Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát

Sáu triệu bản bán ra trên toàn thế giới 58 tuần trong danh sách bán chạy của New York Times Dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019 Trong nhiều năm, những tin đồn về "Cô gái đầm lầy" đã ám ảnh Barkley Cove, một thị trấn yên tĩnh trên bờ biển Bắc Carolina. Vì vậy, khi nơi này rúng động với cái chết đầy bí ẩn của Chase Andrew, người dân địa phương ngay lập tức đổ dồn nghi ngờ vào cô. Nhưng Kya Clark – cô gái hoang dã ấy có phải là thủ phạm? Thông minh và nhạy cảm, cô đã sống sót sau nhiều năm cô đơn trong đầm lầy, trú ẩn trong lòng mẹ thiên nhiên, kết bạn với mòng biển và học những bài học đắt giá trên bờ cát. Khi trái tim tuổi mới lớn mở ra, cô cũng chạm vào yêu thương với hai chàng trai, bắt đầu một cuộc sống mới cho đến khi điều bất ngờ xảy đến… “Một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên với một cú ngoặt chết người.” — REFINERY29 “Đầy chất thơ… Sức hấp dẫn của cuốn sách đến từ sự liên kết sâu sắc giữa Kya với vùng đất đã là nhà cô, và với mọi sinh vật của vùng đất đó.” — BOOKLIST *** Cuốn sách "Xa ngoài kia nơi loài tôm hát" của Delia Owens là một tiểu thuyết lãng mạn đầy ắp hơi thở thiên nhiên đẹp đẽ và đau đớn. Cuốn sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát (Tên gốc: Where the Crawdads Sing) lấy bối cảnh những năm 1950 về cô gái trẻ Kya Clark ở Bắc Caroline, nước Mỹ. Kya được biết với cái tên "Cô gái đầm lầy" bởi cô sống một mình giữa thiên nhiên, chỉ kết nối với một vài người. Nhưng khi một vụ án mạng xảy ra, tất cả đổ dồn vào cô bé hoang dã và đơn độc ấy. Lấy vụ án làm trung tâm cuốn sách, tác giả Delia Owens dẫn dắt người đọc khám phá vùng ngập nước hoang sơ và vắng vẻ của bờ Bắc Carolina qua đôi mắt của một đứa trẻ bị bỏ rơi. Đây là tiểu thuyết đầu tay của Delia Owens, được xuất bản lần đầu năm 2018, nhưng đã nhanh chóng chiếm được sự yêu mến của đông đảo độc giả. Cuốn sách đạt được 6 triệu bản bán ra trên thế giới, liên tục đứng trong danh sách bán chạy của New York Times suốt 58 tuần và dẫn đầu mục tiểu thuyết bán chạy của Amazon trong năm 2019. Trên Goodreads, cuốn sách nhận được gần một triệu đánh giá khi 88% độc giả nói rằng mình yêu thích cuốn sách. Trên Amazon, tác phẩm của Delia Owens cũng nhận được hơn 111.000 đánh giá, trong đó có hơn 86.000 đánh giá 5 sao. Delia Owens sinh năm 1949, là tác giả, nhà động vật học người Mỹ. Bên cạnh cuốn tiểu thuyết Xa ngoài kia nơi loài tôm hát, bà còn cùng chồng cũ viết ba cuốn sách về thế giới hoang dã tại châu Phi. Tại Việt Nam, Xa ngoài kia nơi loài tôm hát được dịch giả Trương Hoàng Uyên Phương chuyển ngữ. Theo cô, việc chuyển ngữ tựa đề của cuốn sách là một thách thức lớn, khó nhất là làm sao để người đọc hình dung được một không gian hoang vu và xa vắng, văng vẳng âm thanh rất nguyên sơ của các loài hoang dã. Cuốn sách được viết bằng thứ văn phong đặc biệt, đầy sức sống và hoang dại như tự nhiên, nhưng cũng đầy chất thơ và có sức gợi mãnh liệt. Từ chính nội dung tuyệt đẹp đó, tên sách Xa ngoài kia nơi loài tôm hát đã được ra đời. Dịch giả Uyên Phương cũng đánh giá cuốn sách nổi bật nhất với hai điểm: Cuộc sống khắc nghiệt mà cũng đầy chất thơ của Kya ở đầm lầy và bí ẩn vụ án mạng. Vì Kya gần như phải đơn độc sinh tồn nơi hoang dã, tự nhiên đã trở thành