Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tôi Không Phải Phan Kim Liên

Thật thật – giả giả giữa cuộc đời! Đôi khi sự thật giả ấy khiến người ta quá mệt mỏi, không thể tin tưởng vào con người được nữa mà phải tin vào một… con bò. Đây là câu chuyện về chốn quan trường đầy rắc rối và về cuộc sống của một người phụ nữ thôn quê quật cường chỉ vì muốn chứng minh cuộc ly hôn của mình năm ấy là giả và mình không phải là Phan Kim Liên. Câu chuyện bắt đầu khi cô không cẩn thận có thai lần hai, nên giả ly hôn với chồng để tránh luật sinh đẻ có kế hoạch, nào ngờ sau khi ly hôn, người chồng thay lòng cưới vợ khác. Cô đến nói lý lẽ còn bị hắn ta chửi là Phan Kim Liên. Để chứng minh vụ ly hôn đó là giả, đồng thời càng muốn chứng minh mình không phải Phan Kim Liên, mà suốt hai chục năm cô đi kiện cáo. Kiện từ thị trấn lên huyện, rồi thành phố, thậm chí đến tận Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc tại Bắc Kinh, nhưng không những không thể làm rõ vụ ly hôn đó là giả, không thể thanh minh mình không phải Phan Kim Liên, còn khiến cho một loạt quan viên cấp cao bị cách chức. Từ đó suốt hai chục năm, mỗi lần tới Đại hội, tỉnh thành phố cô ở đều phải ngăn chặn, vây bắt, truy lùng cô, không để cô tiếp tục làm loạn một lần nữa… Giọng văn của tác giả tưng tửng, châm biếm sâu cay khiến người đọc vừa cảm nhận được sự thâm thúy, sắc sảo của ngòi bút, vừa phải bật cười với những tình huống rất thật trong truyện. *** Lưu Chấn Vân sinh tháng 5/1958, quê quán ở huyện Diên Tân, tỉnh Hà Nam. Hiện là ủy viên BCH Hội nhà văn TQ, ủy viên đoàn thanh niên thành phố BK, được xếp hạng nhà văn hàng đầu Trung Quốc. Ông sáng tác từ năm 1982. Một số tác phẩm được giải thưởng, được chuyển thể thành phim, được dịch ra nhiều thứ tiếng. Được đánh giá là nhà văn bậc thầy về ngôn ngữ, trí tuệ hóm hỉnh, phong cách độc đáo, giàu tính hài hước, đầy triết lý. Các tác phẩm tiêu biểu: - Tôi là Lưu Nhảy Vọt - Hoa vàng cố hương - Đóa hoa và mặt cố hương - Lưu Chấn Vân, tuyển tập văn Lưu Chấn Vân (4 tập) - Lời thừa - Đơn vị - Binh liên mới - Điện thoại di động - Lông gà khắp đất - Đời là như thế - Tôi không phải Phan Kim Liên - Tưởng nhớ 1942 *** Đọc tiểu thuyết này tôi liền nghĩ tới bộ phim Thu Cúc đi kiện, cũng một người đàn bà nông thôn vác đơn đi kiện khắp nơi không mỏi mệt không chùn bước chỉ vì muốn một lời xin lỗi của trưởng thôn vì đã đá chồng chị ta một cái vào chỗ hiểm. Còn ở đây là Lý Tuyết Liên, cũng vác đơn đi kiện làm náo động cả thị trấn, tới thành phố, tới tỉnh rồi tới tận Bắc Kinh. Lý Tuyết Liên kiện chồng, rồi kiện hết thảy những người liên quan đến vụ việc ấy từ các vị quan tòa thị trấn, các lãnh đạo thành phố, tỉnh… làm mọi thứ rối bung bét cả lên. Cuối cùng chỉ muốn là rõ một điều rằng lần ấy li hôn là giả và quan trọng hơn là để cho chồng của chị ta biết “tôi không phải Phan Kim Liên”.          Mọi chuyện nói đơn giản thì là đơn giản, nói phức tạp thì là phức tạp, nhưng cuối cùng bao nhiêu năm không giải quyết được, định giày vò người khác ai dè lại thành giày vò chính bản thân mình. Câu chuyện bắt đầu khi Lý Tuyết Liên phải giả li hôn với chồng khi mang bầu đứa con thứ hai, nào ngờ trong thời gian ấy chồng cô đã kịp lấy một người vợ khác. Thế là Lý Tuyết Liên liền đến để nói phải trái đúng sai, vốn định nói cho hả giận rồi bắt chồng li hôn với người đàn bà kia nhưng lại bị chồng bồi cho một câu đau đớn. Tần Ngọc Hà, chồng của Lý Tuyết Liên nói: Rồi lại bồi thêm: “Cô có phải Lý Tuyết Liên không nhỉ. Tôi thấy cô đích thị là Phan Kim Liên mới phải?” Lý Tuyết Liên tức lồng lộn lên cuối cùng chỉ vì câu nói này. “Thật giả không quan trọng! Quan trọng là Tôi không phải Phan Kim Liên!”, Lý Tuyết Liên như gào lên với Tần Ngọc Hà như vậy. Với ngòi bút sắc sảo và châm biếm, Lưu Chấn Vân đã dựng lên một câu chuyện chân thật và sinh động. Mọi thứ xoay quanh một người đàn bà có thể nói là rất cố chấp, cả một bộ máy chính quyền cuống cuồng tìm cách đối phó mỗi khi đến kì đại hội, chỉ sợ Lý Tuyết Liên lại lẻn được vào Đại lễ đường thì mọi việc hỏng hết. Trong hai mươi năm ấy đã nghĩ ra bao nhiêu cách để ngăn chặn Lý Tuyết Liên, từ cho người canh chừng, theo dõi, chặn xe dọc đường, đến cả cách tìm cho cô ta một người chồng… Nhưng tất cả đều xôi hỏng bỏng không, kiện vẫn hoàn kiện. Lý Tuyết Liên không bỏ cuộc, không phải không mệt mỏi, không phải không có lúc chán nản, nhưng chính sự cản trở của họ bắt Lý Tuyết Liên kiện tiếp. Kiện không được cũng phải kiện, đi không được cũng phải đi. Cảm giác của Lý Tuyết Liên chính là cảm giác oan ức, cảm giác người ta không tin mình, chuyện li hôn năm ấy là chuyện giả mà họ cứ coi là thật. Bên cạnh đó Lý Tuyết Liên còn cảm thấy mình bị lừa, bị chồng là Tần Ngọc Hà lừa, bị những người trong chính quyền địa phương lừa. Họ dùng lời ngon ngọt dụ dỗ chỉ cốt để cô không đi kiện làm ảnh hưởng tới cái ghế của họ chứ họ đâu có tin, đâu cáo đồng cảm với cô. Bao nhiêu chuyện bi hài, nhiều lúc khiến chúng ta phải bật cười, nhưng đằng sau đó chứa đựng một câu hỏi có phần đau đớn. Rút cục thì kiện cáo bao nhiêu năm để làm gì? Có nên vì một chuyện không thể làm lại mà phá hỏng cả tương lai phía trước không?. Liệu Lý Tuyết Liên cố chấp hay chồng cũ của cô ta cố chấp, chỉ nói một lời xin lỗi là mọi chuyện đều có thể cho qua sao không nói?…           Thật thật giả giả quay đi quay lại đã hết đời người, đi kiện là muốn phá cuộc sống của chồng nhưng cuối cùng lại thành hủy hoại cuộc sống của chính bản thân mình. Trong khi đó Tần Ngọc Hà, cái gã đã bắt đầu câu chuyện này dường như là người ngoài cuộc chẳng ảnh hưởng gì bởi sự kiện cáo ấy.           Hai mươi năm trôi qua trong chớp mắt, cuối cùng thì Tần Ngọc Hà chết, không còn ai để khiếu kiện nữa, lúc này Lý Tuyết Liên cảm thấy trống rỗng, cô bật khóc, không phải khóc Tần Ngọc Hà mà khóc chính bản thân mình.           Lý Tuyết Liên cả đời đi kiện, tự giày vò bản thân, tự làm cho mình đau khổ, cuối cùng tất cả những điều ấy có đáng hay không? Không ai có thể trả lời được câu hỏi ấy. Cuộc đời này giữa thật và giả, trắng và đen không phải lúc nào cũng có thể nói cho rõ ràng được. Đọc xong câu chuyện tôi cảm thấy Lý Tuyết Liên đã quá cố chấp, nhưng nếu không có một người đàn bà cố chấp như vậy thì đã không có câu chuyện này. Trần Huệ Lương Review   Mời các bạn đón đọc Tôi Không Phải Phan Kim Liên của tác giả Lưu Chấn Vân.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

