Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thành Công Đâu Chỉ Tiền Quyền

Vào buổi sáng ngày mùng 6 tháng 4 năm 2007, tôi đang nằm dài trên sàn văn phòng giữa một đống bừa bộn. Tôi đã gục đi vì kiệt sức và thiếu ngủ. Trong lúc cơ thể đổ xuống, đầu tôi va vào cạnh bàn, sượt qua mắt và khiến xương gò má bị vỡ. Trong tiềm thức, tôi thấy mình được đưa qua các phòng khám, từ phòng chụp cộng hưởng từ đến phòng chụp CT siêu âm tim, để kiểm tra xem có vấn đề nào khác về sức khỏe ngoài việc bị kiệt sức hay không. Kết quả là không có gì khác cả, nhưng trong phòng đợi của bác sĩ, tôi nhận ra đâylà một nơi phù hợp để tự đặt ra những câu hỏi cho chính bản thân về cách mà tôi đang sống. Vào năm 2005, chúng tôi thành lập Huffington Post, và chỉ sau hai năm, tờ báo đã phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc. Tôi đã được lên trang bìa của các tạp chí và nằm trong danh sách “100 người có ảnh hưởng nhất thế giới” do tạp chí Times bình chọn. Nhưng sau cú gục ngã ấy, tôi đã tự hỏi bản thân: Đây được xem là sự thành công ư? Đây là cuộc sống mà tôi mong muốn sao? Tôi đã làm việc 18 tiếng một ngày, bảy ngày một tuần, cố gắng để xây dựng doanh nghiệp, mở rộng quy mô và thu hút các nhà đầu tư. Nhưng tôi nhận ra mình đang dần mất kiểm soát. Xét về các khía cạnh của sự thành công, tôi đã có được tiền bạc và quyền lực. Tuy nhiên, tôi lại không có được một cuộc sống thành công. Tôi biết có điều gì đó đã thay đổi hoàn toàn. Tôi không thể tiếp tục đi trên con đường đó nữa. Đây là một cuộc gọi đánh thức theo kiểu cổ điển. Nhìn lại cuộc đời mình, tôi đã có những khoảng thời gian mà tôi nên thức tỉnh nhưng tôi đã không làm vậy. Lần này, tôi thực sự đã tạo được rất nhiều thay đổi trong cách sống, bao gồm cả việc luyện tập hằng ngày để giữ cho bản thân đi đúng hướng. Tôi rời khỏi phòng chờ của bác sĩ. Kết quả là tôi đã có một cuộc sống trọn vẹn hơn, với nhiều không gian để thởvà một góc nhìn sâu sắc hơn. Cuốn sách này được hình thành khi tôi cố gắng liên kết tất cả những hiểu biết mà tôi đã thu thập được về công việc và cuộc sống của bản thân. Trong suốt nhiều tuần, tôi dành thời gian viết bài luận để cung cấp cho các lớp của Đại học Smith. Hai cô con gái của tôi đang theo học đại học. Đó quả là thời điểm đặc biệt dành cho khóa tốt nghiệp – sự tạm ngừng, quãng nghỉ sau bốn (hoặc năm, sáu) năm không ngừng học tập và phát triển trước khi bắt đầu cuộc sống của một người trưởng thành – một cuộc sống để tiếp tục tiến lên và đưa tất cả kiến thức đã học vào thực tiễn. Đó là dấu mốc độc nhất trong cuộc sống của họ. Và trong khoảng 15 phút, tôi phải khiến các sinh viên tốt nghiệp phải chú ý. Thách thức ở đây là phải nói điều gì đó phù hợp với hoàn cảnh, điều gì đó sẽ hữu ích trong quãng thời gian sắp tới. Tôi nói với các sinh viên tốt nghiệp: “Theo truyền thống, những bài phát biểu sẽ trình bày cách để các sinh viên tốt nghiệp bước ra ngoài xã hội và leo lên các nấc thang của sự thành công. Nhưng thay vì định nghĩa lại thành công, tôi muốn đặt câu hỏi cho các bạn. Bởi thế giới mà các bạn sắp phải đối mặt rất cần điều này. Và cũng bởi các bạn sắp đón nhận nhiều thử thách cam go. Việc học tập tại Đại học Smith đã chỉ ra rất rõ ràng rằng, các bạn có quyền có được chỗ đứng ở bất kỳ nơi nào mình muốn. Các bạn có thể làm việc và dẫn dầu trong bất kỳ lĩnh vực nào. Nhưng những gì tôi mong mỏi ở các bạn không chỉ là đưa vị trí của các bạn lên top đầu của thế giới, mà còn làm thay đổi thế giới.” Phản ứng sau đó của các sinh viên đã khiến tôi nhận ra sự khao khát định nghĩa lại thành công có thể lan truyền rộng rãi đến thế nào. “Cuộc sống tốt đẹp là gì?” đã trở thành câu hỏi phổ biến của các nhà triết học kể từ thời Hy Lạp cổ đại. Nhưng ở một giai đoạn nào đó, chúng ta đã lãng quên câu hỏi đó và chuyển sự chú ý tới việc chúng ta kiếm được bao nhiêu tiền, có thể mua căn nhà rộng đến đâu và leo lên được bao nhiêu nấc thang trong sự nghiệp, v.v.. Đó là những câu hỏi chính đáng, đặc biệt là tại thời điểm mà phụ nữ vẫn đang cố gắng để đạt được những vị trí bình đẳng trong công việc… Nhưng tôi đau đớn khi phát hiện ra rằng, chúng ta ngày càng cách xa với câu hỏi duy nhất để dẫn tới một cuộc sống thành công. Theo thời gian, khái niệm về sự thành công trong xã hội đã thu hẹp lại chỉ còn liên quan đến tiền bạc và quyền lực. Trên thực tế, sự thành công, tiền bạc và quyền lực đã thực sự được đánh đồng trong tâm trí của nhiều người. Ý tưởng về sự thành công này có thể hiệu quả trong thời gian ngắn, nhưng về lâu về dài, nó sẽ giống như việc bạn có thể giữ thăng bằng trên một chiếc ghế đẩu có hai chân trong chốc lát, nhưng cuối cùng vẫn sẽ ngã nhào. Và hiện tượng những người rất thành công bị ngã nhào đang xuất hiện ngày càng nhiều. Vì vậy, những gì mà tôi chỉ ra cho các sinh viên tốt nghiệp Đại học Smith về cách chúng ta từng định nghĩa về sự thành công là không đủ. Nó không còn bền vững đối với loài người hoặc xã hội này nữa. Để sống cuộc đời mà chúng ta thực sự mong muốn, chúng ta cần một Thước đo thứ ba của sự thành công, vượt ra ngoài hai thước đo là tiền bạc và quyền lực, nó sẽ bao gồm bốn yếu tố chính: hạnh phúc (well-being), sự thông thái (wisdom), sự kỳ diệu (wonder) và cho đi (giving). Bốn điều đó cũng tạo nên bốn phần của cuốn sách này. Đầu tiên là hạnh phúc: nếu không định nghĩa lại thành công là gì, cái giá mà chúng ta phải trả về mặt sức khỏe và hạnh phúc sẽ tiếp tục gia tăng, tôi nhận ra điều này dựa trên trải nghiệm của chính mình. Dường như trong mỗi cuộc trò chuyện, tôi luôn gặp phải những tình huống khó xử mà con người thời nay thường phải đối mặt như sự căng thẳng quá độ, bận rộn quá mức, làm việc quá sức, kết nối quá nhiều trên mạng truyền thông và thiếu tương tác với chính bản thân và những người khác. Không gian, khoảng cách, sự lắng đọng, im lặng – những điều cho phép con người tái tạo và nạp lại năng lượng – tất cả đang dần biến mất trong cuộc sống của tôi cũng như của rất nhiều người khác nữa. Đối với cá nhân tôi, những người thực sự thành công trong cuộc sống là những người đã vươn lên vì sự hạnh phúc, thông thái, học hỏi và cho đi.Kể từ đó, “Thước đo thứ ba” (Third Metric) đã được tạo ra – cái chân thứ ba của chiếc ghế đẩu tạo nên một cuộc sống thành công. Việc xác định lại con đường của cuộc đời cùng những ưu tiên hàng đầu đã giúp tôi nhận ra một sự thức tỉnh đang diễn ra trên quy mô toàn cầu. Chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới. Cách chúng ta đong đếm sự thành công đang dần thay đổi. Và sự thay đổi này diễn ra không hề sớm, đặc biệt là đối với phụ nữ, bởimột lượng dữ liệu ngày càng tăng cho thấy cái giá phải trả của phụ nữ đối với sự thành công đang thực sự cao hơn nam giới: phụ nữ bị căng thẳng trong công việc có nguy cơ mắc bệnh tim mạch tăng gần 40%, bệnh tiểu đường tăng 60%. Trong suốt 30 năm qua, khi phụ nữ đã có những bước tiến đáng kể trong sự nghiệp, mức độcăng thẳng đã tăng lên 18%. Cả những người chưa tham gia và mới tham gia vào lực lượng lao động đã bắt đầu cảm nhận được ảnh hưởng. Theo Hiệp hội Tâm thần học Mỹ, thế hệ Millennial1 đang đứng đầu bảng xếp hạng về mức độ căng thẳng, nhiều hơn so với thế hệ Baby Boomers2. Văn hóa làm việc của phương Tây đã lan rộng sang nhiều nơi khác trên thế giới, dẫn đến sự căng thẳng, thiếu ngủ và kiệt sức. Tôi đã từng “mặt-đối-mặt” (hay nói đúng hơn là “mặt-đối-sàn nhà”) với những vấn đề khi tôi gục ngã. Trong khi sự căng thẳng làm suy yếu sức khỏe của chúng ta, việc thiếu ngủ cũng khiến rất nhiều người có những trải nghiệm tiêu cực trong công việc, ảnh hưởng đến sức sáng tạo, hiệu suất và quá trình ra quyết định của chúng ta. Sự cố đắm tàu Exxon Valdez, vụ nổ tàu con thoi Challenger, sự cố hạt nhân Chernobyl và sự cố Đảo Three Mike đều có ít nhất một phần nguyên nhân bắt nguồn từ sự thiếu ngủ. Và vào mùa đông năm 2013, vụ tai nạn đường sắt nghiêm trọng tại Metro-North đã xảy ra do William Rockefeller, kỹ sư tại trạm điều khiển ngủ gật trong giờ làm việc. Vụ việc này đã khiến dư luận để tâm đếnsự nguy hiểm của thiếu ngủ trong ngành công nghiệp vận chuyển. Như lời John Paul Wright, kỹ sư của một trong những nhà khai thác vận tải đường sắt lớn nhất nước Mỹ, đã nói: “Vấn đề lớn nhất với những công nhân đường sắt là sự mệt mỏi chứ không phải thù lao. Dù được trả công rất tốt, nhưng họ đã hy sinh bản thân để làm việc trong nhiều giờ, chưa nói đến tỷ lệ ly hôn cao, dùng thuốc tùy tiện và căng thẳng.” Hơn 30% người dân tại Mỹ và Anh đang bị thiếu ngủ, nó không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng đưa ra quyết định và nhận thức. Ngay cả những đặc điểm tính cách và các giá trị cốt lõi cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu ngủ quá ít. Theo một nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Quân đội Walter Reed, việc thiếu ngủ làm suy giảm trí tuệ cảm xúc, sự tự tôn, quyết đoán, ý thức độc lập, sự đồng cảm với người khác, chất lượng của các mối quan hệ cá nhân, suy nghĩ tích cực và kiểm soát ham muốn. Trên thực tế, điều duy nhất mà nghiên cứu nhận thấy rằng sẽ tốt hơn nếu thiếu ngủ là “tư duy huyền bí” và mê tín dị đoan. Vì vậy, nếu bạn quan tâm đến lĩnh vực bói toán, hãy cứ tiếp tục thức khuya. Còn chúng ta phải xác định lại điều gì cần coi trọng và cố gắng thay đổi văn hóa làm việc: sự cống hiến và làm việc đến kiệt sức cần phải bị lên án thay vì được tán dương. Trong định nghĩa mới về sự thành công, chỉ xây dựng và chăm sóc nguồn tài chính là chưa đủ. Chúng ta cần phải làm mọi điều có thể để bảo vệ và nuôi dưỡng nguồn nhân lực. Mẹ tôi là một chuyên gia trong lĩnh vực đó. Tôi vẫn còn nhớ khi tôi 12 tuổi, một doanh nhân Hy Lạp rất thành công thường tới ăn tối với gia đình tôi. Ông ấy luôn tỏ vẻ mệt mỏi và kiệt sức. Nhưng khi ngồi xuống dùng bữa, ông ấy nói với chúng tôi về những điều tốt đẹp đã đến với mình. Ông ấy rất vui mừng khi vừa giành được bản hợp đồng để xây dựng một viện bảo tàng mới. Mẹ tôi dường như không thấy ấn tượng lắm. Bà thẳng thừng nói: “Tôi không quan tâm công việc của anh đang diễn ra tốt như thế nào, anh đang không biết tự chăm sóc bản thân. Công việc của anh có thể mang lại lợi nhuận lớn, nhưng bản thân anh mới chính là nguồn vốn quan trọng nhất. Anh có thể rút tiền nhiều lần từ tài khoản sức khỏe của mình, nhưng anh luôn chỉ rút ra. Anh có thể bị phá sản nếu không sớm gửi lại tiền vào đó.” Và quả thực, không lâu sau đó, ông ấy đã phải vào viện bởi một cơn nhồi máu cơ tim đột ngột. Khi chúng ta gộp cả sức khỏe của bản thân vào định nghĩa về sự thành công, có một điều thay đổi là mối quan hệ của chúng ta với thời gian. Hiện nay, thậm chí còn có một thuật ngữ mô tả cảm giác căng thẳng của con người là “nạn đói thời gian” (time famine) – chỉ việc chúng ta không bao giờ cảm thấy đủ thời gian để làm những việc mình muốn. Mỗi lần nhìn vào đồng hồ, dường như nó luôn muộn hơn so với chúng ta nghĩ. Bản thân tôi đã luôn có một mối quan hệ rất căng thẳng với thời gian. Tác giả Dr. Seuss đã tóm tắt điều đó một cách đẹp đẽ, ông viết: “Biết tính thời gian sớm-muộn thế nào? Màn đêm có trước khi chiều tà xuất hiện. Tháng 12 đến trước tháng 6 một quãng xa. Lạy Chúa tôi, thời gian vẫn thế, ngày lại ngày mải miết trôi qua. Biết tính thời gian sớm-muộn thế nào?” Bạn nghe có quen không? *** Bấy lâu nay, bạn định nghĩa “thành công” ra sao? Theo thời gian, khái niệm về sự thành công trong xã hội đã thu hẹp lại chỉ còn liên quan đến tiền bạc và quyền lực. Ý tưởng về sự thành công này có thể hiệu quả trong thời gian ngắn, nhưng về lâu về dài, nó sẽ giống như việc bạn có thể giữ thăng bằng trên một chiếc ghế có hai chân trong một khoảng thời gian, nhưng cuối cùng vẫn sẽ ngã nhào. Cách chúng ta từng định nghĩa về sự thành công là không đủ. Nó không còn bền vững đối với loài người hoặc xã hội này nữa. Bạn đang ở giai đoạn nào của cuộc đời mình? Loay hoay trong công cuộc tìm kiếm cánh cửa thành công cho riêng mình bằng cách lao vào công việc như “thiêu thân”, bạn tìm cách để làm sao kiếm được nhiều tiền, thu về thật nhiều quyền lực cho bản thân mình; hay đã có được cả hai thứ đó nhưng vẫn chưa thể mở ra cánh cửa thành công như bạn mong muốn… Không tiền, không quyền, không thành công, có thể bạn nghĩ đó là trò đùa của số phận; nhưng có tiền, có quyền mà vẫn không thể thành công thì chính là do bạn đã