người bạn, người mẹ, người thầy của cô bé. Đó là một thiên nhiên rất đẹp, tráng lệ và huyền bí, trù phú mà khắc nghiệt, tàn nhẫn nhưng lại dịu dàng. Người đọc sẽ dễ dàng bị cuốn hút, ngỡ ngàng, rung động và có lúc rùng mình với những bài học từ thiên nhiên đó. Còn về vụ án mạng trong cuốn sách, dịch giả bật mí rằng, có lẽ độc giả sẽ phải suy nghĩ rất lâu về định kiến cũng như sự phán xét của con người. *** MỞ ĐẦU 1969 Đồng lầy chẳng phải đầm lầy. Đồng lầy là một không gian tràn ánh sáng, nơi cỏ vươn lên trong nước, và nước trôi vào trong bầu trời. Dòng chảy chầm chậm quanh co, mang theo quả cầu mặt trời ra đến biển, và lũ chim chân dài lêu nghêu cất mình vụt lên với sự uyển chuyển không ai ngờ đến – thân hình chúng dường như không được tạo ra để bay lượn – trên nền âm thanh cả ngàn con ngỗng tuyết kêu ran. Rồi trong chính đồng lầy, ở đó đây, đầm lầy đích thực len lỏi vào những vùng trũng thấp, ẩn khuất giữa ẩm ướt đại ngàn. Nước đầm lầy tĩnh lặng và tối tăm, nuốt chửng ánh sáng trong cổ họng bùn nhớp nháp. Trong cái hang đó, cả những loài chuyên lẩn lút về đêm cũng hoạt động ban ngày. Nơi đây cũng có tiếng động, tất nhiên, nhưng so với đồng lầy thì đầm lầy tĩnh mịch hơn hẳn vì sự phân hủy là hoạt động chế ngự tất cả. Sự sống mục nát, bốc mùi và trở về thứ mùn thối rữa; một chốn trầm mình sầu bi của cái chết cho sự sống vươn lên. Vào buổi sáng ngày 30 tháng Mười năm 1969, xác của Chase Andrews nằm trong đầm lầy, cái đầm hẳn sẽ nuốt chửng nó dần dần, lặng lẽ. Vĩnh viễn che giấu nó. Đầm lầy tường tận mọi điều về cái chết, và không nhất thiết coi đó là thảm kịch, chắc chắn chẳng phải là tội ác. Thế nhưng buổi sáng này, hai cậu bé từ ngôi làng đạp xe đến chỗ tháp phòng cháy cũ, và từ chỗ ngoặt thứ ba trên cầu thang đã trông thấy chiếc áo khoác denim của cái xác kia. *** 1952 Sáng ngày hầm hập cái nóng trời tháng Tám, hơi thở ẩm ướt của đồng lầy giăng màn sương mờ lên những nhánh sồi với cành thông. Trảng cây cọ đứng im đến lạ lùng, chỉ có tiếng vỗ cánh trầm trầm, chậm chạp của lũ diệc cất mình lên từ phá nước. Và rồi Kya, bấy giờ chỉ mới sáu tuổi, nghe tiếng cửa lưới sập lại. Đứng trên chiếc ghế cao, con bé ngừng cọ bợn cháo ngô bám trên nồi và để nồi xuống bồn đầy bọt xà phòng đã xẹp. Chẳng còn tiếng động nào nữa ngoài tiếng thở của con bé. Ai vừa ra khỏi lán vậy nhỉ? Không phải má. Má có bao giờ để cửa sập lại đâu. Ấy vậy mà khi chạy ra hiên, Kya lại thấy má trong bộ váy dài nâu, những nếp xếp li nhịp nhịp víu vào mắt cá khi bà bước xuôi dải đường cát trong đôi giày cao gót. Đôi giày mũi bầu giả da cá sấu. Đôi duy nhất để bà mang ra ngoài. Kya muốn gọi to nhưng biết khôn hồn thì chớ có đánh thức ba dậy, vậy là nó mở cửa ra đứng trên bậc thềm gạch ván. Từ chỗ đó, con bé thấy chiếc vali nhỏ màu xanh lam má xách theo. Mọi ngày thì với sự tin tưởng của một chú chó con, Kya biết má sẽ quay về với chút thịt gói trong giấy nâu dính mỡ hoặc một con gà, đầu lủng lẳng chúc xuống. Thế nhưng bà chưa bao giờ mang đôi giày da cá sấu, chưa bao giờ xách theo hành lý cả. Má luôn luôn nhìn lại từ chỗ lối đi nhỏ gặp đường mòn, một tay giơ lên cao, lòng bàn tay trắng nõn nà vẫy vẫy trước khi bà quay lưng bước tiếp, len lỏi qua những khu rừng đầm lầy cùng phá nước khin khít cỏ đuôi mèo, rồi có lẽ nếu con nước gia ơn, cuối cùng bà sẽ ra