nghĩa nữa, nếu có), ông dễ phóng bút viết được nhanh, được trơn tru, nộp quyển, và quên đi nhanh chóng cái viết ra đó. Nhưng ông đã không làm thế, vì nhân cách là văn cách của ông không cho phép làm thế. Trần Dần, nhà văn luôn táo bạo quyết liệt trong từng câu chữ, hiểu theo nghĩa đen và nghĩa bóng, trong từng cái viết. Viết, với ông, bao giờ cũng là phải mới, phải khác, phải cách tân. Vì vậy, kết quả chuyến thực tế ấy, dưới tay ông đã thành tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn (NNTVNCĐ). Trần Dần đã giải được bài toán văn chương một cách xuất sắc. Câu chuyện của anh ngụy binh Dưỡng và mấy người bạn cùng cảnh ngộ trong những ngày đầu tiếp quản Thủ đô nếu kể ở ngôi thứ ba khéo lắm cũng chỉ được một truyện kể. Trần Dần đã chuyển nó thành ngôi thứ nhất thông qua hình thức cuốn nhật ký của Dưỡng, xen kẽ là lời kể của một vài nhân vật khác có tham dự vào đường dây hoạt động của nhân vật được kể ở ngôi thứ ba. Bằng hình thức này, Dưỡng đã được phát tiết tất cả những suy tư lời lẽ, hành vi của một thanh niên Hà Nội tạm chiếm, của một người lính lái tàu bò, và được bộc bạch tự nhiên nhất toàn bộ trạng thái tâm lý của mình vào một thời điểm hệ trọng của thời cuộc và số phận. Nhưng cái chính ở đây không phải chỉ ở nội dung cuốn nhật ký, mà ở cái cách ghi nhật ký của Dưỡng. Cái cách ghi ấy mới là một nội dung chính của cuốn tiểu thuyết của Trần Dần, nó thể hiện rõ trạng huống của một thành phố từ chiến tranh sang hòa bình và trạng thái của những con người bị mắc kẹt trong trạng huống ấy.  Còn có thể nói được rất nhiều về và từ cuốn tiểu thuyết NNTVNCĐ của Trần Dần. Trên đây tôi chỉ nói nhanh nói sơ về giải pháp nghệ thuật mà nhà văn đã đưa ra để thực hiện sáng tạo văn chương của mình. Đấy chính là cách viết nội dung chứ không phải kể nội dung, như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã từng chuyển dẫn từ lý thuyết văn học của Nga về. Cho nên không phải câu chuyện kể làm nên nội dung, mà là cách kể câu chuyện, hay hình thức đó cũng chính là nội dung. Điều đáng kinh ngạc là 45 năm trước, trong hoàn cảnh bị vây bủa của bản thân và sự bít bùng của một xã hội thời chiến, Trần Dần đã độc hành mở cho mình một con đường tiểu thuyết mà bây giờ ngoái lại sau lưng ông vẫn hầu như chưa có ai tiếp bước. May mắn bản thảo được giữ lại để bây giờ in ra. Một cuốn tiểu thuyết sau gần nửa thế kỷ mới được xuất bản, nhưng đọc rất mới, đọc rồi đọc lại vẫn mới, vẫn bất ngờ trước từng trang, vẫn không dễ nắm bắt nội dung, đó là NNTVNCĐ. Đó là Trần Dần từ 45 năm trước, khi cuốn sách mới được viết ra.  Đó là Trần Dần ở 45 năm sau, khi cuốn sách đã được in ra, trở thành một hiện tượng của văn học nước nhà năm 2011.  Kinh ngạc vì sức sáng tạo đột khởi và đột biến của một gương mặt văn chương quyết liệt nhất Việt Nam, nhưng cũng chính vì thế lại thấy buồn cho văn học Việt Nam sau nửa thế kỷ vẫn thấy là cũ mòn so với tác phẩm này. Do vậy, Trần Dần, bằng thơ và văn của ông để lại, vẫn mãi còn thách thức các nhà văn, nhà thơ Việt Nam.  *** Trần Dần Được đánh giá là người cách tân trong thơ cả về hình thức (với lối thơ bậc thang) lẫn tư tưởng (đa diện, triết lý...) và về thơ Trần Dần có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Ngay sau Phong trào Thơ mới, Trần Dần đã chủ trương làm thơ theo trường phái tượng trưng cùng với nhóm Dạ đài. Theo nhà thơ Dương Tường: "Thơ Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng chính ông ấy cũng nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị chân thiện mỹ đều là khó hiểu”. Mặc dù suốt 30 năm thơ ông không được xuất bản nhưng ông vẫn miệt mài sáng tác theo con đường nghệ thuật mà mình suốt đời theo đuổi. *** Tác giả và tác phẩm có bao giờ chia nhau cùng số phận? Có bao giờ đi bên nhau suốt hành trình cuộc đời? Trần Dần và Những ngã tư và những cột đèn của ông có lẽ là những ngoại lệ, có xa cách, có hội ngộ, và mỗi bên theo đuổi một số phận khác thường. Trần Dần viết Những ngã tư và những cột đèn sau một thời gian tiếp xúc với nhiều ngụy binh cũ thời Pháp thuộc. Sở Công an Hà Nội đã cấp giấy phép ra vào