chọn sai “chiếc chìa khóa” để mở cánh cửa thành công. Nếu như bạn đang băn khoăn làm sao để tìm đúng chiếc chìa khóa mở được cánh cửa thành công của chính mình thì hãy thử kiếm tìm lời giải đáp trong cuốn sách Thành công không chỉ tiền quyền này nhé. Ngoài hai thước đo tiền bạc và quyền lực mà chúng ta vốn được dạy, còn tồn tại một thước đo khác - thước đo thứ ba định nghĩa hai chữ THÀNH CÔNG. Thước đo này được Arianna Huffington - nhà sáng lập của Huffington Post, từng xuất hiện trên trang bìa của nhiều tạp chí danh giá, là một trong những người phụ nữ có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong giới truyền thông của Mỹ và thế giới, nó được bà khám phá ra sau “cú ngã định mệnh” vì lao lực quá độ. “Cú ngã đánh thức” đó khiến bà tự hỏi bản thân rằng: Đây được xem là sự thành công ư? Đây là cuộc sống mà tôi mong muốn sao? Tôi làm việc 18 tiếng một ngày, bảy ngày một tuần, cố gắng để xây dựng doanh nghiệp, mở rộng doanh nghiệp, mở rộng quy mô và thu hút các nhà đầu tư. Nhưng tôi nhận ra mình đang dần mất kiểm soát. Xét về khía cạnh của sự thành công, tôi đã có được tiền bạc và quyền lực. Tuy nhiên, tôi lại không có được một cuộc sống thành công. Tôi biết có điều gì đó đã thay đổi hoàn toàn. Tôi không thể tiếp tục đi trên con đường đó nữa. Định nghĩa thành công chỉ dựa trên tiền bạc và quyền lực là một sự thiếu sót trầm trọng. Để sống cuộc đời mà chúng ta thực sự mong muốn, chúng ta cần một thước đo thứ 3 của sự thành công, vượt ra ngoài thước đo tiền bạc và quyền lực. Nó sẽ bao gồm bốn yếu tố chính: HẠNH PHÚC (well-being), KHÔN NGOAN (wisdom), SỰ KỲ DIỆU (wonder) và CHO ĐI (giving). Chỉ có những ai nỗ lực vươn lên vì sự hạnh phúc, khôn ngoan, kỳ diệu và cho đi thì mới có thể gặt hái được những thành công thực sự bền vững trong tương lai. 4 yếu tố này nghe thì có vẻ trừu tượng, nhưng Arianna Huffington đã phân tích chúng một cách rất cụ thể qua những nghiên cứu đột phá mới nhất trong các lĩnh vực tâm lý học, thể thao, khoa học giấc ngủ và sinh lý học. Chúng được đúc kết lại thành cuốn Thrive - Thành công đâu chỉ tiền quyền: Thước đo thứ ba để định nghĩa lại thành công trong tương lai của bà. “Hãy tiến về phía trước, phía trên và bên trong” - đó là cách Arianna Huffington kết thúc bài diễn văn đầu tiên của bà tại Smith. Bằng nhiều cách khác nhau, cuốn sách này đã mang đến bằng chứng (thông qua kinh nghiệm của chính tác giả và những nghiên cứu khoa học) rằng chúng ta không thể phát triển và đạt được cuộc sống mà mình muốn (trái ngược với cuộc sống mà chúng ta đang chấp nhận) mà không cần học cách đi sâu vào bên trong. Như lời tác giả chia sẻ, “chúng ta có một nỗi khát khao chung để ngừng sống một cách nông cạn, để ngăn chặn việc làm tổn hại đến sức khỏe và các mối quan hệ của chúng ta bằng cách phấn đấu một cách kiệt sức để vươn đến biểu hiện thành công thông thường (tiền bạc và quyền lực) - thay vào đó, hãy xoáy sâu vào những niềm vui và những khả năng tuyệt vời trong cuộc sống của chúng ta”. Thành công không chỉ được đong đếm bởi tiền bạc hay quyền lực. “Thành công là gì? Đó là có thể đi ngủ mỗi đêm với sự bình yên trong tâm hồn” (Paulo Coelho). Hy vọng cuốn sách này có thể vẽ ra một hướng khác cho tương lai của chúng ta (cho bạn, cho tôi, cho tất cả mọi người) - một cách sẵn có cho tất cả chúng ta ngay bây giờ, bất cứ nơi nào chúng ta tìm thấy chính mình. Mời các bạn đón đọc Thành Công Đâu Chỉ Tiền Quyền của tác giả Arianna Huffington.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người
Người chọn nghề hay nghề chọn nghề là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Marden, nằm trong số những tác phẩm hay nhất về hướng nghiệp từng được viết. Cuốn sách này nên là tài liệu thiết yếu cho mọi bạn trẻ khi lựa chọn sự nghiệp, bởi vì, như tác giả nói, nhiều khi thứ bạn thực sự lựa chọn chính là lối sống. Hầu hết mọi người đều đưa ra lựa chọn căn bản này mà không có sự chuẩn bị, thậm chí không suy nghĩ gì về hệ quả xa dài từ lựa chọn của họ. Marden nhấn mạnh về bi kịch của “kẻ lạc loài”, về những lựa chọn nghề nghiệp sai lầm, về việc chọn một công việc, sự nghiệp chỉ vì nó “dễ” hay việc làm điều gì đó chỉ để nối bước cha ông. Marden nói, bạn phải tự hào về công việc của mình. Công việc của bạn nên làm tăng giá trị cho bạn – chứ không bao giờ được làm bạn giảm giá trị. Bạn phải hòa nhịp với công việc, sự nghiệp của mình, làm nó với kỷ luật và nỗ lực. Bạn không bao giờ nên cảm thấy mình giống một con cá bị rời khỏi nước. Marden nói, hãy nhớ công việc không phải là “kiếm sống”, mà là “kiếm tìm ý nghĩa cuộc đời”. Cuộc đời của chính bạn. "Có hàng triệu người sống cả đời mà không hề nhận ra con người tuyệt nhất trong mình, họ luôn bất mãn, không vui, thậm chí là những kẻ thất bại, chỉ vì họ ở nhầm chỗ." – O. W. Train *** Orison Swett Marden sinh ra tại Anh năm 1850, Marden trải qua thời thơ ấu khó khăn khi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc ông còn rất nhỏ. Bị đẩy từ tay người giám hộ này sang người giám hộ khác, ông phải đi làm thuê để kiếm tiền. Lấy cảm hứng từ một cuốn sách phát triển bản thân thời kỳ đầu của tác giả người Scotland là Samuel Smiles, ông bắt tay vào cải thiện bản thân và hoàn cảnh sống của mình. Ông tốt nghiệp trường Đại học Boston năm 1871, và đã từng học tại Chủng viện Thần học Andover. Vào năm 1881 ông nhận được bằng Dược và năm 1882 là bằng Luật, cả hai đều từ trường Harvard. Sau đó ông theo học Trường Hùng biện Boston. Suốt thời đại học, ông làm phục vụ và quản lý khách sạn, ông làm tốt tới mức dành dụm được số vốn 20.000 đô-la (tương đương khoảng 50.000 đô-la ngày nay) khi hoàn thành các chương trình học chính thức của mình. Ông mua bất động sản trên Đảo Rhode rồi phát triển thành một khu nghỉ dưỡng. Những năm suy thoái kinh tế 1890, sau khi để mất khách sạn của mình, ông chuyển tới Chicago và làm quản lý khách sạn trong suốt thời gian diễn ra Hội chợ thế giới (World’s Fair) năm 1893. Sau đó ông trở về Boston và bắt đầu lại sự nghiệp. Ông không bao giờ chấp nhận bị đánh bại. Trái lại, những thời điểm khó khăn càng tạo cảm hứng cho ông kết nối các ý tưởng – đặc biệt gắn với niềm lạc