đến phố. Thế nhưng hôm nay bà không ngoảnh lại mà cứ dấn bước, loạng choạng giữa những vết lún trên đường. Dáng vóc cao của bà thỉnh thoảng hiện ra qua những lỗ hổng giữa rừng, cho đến khi chỉ còn thấy thấp thoáng màu trắng chiếc khăn choàng qua kẽ lá. Kya vụt chạy đến chỗ nó biết con đường sẽ lộ ra; chắc chắn má sẽ dừng lại vẫy tay từ đó, nhưng tới nơi, con bé chỉ kịp thoáng thấy màu lam của chiếc vali trước khi nó mất hút – cái màu sao mà chỏi giữa cánh rừng mướt rượt màu xanh lục. Một cảm giác nặng nề dày đặc như bùn gòn đen chèn lên ngực con bé khi nó quay lại đợi ở bậc thềm. Kya là đứa nhỏ nhất trong đám anh em nhà này, mấy anh chị lớn hơn nó nhiều, mặc dù sau này con bé không nhớ tuổi của họ nữa. Bọn trẻ sống với ba và má, chen chúc nhau như bầy thỏ nhốt chuồng, trong cái lán thô sơ tạm bợ, hàng hiên có lưới che lỏ mắt dòm ra dưới những tán sồi. Jodie, thằng anh gần Kya nhất nhưng vẫn lớn hơn nó bảy tuổi, bước từ trong nhà ra và đứng sau con bé. Jodie có cùng cặp mắt và mái tóc đen của em gái; thằng nhỏ đã dạy con bé bài hát của lũ chim, tên gọi những vì sao và cách lái thuyền qua đám cỏ răng cưa. “Má sẽ về thôi,” thằng anh nói. “Em hông biết. Má mang đôi dày cá sấu đó.” “Một bà má hông bỏ mấy đứa con nhỏ đâu. Điều đó hông nằm trong bản tính của họ.” “Anh kể với em là cáo cái bỏ con của nó mà.” “Ừ, nhưng con cáo đó bị toạc hết chân rồi. Nó xẻ chết đói nếu cố nuôi cả mình dới bầy con nhỏ. Tốt hơn là nó bỏ đám này, dưỡng thương cho lành lại, rồi đẻ thêm khi có thể nuôi tụi nhóc ra hồn. Má thì đâu có đói, má sẽ quay lại.” Jodie không chắc chắn như nó ra vẻ thế, nhưng vẫn nói vậy vì Kya. Cổ họng nghèn nghẹn, con bé thì thầm, “Nhưng má xách theo cái vali xanh như xắp đi xa lắm.” Cái lán nằm tựa vào trảng cọ lùn, vô số cụm cọ mọc rải rác, tỏa khắp bãi cát tới chỗ chuỗi những phá nước xanh, và ở xa xa là toàn bộ vùng đồng lầy sau đó. Hàng dặm lưỡi cỏ cứng cáp đến độ chúng mọc lên cả trong nước mặn, chỉ bị ngắt quãng bởi những thân cây uốn cong đến nỗi chúng mang hình hài cơn gió. Rừng sồi dồn lại quanh những phía khác của cái lán nhỏ, bao bọc lấy phá nước gần đó nhất, nơi mặt nước giàu sự sống đến sục sôi. Bầu không khí trĩu muối và bài ca mòng biển tràn qua hàng cây dạt tới từ biển cả. Từ thế kỷ 16, việc khẳng định quyền sở hữu một vùng lãnh thổ chẳng thay đổi gì mấy. Những khu đồng lầy có chủ rải rác đó đây không được mô tả trên giấy tờ pháp lý, chỉ được vạch ranh giới tự nhiên – một cây sồi chết ở kia, một con lạch đằng này – bởi những kẻ trốn chạy. Người ta đâu có tự dưng dùng cọ dựng chốn nương thân ở đầm lầy, trừ phi đang trốn kẻ nào đó hay đã cùng đường tận lối. Đồng lầy được bao bởi một đường bờ biển bị xé nham nhở, mà những nhà thám hiểm ngày trước gán cho cái tên “Nghĩa địa của Đại Tây Dương” vì dòng chảy rút xa bờ, những luồng gió dữ và bãi cạn sẽ đánh cho tàu thuyền vỡ nát như mấy chiếc nón giấy dọc vùng bờ sẽ trở thành bờ Bắc Carolina. Nhật ký một thủy thủ viết, “vòng quanh bờ biển… nhưng không thấy lối vào… một cơn bão dữ dội ập tới… chúng tôi buộc phải quay ra để giữ cho mình và con tàu được an toàn, và bị xô đẩy dồn dập bởi một cơn sóng dữ… Đất liền… toàn đồng lầy nối đầm lầy, chúng tôi quay về tàu… Làm nản lòng tất cả những ai sau này tìm tới đây cư ngụ.” Những người tìm đất an cư bỏ qua chốn này, và