A
“A.” - Một câu chuyện tình... Hẳn là như vậy, bởi theo tác giả Kira Tenisheva, cuốn sách này chính là “câu chuyện về tình yêu, trong hình dung của tôi…” nhưng tại sao lại là “trong hình dung của tôi” – một lời nói mang tính nước đôi như vậy? Đây có lẽ là một “bí mật” khác mà cuốn sách dành riêng cho từng người đọc (!). Còn bây giờ xin mời bạn trở lại câu chuyện của “A.”. Cuốn sách nhỏ nhắn với số trang rất khiêm tốn, chỉ lấy duy nhất một chữ “A.” làm tựa, có lẽ cũng khơi dậy trong bạn đọc một chút ham muốn được khám phá. “A.” hoàn toàn không phải là một cuốn sách dễ đọc, nó “đánh đố” chúng ta ngay từ cái tựa. “A.” là ai? Là “chiếc khăn tay từ lâu đã phai mùi nước hoa của em có chữ “A.” thêu nổi ở góc? Hay “A.” chính là tên gọi của nữ thần sắc đẹp và tình yêu trong thần thoại Hy Lạp: Aphorodite? Cũng có thể “A.” chính là cô gái hoang dã Amazon?… Hình như đấy không phải là một con người cụ thể mà là biểu tượng của tình yêu đẹp mà chàng trai đi tìm. Một chuyến đi mãi mãi, bỏ lại sau lưng thành phố quen thuộc, địa vị và sự nổi danh nhất định. Chàng trai đi tìm ánh rực rỡ của tình yêu ở quảng trường, trên bãi biển, trên những con đường lộng gió. Chàng mãi đi tìm người ấy, cho dù người ấy đã già hoặc chết đi trong một làng ở vùng miền núi Alpes hẻo lánh, thậm chí đấy là một con người chưa bao giờ tồn tại (!)… Nếu so với những cuốn tiểu thuyết Trung Quốc đang “làm mưa, làm gió” trên thị trường sách Việt Nam hiện nay, có lẽ “A.” không phải là cuốn sách được ưa chuộng, bởi nó không có những “chuyện ầm ĩ” để bàn, để tán. “A.” là câu chuyện phi thời gian, vượt thoát không gian cụ thể; đấy cũng chẳng phải là câu chuyện của quá khứ hay tương lai. Song, nếu nói rằng “A.” là câu chuyện thời hiện tại thì cũng không phải. Tóm lại, điều mà “A.” muốn đề cập chính là sự vĩnh hằng với những mẫu sống, tình yêu huyền thoại luôn lưu chuyển âm thầm trong vũ trụ. Những nhân vật gần như không có thật, những cảnh trí không có trong đời thường, những thành phố vĩ đại nhưng không có tên, được đánh dấu bằng các chữ cái… Và, có một chút gì đó của văn học hậu hiện đại, khi tên của các nhân vật nổi tiếng, những niên đại, các biểu tượng… được “cài đặt” đây đó trong tác phẩm, bắt buộc người đọc phải vận dụng “trí học” của mình. Tuy nhiên, nếu bạn không phải là người “chịu khó” thì cũng không sao bởi “A.” là một câu chuyện tình yêu giản dị! Hãy dành vài giờ nhẹ nhõm, tạm quên những vấn đề của bản thân để dành cho cuốn sách này – đấy là lời gợi ý mà Kira Tenisheva gửi đến bạn đọc Việt Nam. Tôi đã làm theo cách ấy và tôi đã có được sự nhẹ nhõm kéo dài, để hiểu thêm những vấn đề của bản thân mình cùng cuộc sống mà mình đang tham dự… “A.” – tác giả: KIRA TENISHEVA; bản dịch: KIỀU VÂN, NXB HỘI NHÀ VĂN – TRUNG TÂM VĂN HÓA – NGÔN NGỮ ĐÔNG TÂY ấn hành năm 2005. TRẦN NHÃ THỤY *** Lời tác giả Gửi bạn đọc Việt Nam ! Một lần cầm bút lên, tôi hiểu mình không muốn viết về những