quan – trong cuốn sách đầu tiên, Pushing to the front (tạm dịch: Vươn tới phía trước), xuất bản vào năm 1894, chỉ hai năm sau khi ông mất hết mọi thứ. Cuốn sách nhanh chóng thành công, một tác phẩm bán chạy đích thực thời đó, với số bản in bán ra cao vượt. Ông tiếp nối thành công đó với hơn 60 cuốn sách, hầu hết về các chủ đề thành công, nuôi dưỡng ý chí, tư duy tích cực; nhưng bên cạnh đó ông cũng viết về sức khỏe, rèn luyện thân thể, đối phó với tuổi già, giáo dục giới tính và bình đẳng cho phụ nữ. Ngoài Samuel Smiles, tư duy của Marden còn chịu ảnh hưởng từ các tác phẩm của Oliver Wendell Holmes và Ralph Waldo Emerson, những người tạo tiền đề cho Phong trào Tư duy Mới những năm 1890. Năm 1897, ông sáng lập Tạp chí Thành công (Success Magazine), sau đó trở thành một người đóng góp thường xuyên cho tạp chí đi theo phong trào Tư duy Mới (New Thought) của Elizabeth Towne là Nautilus trong suốt hai thập niên đầu của thế kỷ XX. Marden, cũng như các tác giả đương thời khác của Tư duy Mới (William Walker Atkinson, Wallace Wattles, Elizabeth và William Towne), tin rằng tư duy của chúng ta ảnh hưởng đến cuộc sống và hoàn cảnh sống của chúng ta. Họ tin rằng “tư duy là vật chất”, và vì Luật Hấp dẫn (những thứ giống nhau sẽ hút lấy nhau), chúng ta phải rất cẩn thận với điều mình nghĩ và cách mình tư duy. Ông nói: “Chúng ta tạo nên thế giới quanh mình và định hình môi trường của chính mình bằng những tư duy của chúng ta.” Thế nhưng dù được biết đến nhiều nhất bởi những cuốn sách về thành công tài chính, ông luôn luôn nhấn mạnh rằng điều đó sẽ xảy ra nhờ việc nuôi dưỡng phẩm chất cá nhân: “Cơ hội vàng mà bạn đang tìm kiếm nằm trong chính con người bạn. Nó không nằm ở môi trường quanh bạn, không nằm ở may mắn, cơ hội, hay sự giúp đỡ của những người khác. Nó chỉ nằm trong chính bản thân bạn.” Những tựa sách của ông đã nhấn mạnh một cách hùng hồn góc nhìn đầy lạc quan, hào hứng và tự tin này. Trung bình ông ra hai cuốn sách mỗi năm, từ Pushing to the front năm 1894 tới cuốn cuối cùng năm 1924, năm đó ông mất ở tuổi 74. Ông vẫn còn số bản thảo khoảng hai triệu từ chưa được xuất bản. Mặc dù đã hàng trăm tuổi, nhưng những cuốn sách của ông mang tính hiện đại tới mức chúng dường như được viết cho chính thời đại của chúng ta ngày nay. Ở thời đại này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần sự cân bằng, niềm tin và kiên trì; chúng ta cần hạnh phúc, sẻ chia và sự thật; trên hết, chúng cần HÒA BÌNH và TÌNH YÊU... Kiến thức uyên thâm của Marden từ lịch sử, triết học, thần học và nhiều mảng khác, cùng khả năng cô đọng, truyền tải kiến thức một cách rõ ràng đến kinh ngạc theo cách thức rất thú vị và thu hút đã khiến cho những tác phẩm này trở thành thiết yếu đối với bất cứ ai đang tìm kiếm thành công cho cuộc sống của mình, hay đơn giản chỉ là tìm kiếm những câu trả lời cho cuộc đời này. Hơn 50 cuốn sách của ông đã được xuất bản trong loạt sách Timeless Wisdom. Bạn có thể đọc thông tin tham khảo về ông và các tác giả khác ở cuối sách. *** CHỘP LẤY NGAY CÔNG VIỆC ĐẦU TIÊN ĐƯỢC MỜI "Cần tuyển nam.” – Tấm biển này trông hết sức cuốn hút đối với nhiều chàng trai trẻ mới bắt đầu vào đời kiếm sống. Nó trông như một cánh cửa cơ hội, và với số đông các chàng trai thì đúng là như vậy. Nhưng hãy nghĩ tới vô số thất bại trong đời, tới những kẻ ngồi nhầm chỗ, những thành công nửa vời, những kẻ bị dụ dỗ tới chỗ tầm thường bởi chính tấm biển đó! Công việc đầu tiên của một cậu trai trẻ là yếu tố có tính then chốt trong đời cậu ta. Nó có thể hoàn toàn không phù hợp với bản chất trí tuệ của cậu ta; hơn thế, nó có thể dẫn cậu ta tới một lựa chọn sai lầm khác, bởi vì đám trai trẻ rất háo hức được làm mọi thứ, và tự hào về những công cụ cùng kỹ năng mình học được. Nếu chúng không biết những lợi thế của bất cứ công việc nào khác, chúng có thể tiếp tục làm điều mà tự nhiên đã cấm đoán trong chính cấu trúc não bộ của chúng. Nhưng thường thì một chàng trai trẻ ít nhận ra điều có thể ảnh hưởng tới tương lai của cậu ta khi nhận lấy công việc đầu tiên. Khi tìm kiếm một việc làm, cậu ta nên cân nhắc thật cẩn thận rằng liệu nó có xu hướng tách cậu ta khỏi mọi thứ khác mà mình khao khát không, liệu nó có giúp cậu ta tiến lên trên con đường sự nghiệp thực sự của mình không, hay liệu cậu ta đang chôn chân ở một vị trí thấp kém, nơi có thể chẳng liên quan gì đến lựa chọn sống một cuộc đời tuyệt vời của cậu ta. Một cậu trai trẻ bình thường khi nhận được một công việc sẽ cứ thế làm tới hết đời, và thường thì lựa chọn công việc này được đưa ra một cách hoàn toàn ngẫu nhiên. Rất có thể, cậu ta ứng tuyển vào một vị trí chỉ với suy nghĩ muốn có một công việc để làm, mà không hề nghĩ rằng liệu mình có thực sự phù hợp với nó không, liệu mình có phải là cái vung sắp úp nhầm nồi hay không; nhưng sự thật là “gã đàn ông” về sau sẽ ở nguyên vị trí mà “thằng bé” lúc trước đã đặt ông ta vào. Tất nhiên, cũng có nhiều người thay đổi, nhưng có lẽ phần lớn mọi người vẫn sống với công việc mà mình bắt đầu từ thời trai trẻ. Không có thời điểm nào mà một người cần đến sự dẫn dắt khôn ngoan nhiều như thời điểm đưa ra lựa chọn liên quan đến cả cuộc đời này. Nó là lựa chọn quan trọng nhất, vì nó ảnh hưởng đến vận mệnh của một người. Toàn bộ tương lai của người đó thường đã được vẽ ra và quyết định từ trước khi người đó thực sự có cơ hội lựa chọn. Trước khi trở thành người đàn ông thì gã trai trẻ đã bị cuốn vào công việc đến mức chẳng muốn mất nó nữa. Cậu ta biết rằng những kinh nghiệm này giúp tích lũy sức mạnh và tạo đà tiến cực tốt nếu có thể duy trì, và dù cậu ta thường không cảm thấy lựa chọn lúc đầu là sáng suốt, nhưng nhiều khả năng cậu ta sẽ chẳng bao giờ thay đổi, và sẽ cứ bám chặt lấy nó. " Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất" Để một cậu trai bước ra đời chỉ với mục đích đơn giản là kiếm một công việc là một vấn đề nghiêm trọng. Dù cậu ta có thể hoàn toàn không phù hợp, nhưng tham vọng của cậu ta sẽ có ảnh hưởng và thị trường có thể cho phép cậu ta có được một khởi đầu tốt đẹp vốn rất dối trá, đặc biệt nếu mức lương tương đối tốt. Ngay cả khi cậu ta cảm nhận được rằng mình bị đặt sai