vùng đồng lầy nổi tiếng đây trở thành một tấm lưới, vớt lên một mớ lộn xộn những tay thủy thủ nổi loạn, nạn nhân đắm tàu, con nợ và bọn người trốn chạy khỏi chiến tranh, thuế má hay luật lệ mà họ không ưa. Những kẻ mà bệnh sốt rét không giết chết hay đầm lầy không nuốt chửng sinh ra một bộ lạc người rừng thuộc nhiều chủng tộc và nền văn hóa, mỗi người có thể đốn trụi một khu rừng nhỏ với một cái rìu và vác một con hươu đi hàng dặm. Như lũ chuột sông, mỗi người có riêng một lãnh thổ, nhưng họ phải hòa nhập với cảnh sống ngoài rìa hoặc đơn giản là một ngày biến mất trong đầm tối. Hai trăm năm sau, nhóm này kết nạp thêm những nô lệ bỏ trốn vào đồng lầy và các nô lệ được trả tự do, không xu dính túi và cùng quẫn, tản mát vào vùng đất ngập nước vì chẳng còn bao nhiêu lựa chọn khác. Có lẽ đó là vùng hiểm ác, nhưng không một tấc đất nào nghèo. Tầng tầng lớp lớp sự sống – cua rù rì ngoe nguẩy, tôm hùm đất sủi bùn, hằng hà chim nước, cá, tôm, sò, hươu béo xị, ngỗng mập núc – chất chồng trên đất hay trong nước. Kẻ không ngại lùng sục tìm bữa ăn sẽ không đời nào chết đói được. Bấy giờ là năm 1952, nên đã bốn thế kỷ liền vùng đất bị giành quyền sở hữu bởi một chuỗi rời rạc những người không có sổ sách nào ghi lại. Hầu hết là trước cuộc Nội chiến. Một vài kẻ khác đến chiếm dụng đất gần đây, đặc biệt là sau hai cuộc chiến tranh thế giới, khi những người đàn ông trở về trong tan nát và túng quẫn. Đồng lầy không giam giữ mà định nghĩa con người họ, và như tất cả những vùng đất linh thiêng, chúng giữ cho bí mật của họ được vùi sâu. Họ chiếm đất mà chẳng ai quan tâm vì không ai thèm muốn nó. Dù sao, nó cũng chỉ là thứ bãi lầy hoang. Cũng như cách họ làm lậu rượu whiskey, cư dân đồng lầy đặt ra luật lệ của riêng mình – không giống kiểu luật khắc vào đá hay ghi lên giấy, mà là thứ luật sâu xa hơn, in hằn trong gen họ. Tự nhiên và cổ xưa, như nở ra từ trứng diều hâu với bồ câu. Khi bị dồn vào đường cùng, bí bách, tuyệt vọng hay bị cô lập, con người trở lại với thứ bản năng nhằm thẳng tới sinh tồn. Nhanh gọn và đích đáng. Chúng luôn là những lá chủ bài vì được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thường xuyên hơn loại gen hiền. Đó chẳng phải đạo lý gì, chỉ là phép toán đơn giản. Giữa đồng loại, bồ câu cũng đánh nhau thường xuyên chẳng kém diều hâu. Hôm đó má không về. Chẳng ai đả động gì tới chuyện đó. Ba lại càng không. Bốc mùi cá và nước dùng, ông khua nắp nồi loảng xoảng. “Bữa tối có gì hả?” Mắt cụp xuống, mấy anh chị em chúng nó nhún vai. Ba chửi thề rồi khập khiễng đi ra, trở vào rừng rậm. Đã có nhiều vụ cãi cọ trước đó; má thậm chí đã bỏ đi một hai lần, nhưng lần nào bà cũng quay về, vơ lấy bất kỳ đứa nhỏ nào để ôm ấp. Hai cô chị lớn nấu bữa tối gồm bánh ngô với đậu đỏ, nhưng không đứa nào ngồi vào bàn ăn như chúng sẽ ngồi với má. Mỗi đứa xúc vội đậu từ nồi, trút đại bánh ngô lên trên, rồi lảng đi ăn ở góc của chúng trên thảm trải sàn hay cái sô-pha sờn cũ. Kya không ăn được. Nó ngồi trên bậc thềm trước hiên nhìn xuống con đường. Người cao so với tuổi, gầy trơ xương, con bé có nước da rám thẫm và mớ tóc đen, thẳng, dày như cánh quạ. Màn đêm buộc nó ngừng trông ngóng. Tiếng ếch ồm ộp sẽ vùi đi tiếng bước chân; dẫu vậy, con bé vẫn nằm trên cái giường ngoài hiên, dỏng tai nghe ngóng. Mới sáng hôm đó, nó hãy còn thức