trại giam, để sau đó bản thảo được gửi lên Sở Công an, khi đã hoàn thành. Đây là bản viết tay duy nhất, đề năm 1966. Cuộc chia tay của tác giả và tác phẩm kéo dài 22 năm. Một ngày năm 1988 Sở Công an Hà Nội mang bản thảo trả lại Trần Dần, tại nhà riêng, cùng tập thơ chép tay Cổng tỉnh. Tất cả vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng toàn bộ các nhà xuất bản đều từ chối ông, cùng Những ngã tư và những cột đèn, mặc dù trên danh nghĩa, Trần Dần và các bạn của ông thời Nhân văn-Giai phẩm đã được Hội Nhà văn chính thức ra quyết định phục hồi năm 1987. Những ngã tư và những cột đèn, cùng mọi tác phẩm khác, lại bị trả vào ngăn kéo. Phải chờ thêm bốn năm sau ngày nhận lại hội tịch, tác phẩm đẩu tiên của Trần Dần mới được xuất bản, năm 1990, là cuốn Bài thơ Việt Bắc. Trước khi Trần Dần mất hẳn khả năng làm việc, vì bệnh tật, ông đã quay trở lại với Những ngã tư và những cột đèn một lần nữa, lần cuối cùng. Ông chép lại, và sửa chữa chủ yếu về văn phong. Trong nhật ký 1989, ông nhắc nhiều lần về tiểu thuyết này, ông còn muốn viết một tiểu thuyết nữa. Thế rồi một Những ngã tư và những cột đèn khác ra đời, nhưng cũng là lúc ông khép lại nhật ký đời ông, khép lại những Sổ bụi, cùng toàn bộ sáng tác. Đấy là những ngày giao thừa giữa năm 1989 và 1990. Lần xuất bản thứ nhất này, của Những ngã tư và những cột đèn, sẽ đánh dấu 21 năm nữa, từ ngày bản thảo được sửa chữa. Và 44 năm, sau ngày tiểu thuyết được hoàn thành.   Những ngã tư và những cột đèn có thể là một tiểu thuyết về chiến tranh, như lời thông báo của anh nhà văn không tên, ở trang đầu cuốn sách? Những tình bạn, những tình yêu, đã đi qua chiến tranh, đi qua hòa bình, rồi lại rơi vào chiến tranh, có còn nguyên vẹn? Và những tính cách, thói quen con người, có thể nào không thay đổi cùng hoàn cảnh? Không một cảnh chiến tranh, nhưng hai chữ chiến tranh đi vào tiểu thuyết ngay từ trang một và trôi theo nhật ký, như một ám ảnh, cho đến trang cuối cùng. Chiến tranh do vậy, tồn tại như một bè đệm. Để “con người TOÀN PHẦN và CỤ THỂ vẫn tiếp tục trong chiến tranh. Và mạnh hơn chtến tranh”, Trần Dần kể như vậy, về Những ngã tư và những cột đèn, trong nhật ký 1989. Nhưng bản thảo lần thứ hai còn mang thêm một bè đệm khác, cả anh ngụy binh cũ tên Dưỡng, cả anh nhà văn không tên, đều chia nhau cùng một suy tư, về hiện tại, về quá khứ. Họ xử sự với thời gian cùng một cách. Dưỡng tính thời gian theo lối của riêng anh: để gọi tên mùa thu là mùa đông, để ngày tiếp quản tháng Mười trở thành mồng một Tết. Anh nhà văn đi tìm những định nghĩa về thời gian, luôn luôn nhầm lẫn giữa tuần lễ bảy ngày và Chủ nhật. Thời gian của toàn bộ tiểu thuyết di chuyển liên tục, từ 11 năm trước, đến 11 năm sau, rồi lại về 11 năm trước, vậy thì đâu sẽ là hiện tại thực? Dường như những nghi vấn của họ với thời gian, thực chất để đòi những câu hỏi khác về trách nhiệm của người đang sống, đối với hiện tại, và quá khứ. Trong một trang nhật ký 1989 Trần Dần viết: “Người ta nói nhiều, đến bố cục, chủ đề, í đồ không rõ… Xong người ta bàng hoàng và bảo: in cái này hơn Người người lớp lớp. Vâng, đúng là xa lạ. Tôi tuyên ngôn: tào lao - xông xênh - bàng hoàng. Vô hình, nhưng rõ rệt. Hiện hữu vô hình ấy, là một thực thể. Bàng hoàng ở đó. Bàng hoàng ở những ngã tư. Ai chẳng luôn gặp, những ngã tư. Để rẽ đường nào?” Rồi ở một trang khác, ông lại quay về Những ngã tư và những cột đèn: “Đời lắm ngã tư? Rẽ một ngã tư là trách nhiệm sinh tử, phải cẩn thận, kẻo hối bất kịp. Nhưng cẩn thận, không có nghĩa tính toán, chi li, chi hoe, mà trực cảm mang hết mình, ngửi ngửi ngã tư cẩn trọng rồi hãy rẽ”. 45 năm, kể từ ngày nhà văn bắt đầu chép lại cũng bằng mực tím “250 trang nhật kí, lem nhem mực tím” của anh ngụy binh Dưỡng, cho đến hôm nay, những ngã tư của tiểu thuyết vẫn đóng kín. Đây là “những ngã tư đời láo nháo nốt chân. Láo nháo cột đèn láo nháo đèn” của thế kỷ đã qua. Hôm nay, một ngày năm 2010, chúng mở cửa nằm chờ những bước chân độc giả, để gặp gỡ một thế hệ mới. Vũ Văn Kha Mời các bạn đón đọc Những Ngã Tư Và Những Cột Đèn của tác giả Trần Dần.