chỗ thì phụ huynh của cậu ta có thể vẫn nói với cậu ta rằng việc nỗ lực biết bao lâu rồi lại vứt hết kinh nghiệm quý báu đi là rất ngu ngốc. Sau đó cậu ta có thể gắng gượng làm công việc tầm thường đó, công việc không hề phù hợp với khả năng của mình, khi mà cậu ta vốn đã có thể làm nên danh tiếng trong một mảng khác phù hợp với khả năng hơn. Thế giới đầy những kết hợp nồi tròn vung méo, những người đàn ông nhờ vào quá trình huấn luyện khắc nghiệt, ngành nghề vất vả, đã gò mình được một cách cực kỳ tốt, thế nhưng nỗi cực nhọc và ý nghĩ không thể làm điều mình được sinh ra để làm lại hoàn toàn phá hỏng cảm giác thỏa mãn của người đó, khiến anh ta cảm thấy ngay cả khi mình kiếm được kha khá để sống thì đời mình vẫn chẳng thích thú gì, và rằng khía cạnh củi-gạo-mắm-muối đó của công việc là khía cạnh nhỏ bé nhất, kém quan trọng nhất. Mối hấp dẫn nhận lấy công việc mà mình không phù hợp chỉ vì được trả lương cao hơn một chút so với việc khác lúc ban đầu, trên hết, chính là nguyên cớ gây ra nhiều kết hợp không vững chắc nhất. Một khi bạn đã vững chỗ thì sẽ rất khó đánh đổi nó để tìm công việc lớn lao hơn, rất khó để quyết định bắt đầu lại từ nấc thang dưới cùng và sẽ mất thêm nhiều năm học tập, rèn luyện. Nếu có thể hòa nhập với công việc chỉ sau ít ngày, hoặc ít tuần, bạn sẽ chẳng giữ được nó dài lâu đâu, bạn chẳng bao giờ biết được khi nào thì có người khác thế chân mình. Nhưng nếu phải mất đến vài năm chuẩn bị cho thứ gì đó cao xa hơn – cho thứ gì đó mà chỉ riêng bạn mới thực sự tương thích, và giữ mình không bị lầm lối, sẵn lòng trả giá cho quãng đường xa thì mối nguy bị thế chỗ của bạn sẽ nhỏ hơn nhiều. Gần đây thành phố New York thực hiện một cuộc điều tra về các cậu bé, cô bé rời khỏi trường học ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất: 14 tuổi. Trong số 25.000 trường hợp được điều tra, có 23.000 làm những công việc không đòi hỏi nhiều kỹ năng. Báo cáo cho biết: “Chúng tôi khám phá ra trong các công việc mà 10.857 cậu bé và 11.924 cô bé đã rời khỏi nhà trường ở độ tuổi hợp pháp nhỏ nhất đó được thuê làm, hơn chín phần mười là các công việc không đòi hỏi kỹ năng, chẳng hạn như chạy việc vặt, làm việc nhà, thư ký phụ trách các việc lặt vặt, thợ máy, tạp vụ, phụ việc, đóng gói, giao thư, bán báo, v.v..” Các con số của chúng tôi cho thấy cơ hội việc làm duy nhất của những người trẻ rời khỏi trường học trong tình trạng thiếu kiến thức chính là những ngành nghề không đòi hỏi kỹ năng. Tình trạng này thực sự tác động trở lại xã hội, bởi chính những chàng trai, cô gái này rồi sẽ trở thành tầng lớp ăn không ngồi rồi. Đừng bị che mắt bởi số tiền mà người ta kiếm được khi làm những công việc này. Hãy nhớ rằng sự nghiệp của bạn ảnh hưởng tới bạn nhiều hơn bất cứ thứ gì khác, và bạn sẽ không gánh nổi hệ quả của việc đi theo một con đường sự nghiệp vốn không thể giúp bạn phát triển và lớn mạnh. Hãy xem những con người đã lựa chọn kiểu sự nghiệp như thế. Hãy xem những gì mà công việc đem đến cho họ. Vị trí của họ trong xã hội so với những người làm các công việc khác là gì? Họ có được kính trọng, tôn vinh không? Liệu đó có phải là công việc mà anh ta có thể tự hào, điều mà con cái của anh/cô ta sẽ tự hào khi lớn lên? Rất nhiều người trẻ cố tình bó buộc và làm hỏng sự nghiệp của mình, và gần như tự giết mình trong suốt nhiều năm đời họ bằng việc làm các công việc vốn sẽ bức bách và bóp nghẹt đời họ. Điều kiện làm việc của nhiều công việc rất nguy hại cho sức khỏe và việc phát triển bản thân. Sức khỏe tốt, môi trường và điều kiện sống lành mạnh quan trọng với bạn hơn tiền bạc, bạn không nên dấn thân vào việc gây nguy hại cho tinh thần của mình hay tổn hại tới phẩm cách, tác động xấu đến vị thế của bạn. Công việc của bạn không nên là một chướng ngại. Nó nên là nguồn kích thích không ngừng, là sự khích lệ, là động lực hướng tới cuộc sống rộng lớn, vĩ đại mà vì nó bạn được sinh ra. Mời các bạn đón đọc Người Chọn Nghề Hay Nghề Chọn Người của tác giả Orison Swett Marden.
Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0
Trong cơn bão công nghệ, dường như mọi phụ huynh đều mong muốn con em mình theo đuổi các ngành học “hái ra tiền” như khoa học máy tính, công nghệ thông tin, lập trình, cơ khí chế tạo... Nhưng liệu các khóa học chuẩn chuyên ngành công nghệ có là con đường thành công duy nhất? Liệu có khả thi khi cho rằng hệ thống giáo dục khai phóng (liberal arts), với phong cách cung cấp tri thức tự do, tổng quát và tập trung vào những kiến thức xã hội vẫn có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cho kỷ nguyên 4.0? Trong tác phẩm “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0”, Randall Stross cung cấp cho độc giả một hướng tư duy mới lạ trong việc lựa chọn phong cách học tập và phát triển. Từ trước đến nay, các chuyên ngành giáo dục khai phóng thường bị đánh giá là “thiếu thực tế”, “thiếu kỹ năng”, không cung cấp đủ tri thức để học viên theo đuổi một nghề nghiệp cụ thể. Nhưng định kiến này không chính xác. Khác với kiểu giáo dục định hướng nghề nghiệp cụ thể, nền giáo dục khai phóng hướng tới trang bị cho sinh viên những kiến thức và kỹ năng thỏa mãn mọi ngành nghề. Thực tế đã cho thấy nền giáo dục khai phóng đem tới lợi ích cho các sinh viên theo đuổi chuyên ngành phi công nghệ, cho những bậc phụ huynh lo lắng, và cho cả những nhà tuyển dụng hàng đầu. “Hướng nghiệp trong thời đại 4.0” chứng minh rằng mọi sinh viên đều có thể phát triển tối đa tiềm năng và phát triển mạnh mẽ nếu được trao cơ hội, bất kể họ có theo đuổi một chuyên ngành “cao cấp” hay không. Qua những trải nghiệm thực tế của các sinh viên ngành nhân văn, nhất là công cuộc tìm kiếm việc làm và kinh nghiệm làm việc những ngày đầu của họ, cuốn sách đem tới những minh chứng sống động về sự đa tài của sinh viên được đào tạo theo giáo dục khai phóng. Giữa cuộc cách mạng về việc làm và nhân sự, với sự ra đời của hàng loạt phương pháp hướng nghiệp, làm thế nào để trang bị cho sinh viên kiến thức và kỹ năng đầy đủ nhất để họ bước vào tương lai một cách chuyên nghiệp và bản lĩnh? Tác phẩm độc đáo của Randall Stross sẽ trả lời câu hỏi này, và truyền cảm hứng để bạn có