dậy trong tiếng mỡ lợn xèo xèo trên chảo sắt và mùi bánh mì sạm nâu trong lò. Kéo cái quần yếm lên người, con bé xộc vào bếp để bày dĩa và nĩa. Nhặt mấy con mọt trong cháo bỏ ra. Hầu như sáng nào cũng vậy, tươi cười, má sẽ ôm lấy nó – “Chào buổi sáng, con gái đặc biệt của má” – và hai má con sẽ làm hết việc này tới việc nọ, thoăn thoắt như múa. Thỉnh thoảng má còn cất giọng hát dân ca hay đọc vài đoạn thơ cho con trẻ: “Chú heo nhỏ đi chợ lon ton.” Hoặc má sẽ đẩy đưa Kya theo điệu jitterbug nhịp dồn, chân họ giẫm bùm bụp lên sàn gỗ dán cho đến khi tiếng nhạc từ cái radio chạy pin dần tắt ngỏm, nghe như nó đang tự hát cho mình nghe dưới đáy một cái thùng tròn. Vào những buổi sáng khác, má lại nói mấy chuyện người lớn mà Kya không hiểu, nhưng con bé đoán rằng lời nói của má cần có chỗ để thoát ra, nên nó thấm lấy từng lời qua da, trong khi tay nhét thêm củi vào lò. Gật gù làm như hiểu rõ. Sau đó là cái nhốn nháo ngược xuôi khi mọi người thức dậy và ăn sáng. Ba không ở đó. Ông chỉ có hai chế độ: im lặng và gào thét. Nên cũng tốt khi ông cứ ngủ, hoặc không về nhà. Thế nhưng sáng nay, má im lặng; nụ cười đánh mất, mắt đỏ hoe. Bà cột thấp ngang trán một cái khăn màu trắng theo kiểu hải tặc, nhưng cái viền thâm tím vàng của một vết bầm vẫn lộ ra. Ngay sau bữa sáng, trước khi chén dĩa được rửa sạch, má đã cho vài món tư trang vào vali và theo lối nhỏ mà đi mất. Sáng hôm sau, Kya lại tới chỗ cũ của nó trên bậc cửa, cặp mắt đen hun hút xoáy xuống con đường như một đường hầm đợi tàu qua. Đồng lầy phía xa bị màn sương bao phủ, sương sà thấp đến nỗi cái gót mềm của nó chạm hẳn xuống bùn. Chân trần, Kya nhịp nhịp ngón chân, xoay xoay ngọn cỏ chọc vào đám ấu trùng kiến sư tử, nhưng một đứa nhỏ sáu tuổi nào có ngồi yên được, chẳng mấy chốc con bé đã la cà tới bãi triều, tiếng nước vỗ liếm láp ngón chân nó. Ngồi xổm bên rìa nước, con bé dõi theo lũ cá tuế vọt qua vọt lại giữa chỗ nắng với chỗ có bóng râm. Jodie cất tiếng gọi Kya từ đám cọ lùn. Con bé nhìn chăm chăm; có lẽ anh nó tới đưa tin mới. Nhưng trong lúc thằng anh len lỏi qua mấy tán lá đầy gai, con bé nhìn dáng đi lững thững của anh và biết má không có ở nhà. “Em muốn chơi thám hiểm hông hả?” Jodie hỏi. “Anh nói anh quá tuổi chơi hám hiểm rồi mà.” “Đâu, anh nói vậy thôi. Hông bao giờ quá tuổi cả. Đua đi!” Hai đứa ùa chạy qua bãi triều, băng rừng cây lao ra bờ biển. Kya ré lên khi thằng anh vọt qua mặt nó và cười nắc nẻ cho tới khi chúng chạy đến chỗ cây sồi lớn chìa ra trên cát những cánh tay khổng lồ. Jodie và anh cả Murph đã đóng vài miếng ván lên cành cây làm đài quan sát và phòng thủ. Giờ thì hầu hết ván gỗ đã sụp xuống, đong đưa một cách nguy hiểm, chỉ dính vào thân cây nhờ mấy cây đinh sét. Thường ngày, nếu Kya có được cho chơi đoàn thám hiểm thì nó cũng phải đóng vai nô lệ, đưa tới cho các anh bánh mì còn nóng lén lấy từ chảo của má. Thế nhưng hôm nay Jodie nói, “Em có thể làm thuyền trưởng.” Kya giơ cao tay phải trong tư thế xông lên. “Đuổi bọn Tây Ban Nha đi!” Hai đứa nhỏ bẻ cây làm kiếm, xộc qua những bụi mâm xôi um tùm, hét váng lên và đâm kẻ thù lia lịa. Rồi – màn tưởng tượng chợt đến chợt tan – Kya bước lại chỗ một khúc cây phủ đầy rêu và ngồi xuống. Im lặng, Jodie đến ngồi cạnh em. Thằng bé muốn nói gì đó để đứa em gái thôi nghĩ về má, nhưng từ ngữ tắt nghẹn, thế