chuyện đang xảy ra hàng ngày. Khi xung quanh có quá nhiều vấn đề, khi trên các trang sách vẫn là những máu me, nhơ nhớp, bạo lực, là sự vô liêm sỉ và tăm tối như những gì vẫn phô bày ra trên màn ảnh truyền hình, có cảm giác chỉ muốn bứt mình khỏi cái vòng đó và dù không lâu, được thoát ra ngoài thời gian và không gian này. Không phải quá khứ, cũng chẳng phải tương lai khiến tôi quan tâm, điều cuốn hút tôi là cái phi thời gian. Cái Vĩnh hằng. Ví dụ như tình yêu - điều đã luôn khiến cảm động và sẽ mãi làm cảm động nhân loại. Mà thực ra, đâu có gì đáng ngạc nhiên trong chuyện một phụ nữ quyết định viết về tình yêu? Nhưng việc viết cuốn sách này, một cách nghịch lý, đối với tôi hóa ra lại không là sự rời bỏ hiện thực, mà là tiếp cận nó từ một hướng khác. Không là sự lìa bỏ đời sống, mà hoàn toàn ngược lại, chính là sự quay về nơi đó xuyên qua một vùng huyền thoại vẫn còn lưu dấu trong mình nguyên mẫu của thế giới. Điều mô tả trong cuốn truyện không mấy gợi nhắc đến đời thường. Những cảnh trí quá rực rỡ, những nhân vật quá rực rỡ, có phần được cách điệu hóa, giống các nhân vật đeo mặt nạ trên sân khấu; họ không có tên và du hành qua những thành phố vĩ đại, nhưng không được gọi tên, chỉ được đánh dấu bằng các chữ cái như những ẩn số trong phương trình. Sự bí ẩn đó để làm gì ư? Đơn giản chỉ vì không gian diễn ra câu chuyện và không gian mà các nhân vật thuộc về không chỉ là châu Âu của thế kỷ 20, mà là một không gian ước lệ nào đó của cõi huyền thoại tình yêu. Mà trước tình yêu thì tất cả mọi người đều ngang nhau, và vô số những nhân vật vô danh của nó - những người khổng lồ hay nhỏ bé, những con người xinh đẹp hay quặt quẹo, quý tộc hoặc là thường dân - đời này sang đời khác, nhân danh tình yêu đang lặp lại cùng một những chiến công hay điều tội lỗi như nhau. Nhưng nếu như vậy, nếu chúng ta, những con người đã quần tụ lại bởi dù ta có là ai và ở đâu đi nữa, tất cả chúng ta đều yêu, đau khổ và hướng đến hạnh phúc, thì những tên người và địa danh ở đây đã chẳng còn có ý nghĩa quan trọng gì. Nói tóm lại, A là câu chuyện về tình yêu. Trong hình dung của tôi là vậy, nhưng bạn đọc hoàn toàn có thể nhìn thấy trong nó một điều gì đó không giống vậy. Còn về khuynh hướng văn chương, tôi cảm thấy thật khó xác định. Tôi không quy bản thân thuộc về một trào lưu văn học hiện đại nào cả, mà nếu cần bằng một cách nào đó làm sáng tỏ sự lựa chọn của tôi, thì tôi xin nói: điều quan trọng nhất đối với tôi là ngôn ngữ, phong cách, và với tư cách một người đọc tôi rất yêu sáng tác của các bậc thầy ngôn ngữ như Boris Pasternak và Vladimir Nabokov. Còn phải nói thêm điều gì nữa nhỉ? Tôi ước giá như có ai đó trong số các bạn sẽ dành ra vài giờ đồng hồ nhẹ nhõm để đọc cuốn sách này, tạm quên đi những vấn đề của bản thân. Và cùng với tôi thán phục vẻ đẹp của thế giới chúng ta đang sống. Tôi hạnh phúc với cuộc gặp gỡ này cùng bạn đọc Việt Nam và vui vì có dịp chúc cho dân tộc yêu lao động, dũng cảm và thiện tâm của các bạn được hạnh phúc và bình yên. Xin gửi tới các bạn lời chào thân ái! Kira Tenisheva Mời các bạn đón đọc A của tác giả Kira Tenisheva.