thể tối ưu hóa những tháng năm đại học hết sức ý nghĩa của mình. *** Review Nguyễn Phú Hoàng Nam: Sau nhiều năm học tập, thì nghề nghiệp là kết luận quan trọng nhất trả lời cho câu hỏi bạn đã học được gì. Việc làm không chỉ để nuôi sống bạn mà còn mang đến cho bạn cuộc sống chủ động với các mối quan hệ thân thiện xung quanh. Mặc dù “biết phải làm gì” nhưng không phải ai trong chúng ta cũng “biết làm thế nào”. Nếu đang mông lung trong suy nghĩ ấy, mời bạn tham khảo cuốn sách Hướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 (A Practical Education: Why Liberal Arts Majors Make Great Empoyees – Hoàng Thiện dịch) của tác giả Randall Stross. Lưu ý trước khi đọc sách Sinh viên Đại học Stanford là nhóm người may mắn nhất. Họ được nhận vào trường đại học có tỷ lệ chọi cao nhất cả nước và tọa lạc ngay trong khuôn viên Edenic, không nơi nào gần với Thung lũng Silicon hơn được nữa. Sinh viên Stanford có vẻ luôn xác định được rõ ràng công việc của mình sau khi tốt nghiệp, mà không cần lo lắng về chuyện tương lai. Những sinh viên được săn tìm nhiều nhất đến từ các chuyên ngành kỹ thuật – những ngành thăng hạng đáng kể trong nhiều thập kỷ vừa qua. Nhưng cuốn sách này đề cập đến những sinh viên không chọn ngành kỹ thuật, mà chọn những ngành không dẫn tới nghề nghiệp cố định khác chỉ vì niềm đam mê học tập. Tôi nhận thấy mình nên có trách nhiệm trích dẫn lại nội dung đầu tiên này trong cuốn sách, bởi nó sẽ giúp độc giả tìm hiểu được thông điệp thực sự trong sách là gì (do phần lớn dung lượng sách đề cập đến các giai đoạn lịch sử hình thành khác nhau của trường đại học Stanford và các câu chuyện sau khi tốt nghiệp của sinh viên nơi đây). Tuy không trực tiếp nói đến “Hướng nghiệp”, và tên của cuốn sách theo nguyên tác tiếng anh thực sự cũng không bàn đến vấn đề hướng nghiệp nhưng hành trình tìm kiếm việc làm theo nguyện vọng bản thân của các sinh viên Stanford, với đủ cả cay đắng lẫn ngọt ngào, cũng có ý nghĩa nhất định trong việc giúp bạn đọc tự khám phá định hướng tương lai nghề nghiệp của chính mình. Ở một khía cạnh khác trong sách, thuật ngữ “Giáo dục khai phóng” cũng được sử dụng thường xuyên tuy nhiên lại không kèm theo giải thích rõ ràng, để sử dụng sách tốt hơn, bạn nên dành thêm thời gian để tham khảo từ các nguồn thông tin khác về hoạt động giáo dục khai phóng.   Ước mơ trên nền ước mơ Chức năng của trường đại học không chỉ là dạy cách kiếm sống. Trên tất cả, đại học là cơ quan điều chỉnh cuộc sống thực và kiến thức sống đang ngày càng tăng, một sự điều chỉnh hình thành nên bí mật của nền văn minh. Trường đại học thực sự sẽ có một mục tiêu muôn đời: Không phải để kiếm miếng ăn, mà để biết kết thúc và mục tiêu của cuộc sống mà miếng ăn đó nuôi dưỡng là gì. Một ngôi trường thật hoành tráng là khởi đầu hoàn hảo cho tương lai hoàn hảo. Không có gì sai khi bạn đưa ra lựa chọn như vậy, bạn bè và cha mẹ của bạn cũng nghĩ như vậy. Sau khi học xong (hoặc trong lúc đang học) một công việc xuất hiện rồi mọi thứ được sắp xếp đâu vào đó. Coi như hoàn thành sự nghiệp, cuộc sống giờ là tháng ngày ổn định thênh thang. Mọi thứ đều đúng và đủ. Chỉ duy nhất có bạn là thừa. Vì rõ ràng nếu không thể biết được lý do tại sao mình theo đuổi một chuyên ngành nào đó hay tại sao mình lại lựa chọn công việc này thay vì công việc khác thì bạn đâu có liên quan đến thứ bạn đang học cũng như bạn đang làm ? Bạn không thực sự tồn tại trong quy trình ấy, vậy nên dù có nghề nghiệp thì bạn vẫn không có sự nghiệp. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng tâm thế một người bị buộc phải làm công việc anh ta không thích. Đó là lý do tại sao cần hướng nghiệp. Hướng nghiệp cần được thực hiện từ ngày bạn bắt đầu đến trường (đơn giản có thể bằng cách phát huy sở thích, thế mạnh cá nhân). Thế nhưng hướng nghiệp lại xuất hiện khá muộn, vào đúng lúc bạn quá bận rộn với các kì thi, áp lực kiếm sống và bị so sánh với bạn học. Mọi quyết định nghề nghiệp đến nhanh rồi ra đi chóng vánh. Chưa kể quang thời gian đằng đẵng mơ hồ về công việc của bản thân mình.   Hãy bắt đầu từ lựa chọn đúng công việc bạn muốn làm hoặc đi theo lĩnh vực có hứng thú- thay vì chọn ngành học nào đó chỉ vì tên của nó có liên quan đến mức thu nhập, để đến khi tốt nghiệp mới bắt đầu ngắm bức ảnh kỷ yếu rồi tự hỏi “Tiếp theo là gì đây ?”. Việc chọn ngôi trường phù hợp là yếu tố rất quan trọng khi bạn hướng nghiệp. Cụ thể là ngành học bạn mong muốn có chất lượng đào tạo ra sao, cùng đội ngũ tham gia giảng dạy là những giáo viên thế nào. Đừng chú ý đến “có việc làm hay không”, ngay ở giai đoạn này bạn cần kịp thời nhận ra thứ bạn học được không chỉ nằm ở trong tấm bằng, điểm số mà còn ở cả biểu hiện của bạn-  lý do khiến nhà tuyển dụng chọn bạn. Thường thì bề dày thành tích, lịch sử đào tạo và tên gọi của một cơ sở hoành tráng đôi khi sẽ khiến bạn lạc hướng. Nếu đã từng nghe câu nói: “Đừng đánh giá cuốn sách qua bìa của nó” thì bạn sẽ hiểu thấu việc chọn trường cũng tương tự. Những thứ tưởng chừng rất đẹp đẽ ở bề nổi ấy sẽ chẳng liên quan gì đến lựa chọn về tương lai nghề nghiệp của bạn sau khi bạn học xong- dù cho có thể đem đến cho bạn vài lợi thế về hồ sơ trước nhà tuyển dụng cho đến lúc họ trực tiếp gặp gỡ bạn. Một trường học phù hợp với bạn chính xác mới là khởi đầu đúng đắn, thay vì một trường học danh tiếng. Nơi mà bạn có cơ hội phát huy thế mạnh của bản thân, theo đuổi đam mê và rồi cuối cùng lựa chọn công việc hoàn toàn do bạn quyết định mà không chịu bất kì ảnh hưởng nào bên ngoài. Thực ra, sự trì hoãn của con người rất mạnh, chỉ đến lúc được làm việc mình thích thì bản thân mới thực sự nỗ lực học hỏi và những nỗ lực học hỏi (chấp nhận đối mặt với sai lầm) ấy khởi động những dự định tốt đẹp hơn cùng với định hình con người bạn. Nguyên tắc trong định hướng nghề nghiệp là phải có bản lĩnh, dám thất bại, dám học hỏi và lại tiếp tục cho đến khi tìm thấy điều bạn muốn gắn bó lâu dài. Công chúng cần nhận ra một điều quan trọng rằng, giáo viên, chứ không phải tòa nhà, mới là yếu tố tạo nên một đại học tuyệt vời. Khi mà ước mơ của bạn được xây dựng dựa trên nền ước mơ của một ai đó khác thì bạn vẫn là kẻ mộng du: Làm việc trong tình trạng không cảm xúc, không ý thức và không khát vọng.  