là hai đứa lặng ngắm cái bóng loang loáng bơi bơi của lũ gọng vó. Sau khi quay về, Kya trở lại chỗ bậc thềm và đợi thật lâu, nhưng trong lúc nhìn đăm đắm về phía cuối đường, nó không hề khóc. Gương mặt nó bất động, môi mím lại thành một đường mỏng dưới đôi mắt khắc khoải kiếm tìm. Nhưng ngày hôm đó má cũng không trở lại. Mời các bạn đón đọc Xa Ngoài Kia Nơi Loài Tôm Hát của tác giả Delia Owens & Trương Hoàng Uyên Phương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tuyển tập Nguyễn Nhật Ánh
Tên Ebook: 62 Truyện ngắn của Nguyễn Nhật Ánh Tác Giả: Nguyễn Nhật Ánh   Thể Loại: Tiểu Thuyết, Truyện Ngắn, Tuyển Tập, Văn học Việt Nam   Ebook: www.dtv-ebook.com Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh Giới Thiệu: Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... Tác phẩm mới nhất của Nguyễn Nhật Ánh được NXB Trẻ ấn hành mang tên Ngồi khóc trên cây, xuất bản ngày 27 tháng 6 năm 2013.   Truyện nhiều tập:   - Kính vạn hoa - Chuyện xứ Langbiang   Truyện dài, truyện ngắn, thơ và các tác phẩm khác:   - Thành phố tháng tư (thơ, in chung với Lê Thị Kim, 1984) - Trước vòng chung kết (truyện dài, 1985) - Cú phạt đền (truyện ngắn, 1985) - Đầu xuân ra sông giặt áo (thơ, 1986) - Chuyện cổ tích dành cho người lớn (tập truyện, 1987) - Bàn có năm chỗ ngồi (truyện dài, 1987) - Còn chút gì để nhớ (truyện dài, 1988) - Bí mật của một võ sĩ (tập truyện, 1989) - Cô gái đến từ hôm qua (truyện dài, 1989) - Chú bé rắc rối (truyện dài, 1989) - Nữ sinh (truyện dài, 1989) - Thiên thần nhỏ của tôi (truyện dài, 1990) - Phòng trọ ba người (truyện dài, 1990) - Mắt biếc (truyện dài, 1990) - Thằng quỷ nhỏ (truyện dài, 1990) - Hoa hồng xứ khác (truyện dài, 1991) - Hạ đỏ (truyện dài, 1991) - Bong bóng lên trời (truyện dài, 1991) - Bồ câu không đưa thư (truyện dài, 1993) - Những chàng trai xấu tính (truyện dài, 1993) - Tứ tuyệt cho nàng (thơ, 1994) - Lễ hội của đêm đen (thơ, 1994) - Trại hoa Vàng (truyện dài, 1994) - Út Quyên và tôi (tập truyện ngắn, 1995) - Đi qua hoa cúc (truyện dài, 1995) - Buổi chiều Windows (truyện dài, 1995) - Quán gò đi lên (truyện dài, 4/12/1999) - Những cô em gái (truyện dài, 7/5/2000) - Ngôi trường mọi khi - Tôi là Bêtô (truyện, 4/4/2007) - Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (truyện, 1/2008) - Đảo mộng mơ (truyện, 21/10/2009) - Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (truyện dài, 24/10/2010) - Lá nằm trong lá (truyện dài, 24/9/2011) - Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (truyện dài, 6/2012) - Sương khói quê nhà (tạp văn, 2012) - Người Quảng đi ăn mì Quảng(tạp văn, 2012) - Ngồi khóc trên cây (truyện dài, 27/6/2013)   62 truyện ngắn của Nguyễn Nhật Ánh :   Anh chị yêu dấu Ba lô màu xanh Bài toán do vui cờ năm chỗ ngồi Bắt đền hoa sứ Bí ẩn của mốt Bí mật kẻ trộm Bồ câu không đưa thư Bờ vai nghiêng nắng Buổi chiều Windows Cánh đàn ông chúng mình Cầu chúc hai người hạnh phúc Chú bé rắc rối Cháu của bà Cô gái đến từ hôm qua Cổ tích bên đường Còn chút gì để nhớ (2 phần) Con ruồi Đi qua hoa cúc Đoàn kịch tỉnh lẻ Hạ đỏ Hoa hồng xứ khác Hoạ mi một mình Làm chồng thật khó Làm gì có một ông bố như thế Lang thang trong rừng Mắt biếc Một mình Một phút trách nhiệm Nghệ thuật bậc thầy Ngôi sao nhỏ Ngôi trường mỗi khi Người tốt Nhà ảo thuật Nhân vật nữ của tôi Những chàng trai xấu tính Những cô em gái Những con gấu bông Những cuộc gặp gỡ tình cờ Những người vui tính Nữ sinh Ông thầy nóng tính Phòng trọ ba người Quán Gò đi lên Quán kem Sợ vợ - lợi hay hại Thám tử nghiệp dư Thằng quỷ nhỏ Theo dấu chim ưng Thiên thần nhỏ của tôi Thơ tình Tiền chuộc (2 phần) Tivi, tủ lạnh hay cát-xét Tôi trở thành người nội trợ đảm đang như thế nào Trại hoa vàng Trước vòng chung kết Truyện cổ tích dành cho người lớn Út Quyền và tôi Viên ngọc Xin lỗi mày tai to