Dòng Sông Thơ Ấu
Hai Quang bị xã hội cũ đẩy vào tầng lớp lưu manh, làm dân anh chị ở bến xe rồi bị tù.Tuy nhiên bản chất là người lương thiện nên những hành động anh chị của Hai Quang đều có nét hào hiệp. Được cách mạng giác ngộ, anh trở thành một chiến sĩ kiên cường. Ông Tư Ghe vốn là học trò thầy giáo cách mạng Châu Văn Liêm, ông đã từng dẫn đầu các đoàn biểu tình và phanh ngực ra trước mũi giặc: “Cái ngực đồng của tau đây nè, bắn đi!”. Thế mà khi cách mạng thoái trào, anh em bị khủng bố thì ông theo Hòa Hảo, hãnh tiến và cuồng tín trong “sứ mệnh” truyền đạo của mình. Hai nhân vật chính của thiên tiểu thuyết, với những mâu thuẫn về quan điểm sống và chịu tác động của dòng đời đưa đẩy, là hai số phận điển hình trong thời Kháng chiến. Từ góc nhìn của nhân vật, tác giả đã khéo trình bày những sự kiện lịch sử và những đấu tranh trong lòng người thay đổi theo thời gian, như con sông khi trôi khi đục, chảy đi mang theo tất cả. "Bức tranh quê hương trong tiểu thuyết Dòng Sông Thơ Ấu sở dĩ sinh động vì đều là những hồi ức có thật. Tui theo kháng chiến 30 năm, mỗi khi nghe trên thế giới có dòng sông cạn thì tui lại nghĩ không biết dòng sông bên nhà mình ra sao. Dòng sông thời nhỏ của tui trải qua hai cuộc chiến tranh vẫn tràn trề sức sống. Ban đầu, tui viết dòng sông đó trong Đất lửa, Nguyễn Tuân chê "hiền quá". Sau ngày miền Nam giải phóng, tui đưa Nguyễn Tuân về ngồi nhậu trước nhà tui ngó ra dòng sông. Chỉ nghe loáng thoáng vài câu chuyện sông nước thôi, Nguyễn Tuân đã nhắc: 'Dòng sông là nguồn cảm hứng của văn chương Nam Bộ đấy, viết tiếp đi!' Năm 1980 tui viết những chữ mở đầu Dòng Sông Thơ Ấu..." - nhà văn Nguyễn Quang Sáng *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Thơ Ấu của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Mùa Gió Chướng
Tác phẩm Mùa Gió Chướng này được ông viết vào năm 1975. Cuốn sách mô tả tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống lại sự đàn áp, ý đồ dời dân lập ấp của kẻ địch. Cuộc đấu tranh đó đã trải qua nhiều gian nan, thử thách, biết bao hy sinh mất mát. Tiểu thuyết Mùa gió chướng đã từng được dịch sang tiếng Nga. Tác phẩm này cũng được đạo diễn Hồng Sến dựng thành phim. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Mùa Gió Chướng của tác giả Nguyễn Quang Sáng.
Cánh Đồng Hoang
Bối cảnh chính Cánh Đồng Hoang là vùng Đồng Tháp Mười trong những ngày diễn ra cuộc chiến tranh Việt Nam. Vợ chồng Ba Đô và đứa con nhỏ sống trong một căn chòi nhỏ giữa dòng nước. Họ được phía Cách mạng Việt Nam giao nhiệm vụ giữ đường dây liên lạc cho bộ đội. Tác giả tập trung khai thác nhiều vào cuộc sống thường ngày của đôi vợ chồng như việc trồng lúa, nuôi con, bắt trăn, bắt cá nhưng xen kẽ vào đó còn có những cảnh trực thăng của quân đội Mĩ quần thảo khu vực đồng nước này nhằm phát hiện đội du kích hoạt động. Khi Ba Đô bị trực thăng Mĩ bắn trúng, để trả thù cho chồng, vợ Ba Đô đã bắn cháy chiếc trực thăng. Cánh đồng hoang là một truyện vừa về đề tài Chiến tranh Việt Nam của Việt Nam. Không gian đề cập tới trong bộ phim chỉ vỏn vẹn trong chu vi của một cánh đồng hoang, nhưng lại khai thác cả không gian từ dưới nước (phía dưới mặt nước cánh đồng) đến tận trên không (nơi máy bay Mỹ đang quần thảo). Tác phẩm mang tính cô đọng, khái quát cao, tả rõ tội ác của đế quốc Mỹ và lột tả tình cảm gia đình, tình cha con, tình vợ chồng sâu sắc và thắm thiết, nói lên việc mặc dù chiến tranh khốc liệt và sự hiểm nguy hằng ngày rình rập vẫn không thể ngăn nổi sự hồn nhiên, yêu đời trong cuộc sống của người dân thường yêu nước. Xuyên suốt cuốn sách là sự giằng co chiến đấu về cả sắc thái tinh thần giữa hai bên, một bên là gia đình đầm ấm của Ba Đô, với cảnh vợ chồng âu yếm nhau và đứa con luôn được cho bú với một bên là cảnh gầm rú và bắn phá khốc liệt của máy bay được trang bị đầy súng đạn. Đó chính là hình ảnh thu nhỏ của nhân dân đất nước Việt Nam nghèo, nhỏ chống lại một thế lực lớn và giàu là đế quốc Mỹ. Với hai hình ảnh này, tác giả Nguyễn Quang Sáng đã chứng minh sinh động một nghịch lý vẫn được xem như là một bản sắc độc đáo và nổi bật trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam. *** "Trong sự nghiệp văn chương, Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn xuất sắc của Việt Nam. Các truyện ngắn của ông giản dị và dễ đi vào lòng người. Nó chứa đựng tất cả các yếu tố để làm nên vẻ đẹp cho một cậu chuyện: ngôn ngữ đối thoại, cách dựng truyện, lựa chọn nhân vật...Trong các tác phẩm ấy, ông kể câu chuyện xúc động, thật đến mực giống như không phải ông đang viết văn mà là kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của chính cuộc đời của ông vậy" (Nguyễn Quang Thiều) "Chỉ mãi đến cuối năm 1977, về làm việc ở Tuổi Trẻ, tôi mới "bắt đầu" tìm hiểu nền văn học cách mạng qua những cuốn sách ở thư viện, với những Mẫn và tôi (Phan Tử), Hòn Đất (Anh Đức), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)...Trong các truyện tôi thích Chiếc Lược Ngà nhứt, vì lối viết đơn giản như kể chuyện, thật tình, đẫm chất Nam Bộ. Nhân vật trong các truyện đều gần gũi, giản dị, sống phóng khoáng, rất anh hùng mà cũng rất đời thường..."   (Nguyễn Đông Thức) *** Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những năm đánh Mĩ, ông sống và hoạt động tại chiến trường Nam Bộ. Cảnh vật, con người và hơi thở nhịp sống trong tác phẩm Nguyễn Quang Sáng đậm đặc màu sắc Nam Bộ. Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng.Ông để lại nhiều tác phẩm đặc sắc bằng nhiều thể loại. Các tập truyện ngắn: "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Bông cẩm thạch", "Người con đi xa" … Tiểu thuyết có: "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu". Ngoài ra ông còn có một số kịch bản phim, lưu giữ trong lòng người "một thời để nhớ, một thời để yêu".    Nguyễn Quang Sáng viết truyện ngắn "Chiếc lược ngà" vào tháng 9 năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong những tháng ngày sôi sục đánh Mĩ. Tác phẩm: Con chim vàng (tập truyện ngắn, 1956) Người quê hương (tập truyện ngắn, 1968) Nhật ký người ở lại (tiểu thuyết, 1961) Đất lửa (tiểu thuyết, 1963) Câu chuyện bên trận địa pháo (truyện vừa, 1966) Chiếc lược ngà (tập truyện ngắn, 1966) Bông cẩm thạch (tập truyện ngắn, 1969) Cái áo thằng hình rơm (truyện vừa, 1975) Mùa gió chướng (tiểu thuyết, 1975) Người con đi xa (tập truyện ngắn, 1977) Dòng sông thơ ấu (tiểu thuyết, 1985) Bàn thờ tổ của một cô đào (tập truyện ngắn, 1985) Tôi thích làm vua (tập truyện ngắn, 1988) 25 truyện ngắn (1990) Paris – tiếng hát Trịnh Công Sơn (1990) Con mèo của Foujita (tập truyện ngắn, 1991) Nhà văn về làng (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2008) Mời các bạn đón đọc Cánh Đồng Hoang của tác giả Nguyễn Quang Sáng.