Ranh giới kì lạ Vào những năm 1890 và đầu những năm 1900, sinh viên Stanford chọn chuyên ngành Tiếng Anh, lịch sử, triết học, ngôn ngữ và các lĩnh vực khoa học nhân văn khác đã bị coi là không được chuẩn bị tốt cho thế kỷ 20. Sự khác biệt giữa quá khứ và hiện nay chính là, sự sụt giảm lòng tin vào nghệ thuật khai phóng, đặc biệt là khoa học nhân văn, thứ đã bị bào mòn bởi sự trỗi dậy mạnh mẽ của khoa học máy tính Câu chuyện trên không còn là của riêng đại học Stanford nữa mà đang xảy ra ngay lúc này xung quanh chúng ta. Hãy thử nhớ lại thời mà bạn lựa chọn thi khối A và khối C khi vào Đại học thì các bậc phụ huynh và người thân xung quanh bạn đã có biểu hiện ra sao. Khối A thường được hiểu là thứ gì đó thiết thực, mang đến thu nhập lấp lánh còn khối C được coi như khối gì đó rất mơ mộng và thu nhập thì le lói. Cách nghĩ ấy tạo ra nhiều sinh viên thuộc khối khoa học kỹ thuật hơn là khoa học nhân văn. Sự phân biệt hai ngành học này dẫn đến phân biệt về nghề nghiệp và tương lai. Theo kiểu một bên thì tốt và một bên thì không tốt, nghề này có thu nhập cao còn nghề kia không, tương lai này thì sáng sủa còn tương lai kia thì không sáng sủa. Hệ quả là chẳng ai còn thực sự quan tâm đến hướng nghiệp nữa mà thay vào đó chạy theo số đông ào ạt. Về hình thức, đó là hướng nghiệp theo cơ chế thị trường nhưng về bản chất, đó không phải là hướng nghiệp thực sự (vì chẳng thị trường nào cam đoan nó sẽ ổn định vĩnh viễn với các nhu cầu bất biến). Đơn giản nó chỉ là ảo ảnh về ốc đảo giữa sa mạc đối với người khách bộ hành mất phương hướng. Khoa học kỹ thuật chú trọng đến việc tạo ra các giá trị cụ thể còn khoa học nhân văn thì chú trọng đến việc tạo ra một con người tử tế. Và con người tử tế thì có thể học được bất cứ điều gì (họ có cơ hội được dạy bảo nhiều hơn). Như vậy, ngành nhân văn tạo ra những con người có thể thích ứng và học hỏi. Trên thực tế, phẩm chất ứng viên mới chính là điều mà các nhà tuyển dụng luôn cần đến. Nếu ai đó đột nhiên nói rằng: “Vớ vẩn ! tôi khẳng định với tấm bằng tốt nghiệp loại ưu ở một trường danh tiếng, tôi sẽ ung dung đi làm ngay mà không cần học thêm gì cả” thì tôi sẽ cười cho qua chuyện (bạn thấy đấy, phản ứng đó là lý do khiến họ mất đi cơ hội học hỏi). Tính chính xác tuyệt đối trong kỹ thuật tạo nên tư duy luôn đúng và thích kiểm soát nhiều hơn. Họ sẽ phát huy rất tốt nếu được làm các công việc thuộc đúng chuyên môn của mình, thế nhưng để nhận được công việc đó, họ cần phải học cách để được tuyển dụng và chấp nhận sẽ được đào tạo lại, nếu cần thiết. Nhìn chung hướng nghiệp sẽ trở nên vô nghĩa nếu bị chi phối bởi suy nghĩ liên quan đến thu nhập từ quá sớm. Tương tự, việc đặt ra ranh giới khác biệt giữa các ngành khoa học kỹ thuật và khoa học nhân văn, hoặc đề cao bên nào quá mức cũng là một lý do khiến việc hướng nghiệp trở nên rối rắm hơn. Trong khi người trực tiếp có trách nhiệm hướng nghiệp là chính bản thân các bạn sinh viên tỏ ra hờ hững hoặc chỉ đến lúc tốt nghiệp mới quan tâm xem mình sẽ làm gì, thì hàng ngày, hàng giờ có vô số thông tin khích lệ các bạn đi theo việc này hoặc việc kia. Mong các bạn lưu ý, chọn nghề nghiệp không giống với mua hàng trên mạng: mua thứ gì đó chỉ vì tần suất quảng cáo, giá thành và sự thuận tiện. Hãy chấp nhận thử thách, luôn sẵn sàng học hỏi và đừng phớt lờ nghề nghiệp bản thân mình muốn gắn bó, dù cho mọi khởi đầu luôn rất khó khăn.  Joshua Landy, giáo sư tiếng Pháp và văn chương so sánh trong bài giảng đã nói” “ Tôi muốn gửi tới các bạn một lời khuyên từ tận đáy lòng: Đừng theo chuyên ngành kinh tế. Hãy theo chuyên ngành kinh tế nếu bạn yêu kinh tế. Nhưng đừng học chuyên ngành kinh tế nếu đó là bởi cha mẹ bạn bảo bạn như vậy hay bạn nghĩ mình sẽ không thể có được công việc tốt nếu thiếu nó. Do đó tôi đề nghị rằng, các bạn hãy học ngành mà các bạn thực sự quan tâm, bao gồm cả kinh tế. Nếu bạn theo chuyên ngành khoa học nhân văn, thì có một câu mà mọi người luôn hỏi bạn, Bạn sẽ làm gì với nó ? Và ý họ muốn hỏi là, bạn sẽ kiếm tiền bằng cách nào ?” Landy thừa nhận rằng đây là “một câu hỏi khá sâu sắc”. Nhưng ông nói rằng, ông muốn hỏi những sinh viên không theo chuyên ngành khoa học nhân văn một câu: “Khi bạn kiếm được tiền, bạn sẽ làm gì với nó ?...Bạn sẽ tiêu nó thế nào ? Đâu sẽ là cách tốt nhất để làm cho bản thân bạn hạnh phúc và viên mãn ?”    Những cuộc phiêu lưu không định trước của những sinh viên đến từ Stanford như Michael Crandell (học chuyên ngành tôn giáo, gây dựng sự nghiệp trong ngành công nghiệp phần mềm); Stephen Hayes (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực nhân sự); Jennife Ockelmann (chuyên ngành lịch sử, gây dựng sự nghiệp trong lĩnh vực marketing) v.v…là ví dụ tham khảo hữu ích cho thấy việc bạn làm gì không quan trọng bằng việc bạn có thực sự muốn làm nó hay không. Thay cho lời kết Hướng nghiệp là một sự nghiệp cao cả. Khi bạn hiểu biết chính xác bản thân muốn gì và có đủ can đảm theo đuổi nó thì bạn xứng đáng trở thành người hướng nghiệp tốt nhất cho chính mình. Thử thách bản thân ở nhiều lĩnh vực khác nhau là phương pháp hữu hiệu để giúp bạn tìm ra một vị trí phù hợp cho cả hiện tại và tương lai. Sự nỗ lực học hỏi luôn là điều kiện tiên quyết để có thể khám phá ra thế mạnh của bản thân và không ai đưa đến ngay cho bạn công việc thực sự phù hợp nếu bạn không chủ động lên đường tìm kiếm nó. Bài học về hướng nghiệp khiến tôi nhớ đến tác phẩm Ông già và biển cả của tiểu thuyết gia Ernest Hermingway. Năm đó, chính vào những tháng hè oi ả của kì thi, cô giáo dạy văn cấp 3 đã nhắc đi nhắc lại câu nói nổi tiếng: “Hãy cố thêm lần nữa” trích trong tác phẩm, để khích lệ chúng tôi. Đến bây giờ,  dù bạn đang còn đang đi học, chuẩn bị tốt nghiệp hoặc đã tốt nghiệp mà vẫn chưa có việc làm, tôi mong muốn được dành tặng lại bạn sự khích lệ ấy. Sách Hướng nghiệp trong thời đại 4.0 là tập hợp những mẩu chuyện có tính nhân văn và nên được đọc trước khi bạn quyết định đưa ra lựa chọn về nghề nghiệp trong tương lai. Mời các bạn đón đọcHướng Nghiệp Trong Thời Đại 4.0 của tác giả Randall Stross.