Như Cõi Thiên Đường - Judith Mcnaught
AudioBook Như Cõi Thiên Đường Nói đến thể loại văn học lãng mạn phương Tây, chắc chắn không thể không nhắc đến Judith McNaught rồi! Judith McNaught, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1944, tại San Luis Obispo, là một trong những tác giả bán chạy nhất về thể loại tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và hiện đại. Cô học chuyên ngành Kinh doanh tại Đại học Northwestern. Cô kết hôn và có hai con, một gái, một trai, Whitney và Clay, trước khi ly hôn với St Louis, một nha sĩ. McNaught được cho là nhà văn đã sáng tạo ra thể loại lãng mạn hiện đại lịch sử. Trước khi đạt được thành công trong sự nghiệp văn học, McNaught đã từng làm việc như một trợ lý giám đốc cho một đoàn làm phim, làm trợ lý cho giám đốc điều hành một công ty vận tải lớn, làm quản lý tạm thời cho một công ty về nhân sự, và làm giám đốc một công ty điện ảnh. Cô cũng là nữ sản xuất chương trình đầu tiên tại đài phát thanh CBS. Ai đã từng đọc hai truyện Tiếng sét xanh (Double Standards) và Hơn cả tuyệt vời (Something Wonderful) chắc sẽ không thể quên được tác giả này phải không ? Và Như Cõi Thiên Đường là một tác phẩm nữa của bà, hy vọng mọi người cũng sẽ thích nó Mời các bạn đón đọc Như Cõi Thiên Đường của tác giả Judith McNaught.
Hơn Cả Tuyệt Vời - Judith McNaught
Tên Ebook: Hơn Cả Tuyệt Vời (full prc, pdf, epub) Tựa Gốc: Somthing Wonderful   Tác Giả: Judith Mcnaught    Thể Loại: Tiểu Thuyết, Tình Cảm, Văn học phương Tây   Dịch giả: Kim Thùy - Văn Hòa   Nguồn: vnthuquan.com     Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Hơn Cả Tuyệt Vời - Judith McNaught full prc, pdf, epub  Giới Thiệu: Nói đến thể loại văn học lãng mạn phương Tây, chắc chắn không thể không nhắc đến Judith McNaught rồi! Judith McNaught, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1944, tại San Luis Obispo, là một trong những tác giả bán chạy nhất về thể loại tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và hiện đại. Cô học chuyên ngành Kinh doanh tại Đại học Northwestern. Cô kết hôn và có hai con, một gái, một trai, Whitney và Clay, trước khi ly hôn với St Louis, một nha sĩ. McNaught được cho là nhà văn đã sáng tạo ra thể loại lãng mạn hiện đại lịch sử. Trước khi đạt được thành công trong sự nghiệp văn học, McNaught đã từng làm việc như một trợ lý giám đốc cho một đoàn làm phim, làm trợ lý cho giám đốc điều hành một công ty vận tải lớn, làm quản lý tạm thời cho một công ty về nhân sự, và làm giám đốc một công ty điện ảnh. Cô cũng là nữ sản xuất chương trình đầu tiên tại đài phát thanh CBS. Chàng - Jordan Townsende,công tước Hawthorne XII - một anh chàng đẹp trai,giàu có,tài giỏi,người làm hết thảy phụ nữ đều say mê,nổi tiếng là anh chàng phóng đãng và ăn chơi nhất thành London,người đã làm tan nát bao trái tim phụ nữ.Nhưng lại là người có một trái tim lạnh giá không tin bất cứ ai và một thái độ căm ghét,khinh bỉ dành cho phụ nữ. Nàng - Alexandra Lawrence - một cô gái ngây thơ và thông minh có ngoại hình giống như một bé trai.Nàng phải gánh trên vai trách nhiệm nuôi sống cả một gia đình từ năm 14 tuổi,nhưng trong nàng luôn có một niềm lạc quan,yêu đời và tin tưởng vào cuộc sống. Hai con người khác nhau, hai số phận khác nhau tưởng chừng như không bao giờ có thể hòa hợp được với nhau lại gắn bó với nhau như một định mệnh... Vào một đêm trăng sáng trên đường về nhà,Alex tình cờ cứu công tước Hawthorne khi chàng đang bị 2 tên cướp tấn công.Chính cuộc gặp gỡ đó đã đẩy 2 người đến với nhau.Để rồi sau này vì bảo vệ danh dự cho Alex,Jordan đành miễn cưỡng cưới nàng với ý định sau khi hưởng tuần trăng mật sẽ để lại nàng một mình ở Devon rồi bản thân mình quay lại cuộc sống phóng túng ở London.Nhưng đúng lúc đó,Jordan lại mất tích... Một cuốn sách hấp dẫn,gay cấn và lôi cuốn người đọc đến phút cuối cùng.Một tác phẩm nữa mà bất cứ ai hâm mộ thể loại romance và historical không nên bỏ qua... Mời các bạn đón đọc Hơn Cả Tuyệt Vời của tác giả Judith McNaught.
Vợ Người Du Hành Thời Gian - Audrey Niffenegger
Tên Ebook: Vợ Người Du Hành Thời Gian Tác giả: Audrey Niffenegger   Thể Loại: Best Seller, Giả Tưởng, Sách Hay, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch giả: Trần Nguyên   Kích thước: 14 x 20.5 cm   Số trang: 604   Ngày xuất bản: 01/10/2013   Giá bìa: 128.000 ₫   Công ty phát hành: Sách Trẻ(Youth Books)   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Chụp pic: PhamHD   Type: skypeaful, toctien0904, luvuonliu, Moussie, kikosan   Beta: Jaejoong   Làm ebook: Dâu Lê   Nguồn: luv-ebook.com     Ebook: www.dtv-ebook.com Ebook Vợ Người Du Hành Thời Gian - Audrey Niffenegger full prc pdf epub Giới thiệu: Henry DeTamble mang trên mình một gen lạ, nó khiến anh có thể du hành thời gian. Rắc rối ở chỗ anh không thể tự chủ được thời gian và địa điểm đến. Tệ hơn, khi du hành, anh không thể mang theo bất cứ thứ gì. Bởi vậy, phần lớn thời giờ trong cuộc sống của anh là trần truồng, chạy trốn, ăn trộm quần áo, thức ăn, tiền bạc, đánh lộn, chống lại cảnh sát… Đó là chuỗi dài những tháng ngày bi kịch, bị đau đớn và dằn vặt cả về tâm hồn lẫn thể xác, anh trượt dài trong những ký ức đau buồn về cái chết của mẹ, về sự tuột dốc của cha và về sự kỳ dị lạc loài của chính mình. Anh hoàn toàn chán nản và tuyệt vọng. Nhưng phần thưởng của việc du hành thời gian chính là việc anh có thể gặp người vợ trong tương lai của mình khi cô ấy chỉ mới 6 tuổi. Và mọi việc đã thay đổi từ đó. Cô ấy là ai, ClareAbshire, cô ấy đã trải qua tuổi thơ kỳ dị và thú vị như thế nào để cuối cùng, khi gặp được người chồng của mình trong thực tại thì mọi việc cũng mới chỉ là bắt đầu… Tất cả bi kịch, tình yêu thương, những điều đẹp đẽ nhất vẫn còn là phía trước. Với họ, quá khứ, hiện tại, tương lai chồng chéo, đan xen vào nhau, khiến cho độc giả phải khóc, cười, vui, buồn, hồi hộp, và đợi chờ cùng họ. Vợ Người Du Hành Thời Gian là “… câu chuyện lay động lòng người… Mối tình nồng cháy của họ hừng hực giữa biển thời gian và giam giữ họ trong chiếc bẫy tình không thể giũ bỏ. Cuốn sách được viết ra để quyến rũ người đọc hàng thế kỷ (Amazon.com). “Một bi kịch được tạo nên bởi thật nhiều nