Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

QUỐC VĂN CHU DỊCH DIỄN GIẢI - SÀO NAM PHAN BỘI CHÂU

Đây là công trình biên khảo có giá trị lớn của Sào Nam Phan Bội Châu khi ông sống những ngày cuối đời trọng cảnh bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế) Ông đã không bỏ phí một khoảnh khắc thời gian nào để sống một cách có ích nhất. Ông đã dồn hết tâm sức nghiên cứ và giải thích những chân giá trị của Triết Học phương Đông cụ thể là Kinh Dich để cho con cháu mai sau. Nhiều người xem bộ Chu Dịch (Quốc văn Chu Dịch diễn giải) như là một thứ sách chỉ dung việc bói toán không có ích cho đời. Theo Huỳnh Thúc Kháng thì việc ra đời của quyển sách “không khác gì dọn gái gốc mà thấy đất bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng của Triết Học Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của cuốn sách này không phải là ít.

Đây là công trình biên khảo có giá trị lớn của Sào Nam Phan Bội Châu khi ông sống những ngày cuối đời trọng cảnh bị giam lỏng ở Bến Ngự (Huế) Ông đã không bỏ phí một khoảnh khắc thời gian nào để sống một cách có ích nhất. Ông đã dồn hết tâm sức nghiên cứ và giải thích những chân giá trị của Triết Học phương Đông cụ thể là Kinh Dich để cho con cháu mai sau. Nhiều người xem bộ Chu Dịch (Quốc văn Chu Dịch diễn giải) như là một thứ sách chỉ dung việc bói toán không có ích cho đời. Theo Huỳnh Thúc Kháng thì việc ra đời của quyển sách “không khác gì dọn gái gốc mà thấy đất bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng của Triết Học Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của cuốn sách này không phải là ít.

---Từ Âu học tràn khắp phương Đông, học giả phương Đông say mê theo ngọn triều Âu hoá. Nói đến triết học thời kể những Bá Lạp Đồ (Platon), Khang Đức (Emmanuel Kant), Tô Cách Lạp Đề (Socrate), v.v... nay dẫn sách này, mai diễn thuyết nọ, mà bao nhiêu triết học sẵn có ở bên phương Đông ta, xem như một vật trong Viện Tàng cổ, mà không ai nhắc đến. Gần đây, các nhà học giả Âu Tây, khảo sát văn hoá phương Đông, nhiều người tỏ lòng sùng bái, tìm sách xưa mà dịch ra để thu nhập tư tưởng cho học giả Âu Tây. Xem bài Ký yết Khổng miếu của bác sĩ Ô Lư, người Pháp, thời rõ người Tây yêu chuộng triết học Đông phương là dường nào. (Bài này nguyên Pháp văn, báo Nam Phong số 83 có dịch đăng). Ký giả có một người bạn tinh thâm Hán học, trên hai mươi năm du lịch nước Nhật và nước Tàu, cùng học giả Đông Tây giao thiệp cũng nhiều, nay tuổi đã già không muốn chen mình vào trong cuộc đời đáng chán này, xoay lại đóng cửa đọc sách, làm bạn cùng mấy bậc danh triết đời xưa. Trong lúc thong thả, nhân đem bản Chu Dịch dịch ra quốc văn, lấy tư tưởng cao thượng dung hợp mà giải thích theo lối vũ trụ quan, nhân sanh quan phát triển được nhiều tinh diệu, và thích hợp với lẽ tiến hoá. Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách chỉ dùng về việc bói, việc số đã không ích cho đời, mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có bản sách này, không khác gì dọn gai gốc mà thấy đường bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng triết học của Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của bản sách này không phải là ít. Toàn bản Chu Dịch Quốc Văn này có mười quyển nhỏ, đầu từ quẻ Càn, sau đến quẻ VỊ Tế, gồm sáu mươi bốn quẻ, Hào từ, Tượng, Soán, đều có giải nghĩa, mà binh luận một cách rõ ràng. Hiện xã hội ta ngày nay, đối với Hán học có chiều lãnh đạm, nhất là triết học cao sâu thâm thuý như bản Chu Dịch này, lại cũng ít người muốn xem; mà có lẽ cũng ít hiểu nữa. Vì thế, nên chưa dám in vội. Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu là ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó không vì cái có che lấp ấy mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này há lại không có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà tỏ lòng muốn bảo tồn và phát triển ra hay sao? Kí giả nghĩ thế, nên trước hết viết mấy lời tỏ cùng đồng bào ta biết nhà Hán học ta có người học được thâm thuý, đủ tri thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để cống hiến cho kẻ hậu học, sau xin đăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc Văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đĩnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác. MINH VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG

---Từ Âu học tràn khắp phương Đông, học giả phương Đông say mê theo ngọn triều Âu hoá. Nói đến triết học thời kể những Bá Lạp Đồ (Platon), Khang Đức (Emmanuel Kant), Tô Cách Lạp Đề (Socrate), v.v... nay dẫn sách này, mai diễn thuyết nọ, mà bao nhiêu triết học sẵn có ở bên phương Đông ta, xem như một vật trong Viện Tàng cổ, mà không ai nhắc đến. Gần đây, các nhà học giả Âu Tây, khảo sát văn hoá phương Đông, nhiều người tỏ lòng sùng bái, tìm sách xưa mà dịch ra để thu nhập tư tưởng cho học giả Âu Tây. Xem bài Ký yết Khổng miếu của bác sĩ Ô Lư, người Pháp, thời rõ người Tây yêu chuộng triết học Đông phương là dường nào. (Bài này nguyên Pháp văn, báo Nam Phong số 83 có dịch đăng). Ký giả có một người bạn tinh thâm Hán học, trên hai mươi năm du lịch nước Nhật và nước Tàu, cùng học giả Đông Tây giao thiệp cũng nhiều, nay tuổi đã già không muốn chen mình vào trong cuộc đời đáng chán này, xoay lại đóng cửa đọc sách, làm bạn cùng mấy bậc danh triết đời xưa. Trong lúc thong thả, nhân đem bản Chu Dịch dịch ra quốc văn, lấy tư tưởng cao thượng dung hợp mà giải thích theo lối vũ trụ quan, nhân sanh quan phát triển được nhiều tinh diệu, và thích hợp với lẽ tiến hoá. Thuở nay nhiều người xem bộ Chu Dịch như một thứ sách chỉ dùng về việc bói, việc số đã không ích cho đời, mà lại dẫn người đời vào cõi mê tín. Nay có bản sách này, không khác gì dọn gai gốc mà thấy đường bằng, vẹt mây mù mà thấy mặt trời, làm cho chân tướng triết học của Thánh hiền Đông phương bị che lấp mấy trăm đời, nay được bày tỏ một cách sáng suốt, giá trị của bản sách này không phải là ít. Toàn bản Chu Dịch Quốc Văn này có mười quyển nhỏ, đầu từ quẻ Càn, sau đến quẻ VỊ Tế, gồm sáu mươi bốn quẻ, Hào từ, Tượng, Soán, đều có giải nghĩa, mà binh luận một cách rõ ràng. Hiện xã hội ta ngày nay, đối với Hán học có chiều lãnh đạm, nhất là triết học cao sâu thâm thuý như bản Chu Dịch này, lại cũng ít người muốn xem; mà có lẽ cũng ít hiểu nữa. Vì thế, nên chưa dám in vội. Tuy vậy, ngọc ở trong đá, vàng ở dưới bùn, dầu là ít người thưởng thức đến, song cái giá trị quý báu của nó không vì cái có che lấp ấy mà tiêu mòn, mà hai mươi triệu con Hồng cháu Lạc này há lại không có người có cái ý tưởng đối với triết học phương Đông ta, mà tỏ lòng muốn bảo tồn và phát triển ra hay sao? Kí giả nghĩ thế, nên trước hết viết mấy lời tỏ cùng đồng bào ta biết nhà Hán học ta có người học được thâm thuý, đủ tri thức mà phát triển được những học thuyết của Thánh triết xưa, để cống hiến cho kẻ hậu học, sau xin đăng bài Tựa của người làm bản sách Chu Dịch Quốc Văn ấy. Độc giả nếm một miếng cũng đủ biết mùi toàn đĩnh, còn sự ấn hành xin đợi ngày khác. MINH VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Phong thủy Địa lý Tả Ao chính tông (Tập 1)
Khoa địa lý của Trung hoa, xưa kia là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của cách mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ mạch của đất, dùng nơi đó làm đầu kết. Họ quan niệm rằng nới có đất kết, có thể chôn xương người chết là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập doanh trại, thị trấn , Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được thịnh vượng phát đạt do tú khí của vùng đất có đất kết đó. Khoa địa lý của Trung hoa, xưa kia là khoa phối hợp thuyết âm dương, ngũ hành với sự quan sát cách thế, hình thể của cách mạch đất cùng lối đi của sông, ngòi, suối, lạch mà tìm ra nơi có chứa tụ mạch của đất, dùng nơi đó làm đầu kết. Họ quan niệm rằng nới có đất kết, có thể chôn xương người chết là kết âm - phần và có thể làm nhà, đình chùa, lập doanh trại, thị trấn , Đô thị lên trên nếu là đất kết dương cơ, để người sống được thịnh vượng phát đạt do tú khí của vùng đất có đất kết đó. Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại.... Câu ca dao: " Sống về mồ mả chứ không ai sống về cả bát cơm" đã chứng minh sự quan trọng của khoa học địa lý với con người Việt Nam. Khoa địa lý, có một huyền thoại vàng son như vậy tiếc thay đến nay đã gần như thất truyền, vì phép địa lý chính tông đã bị những man sư và man thư làm cho sai lạc đi nhiều. Lý do của sự tàn tạ sa sút của khoa này trước kia do quan niệm người xưa để giữ ngôi vị của một số dòng họ nên họ giữ bí mật chỉ một số ít được truyền lại....
Ngọc Hạp Chánh Tông
Ngọc hạp chánh tông – Viên Hà, Ngọc Hạp Chánh Tông  này là một bổn sách cổ từ lâu đời bằng chữ Nho, mà thuở xưa các cụ thường dùng để trạch tuổi, coi ngày, coi giờ, coi cưới gả, coi làm nhà, coi xuất hành, mở cửa hàng, coi phương hướng và so đôi tuổi trai và gái kết hôn cùng nhau cho được phù hạp về cung mạng thuộc Ngũ hành khắc và hạp. Ngọc Hạp Chánh TôngBổn sách Ngọc Hạp  là một bổn sách rất quí báu, hậu thế cũng chưa ai làm nối theo mà bỏ không dùng bổn ấy làm gốc. Nhà làm sách Ngọc Hạp và Bát Trạch đã thông Thiên văn rành Địa lý, am hiểu vũ trụ biến đổi, lại rành rẽ về Lịch số học mới làm ra được; phải hiểu cả Âm Dương thuộc Ngũ hành khắc hạp v.v…Ngọc HạpTrong khi trình bày quyển Ngọc hạp này, tôi có hai điều mong ước: Một, là bây giờ nền Nho học càng ngày càng thối bộ, tôi muốn lưu lại một đôi phần trong khoa này cho quí vị nào có cần đến cũng đỡ bớt sự phiền phức. Hai, là tôi đã kinh nghiệm thật đúng, cho nên tôi mới mạnh dạn trình bày để cho những vị tân học ngày nay có dịp khảo xét thêm cho biết coi người xưa truy nguyên có đúng hay không. Về điểm này tôi xin để thời gian chứng minh sự thật… chớ hiện nay phần đông vì khoa học tiến mạnh, làm cho thiên hạ say mê nền Tân học, còn cái gì thuộc về cũ – mà nhứt là những gì nghe ra như huyền bí – thì người ta có dạ nghi ngờ, mà nghi ngờ cũng có lý… Riêng tôi, tôi lấy lương tâm chức nghiệp mà hoàn thành quyển Ngọc hạp này.
Kỳ Môn Độn Giáp - Đàm Liên
“Kỳ Môn Độn Giáp”  có giá trị lớn và có ý nghĩa tích cực về mặt tư duy đa chiều đối với sự phát triển của triết học và khoa học phương Đông. Đây chính là những kiến thức để hiểu biết về thế giới tự nhiên khác xa với những kiến thức khoa học của các nền văn hoá phương Tây. “Kỳ Môn Độn Giáp” “Kỳ Môn Độn Giáp”  gồm ba khía cạnh: Thứ nhất: thần thoại hoá về sự xuất hiện kỳ môn độn giáp. Tthứ hai: sự mô phỏng của chủ nghĩa duy tâm về “động ứng” Thứ ba: những pháp thuật mê tín như niệm chú. Trên cơ sở giải thích những nguyên lý cơ bản của kỳ môn độn giáp, cuốn sách này chủ yếu giới thiệu cách sắp xếp bố cục của kỳ môn phi bàn và cách quy định thời gian trong một năm. Ngoài ra còn nói rõ về những vấn đề mà những cuốn sách về Kỳ môn độn giáp khác chưa nói rõ.“Kỳ Môn Độn Giáp”Mục Lục Chương I. Khái niệm cơ bản về Kỳ môn độn giáp Chương II. Bố cục của Kỳ môn độn giáp Chương III. Cách xếp bố cục của Phi bàn kỳ môn Chương IV. Phương pháp định cục giờ Ất Sửu, Giáp Tý – 18 cục âm dương Kì môn phi bàn Chương V. Phi bàn 1080 định cục cát hung của Kì môn độn giáp Chương VI. Thập can – Bát môn tam cơ khác ứngMục Lục
KHỔNG MINH THẦN TOÁN
Khổng Minh Thần Toán là một danh tác của Khổng Minh, vị quân sư Lưu Bị đời Tam Quốc, và có thể nói là vị quân sư của mọi thời đại ( về sau, của Trung Hoa). Tư cách quân sư của mọi triều đại ấy, dĩ nhiên là do cái sở học thâm áo của Ông về Dịch lý Đông Phương;  và Khổng Minh Thần Toán chính là tác phẩm độc nhất của ông về môn này. Khổng Minh Thần Toán là một danh tác của Khổng Minh, vị quân sư Lưu Bị đời Tam Quốc, và có thể nói là vị quân sư của mọi thời đại ( về sau, của Trung Hoa).Tư cách quân sư của mọi triều đại ấy, dĩ nhiên là do cái sở học thâm áo của Ông về Dịch lý Đông Phương;  và Khổng Minh Thần Toán chính là tác phẩm độc nhất của ông về môn này.