Đột Phá - Hành Trình Thay Đổi Thế Giới Của Một Thần Đồng Khoa Học
Sau khi một người thân ra đi vì bệnh ung thư tuyến tụy, cậu bé Jack dồn quyết tâm tìm ra phương pháp tầm soát căn bệnh này. Từ vốn hiểu biết là con số 0 tròn trĩnh, Jack đã miệt mài học hỏi từ những “người thầy” đầu tiên là Google và Wikipedia. 200 lá thư đã được cậu gửi đi để xin mượn phòng thí nghiệm và chỉ có duy nhất một lá thư đồng ý. Cuối cùng, ở tuổi 15, cậu bé Jack đã gây chấn động ngành y học toàn cầu với phương pháp xét nghiệm ung thư sớm chỉ tốn chưa đến 1.000 VND, nhanh hơn 168 lần, nhạy hơn 400 lần phương pháp cũ. Câu chuyện của Jack không chỉ là thành tựu chói ngời mang tầm quốc tế, đó còn là câu chuyện truyền cảm hứng về nghị lực vượt qua trầm cảm, sự kỳ thị với người đồng tính. Câu chuyện của cậu truyền cảm hứng đến những người trẻ dám quyết tâm và cách tân, dám theo đuổi đến cùng giấc mơ đổi thay thế giới. Và trên hết, mọi thay đổi đều bắt nguồn từ nỗ lực đến cùng của mỗi người. *** BỐ MẸ NGỒI TRÊN CHIẾC GHẾ BÀNH trước mặt tôi, mặt buồn rười rượi. “Jack, con nghĩ ý tưởng này hơi bất bình thường không?” Một lần nữa, ánh nhìn âu lo lại hiện lên trên gương mặt bố tôi. Hai hàng lông mày của ông chau lại, tay chống dưới cằm. Mẹ ngồi cạnh bố. Bà khoanh tay trước ngực, chăm chú nhìn thẳng vào tôi. Bố mẹ vừa buộc phải ngồi xem lại tình hình sau cuộc gọi từ tư vấn viên học đường của tôi. Tôi mới biết tư vấn viên học đường thường sẽ gọi về nhà khi học sinh cố gắng tự sát trong nhà tắm. “Jack, bố mẹ thực sự không muốn con đau đớn hay tổn thương.” Mẹ nói. Bà nghĩ rằng tôi không thể chịu được áp lực. “Con đã rất cố gắng. Có lẽ đã đến lúc thay đổi, hoặc hướng đến một mục tiêu khác.” Mẹ tiếp lời. Một mục tiêu khác? Nghĩa là bỏ cuộc ư? Tôi đã bỏ bộn thời gian và chiến đấu ngoan cường. Và tôi… sắp… làm được rồi. Rõ ràng, tất cả những điều này là quá sức chịu đựng với bố mẹ tôi. Tôi đọc được điều đó trong ánh mắt và cử chỉ của họ. Họ cảm thấy bắt buộc phải nhắc nhở tôi nhìn vào thực tế. Nhưng tôi lại cảm thấy bắt buộc phải lờ đi. Tôi thực ra đã không còn lắng nghe được gì nữa. Tôi thờ thẫn cả người. Tôi gần như đoán trước được bố mẹ sắp nói gì, bởi đã nghe đi nghe lại những cuộc tranh luận ấy hàng nghìn lần trong chính đầu mình. Các cuộc tranh luận ấy thường đặt ra những vấn đề kiểu như thế này: Mình nghĩ mình là ai cơ chứ? Mình tưởng mình biết nhiều hơn tất cả những chuyên gia, tiến sĩ khoa học đó ư? Mình nghĩ ý tưởng của mình sẽ thành công ư? “Jack, dù con có tin vào ý tưởng của mình nhiều thế nào đi chăng nữa, thì tất cả chúng ta đều biết nó không thể thành hiện thực vì chẳng ai đồng ý cho con thử nghiệm trong một phòng thí nghiệm thực sự.” Tôi thấy kiệt sức. Tôi không thể nhớ nổi lần cuối mình được ngủ ngon là khi nào. Ròng rã nhiều tháng, tôi chẳng duy trì được bất cứ thứ gì, ngoại trừ hoóc-môn adrenalin hưng phấn. Tôi băn khoăn, khi mình sụp đổ, mọi thứ có phải cũng giống thế này chăng? “Con nghĩ rằng, nếu con tìm ra cách mới để phát hiện ung thư tuyến tụy, thì một trong những bác sĩ kia sẽ cho con cơ hội áp dụng ư?” Gần hai trăm nhà khoa học. Không một ai nghĩ rằng ý tưởng của tôi đủ độ tin cậy. Điều mà bố mẹ tôi không thể thấy, không ai có thể thấy, đó là, trong mường tượng của tôi, mọi thứ đã rất rõ ràng. Một giọt máu trên một que giấy thử. Đó là tất cả những gì cần thiết để xét nghiệm ung thư tuyến tụy. Quá đơn giản! Nếu đúng như dự đoán thì tôi đã ở rất gần một bước đột phá xét nghiệm tầm soát ung thư sớm, có thể cứu sống hàng triệu người. Dẫu vậy, sẽ chẳng nghĩa lý gì nếu tôi không đưa được nó vào phòng thí nghiệm. Bố mẹ quay sang nhìn nhau. Họ cuối cùng cũng đưa ra quyết định. Họ biết tôi cần sự hỗ trợ của họ đến mức nào. Không có họ, tôi sẽ chẳng thể chi trả cho nghiên cứu hay dụng cụ cần thiết. Sau rốt, vì mới mười bốn tuổi, tôi chẳng thể tự lái chiếc wagon của gia đình. Cuối cùng, mẹ tôi chốt lại: “Thôi được, cứ thế xem sao!” Đó không hẳn là một lời tán thành, nhưng vậy là đủ. Chú tôi vừa mới qua đời. Tôi phải đương đầu với bệnh trầm cảm và tệ bắt nạt suốt nhiều năm. Tôi chỉ còn biết bấu víu vào ý tưởng này. Và giờ đây, tôi không muốn bỏ cuộc. Nhất là khi tôi đã ở rất gần vạch đích. Thử nghiệm của tôi đã thành công. Tôi biết. Tôi chỉ cần chứng minh nó với phần còn lại của thế giới. Tôi chỉ cần một cơ hội. *** Lời tri ân Có rất nhiều người tuyệt vời mà tôi muốn cảm tạ, nếu không có sự giúp đỡ của họ thì có lẽ cuốn sách này sẽ không thể ra đời! Những người quản lý văn học của tôi, Sharlene Martin và Clelia Gore ở Viện Văn học và Quản lý truyền thông Martin, đã không chỉ thực hiện xuất sắc công việc đại diện cho tôi mà còn trở thành bạn của tôi. Cả hai đều quá “đỉnh”! Xin chân thành cảm ơn! Tôi đặc biệt biết ơn vì những món ăn tuyệt ngon mà hai người đã chiêu đãi khi chúng ta gặp gỡ ở thành phố New York. Xin gửi lời cảm ơn tới Matthew Lysiak, vì những đóng góp không ngừng nghỉ trong việc giúp đỡ tôi hoàn thành bản thảo này. Tôi kinh ngạc bởi tất cả mọi người ở Nhà xuất bản Harper Collins, những người đặt niềm tin rằng cuốn sách viết bởi một thằng nhóc khoa học điên khùng có thể truyền cảm hứng tới những người khác! Xin gửi lời cảm ơn tới các biên tập của tôi, Nansy Inteli và Olivia Swomley, những người đã xuất sắc định hướng cho cuốn sách và tạo đà cho tôi dấn thân sâu hơn. Hẳn cuốn sách này sẽ không tồn tại nếu không có sự ủng hộ của đội ngũ chuyên nghiệp truyền cảm hứng kỳ diệu ở Nhà xuất bản Harper Collins: Lisa Sharkey, Emily Brenner, Andera Pappaenheimer, Diane Naughton, Sandee Roson, Matthew Schweitzer, Julie Eckstein, Cindy Hamilton, Victor Hendrickson, Laura Raps và toàn bộ đội ngũ cố vấn pháp luật. Tôi muốn cảm ơn mẹ tôi, Jane Andraka và bố tôi, Steve Andraka vì đã không ám sát hay gửi tôi tới trại cải tạo sau mỗi lần tôi (suýt) đánh sập ngôi nhà hay để vi khuẩn lạ tứ tán trong bếp. Hai người là những ông bố bà mẹ tuyệt nhất trên đời. NHẤT TRÊN ĐỜI. Cảm ơn bố mẹ! Và trước khi anh ấy lên tầng, đấm vào mặt tôi, tốt hơn là tôi nên cảm ơn anh trai Luke của mình. Anh ấy thực chất là một chàng trai thú vị và là một trong số ít người đã hỗ trợ tôi khi tôi cần nhất. Luke, anh chính là một trong những người bạn tốt nhất của em đấy. Cảm ơn anh! Mời các bạn đón đọc Đột Phá- Hành Trình Thay Đổi Thế Giới Của Một Thần Đồng Khoa Học của tác giả Jack Andraka & Matthew Lysiak.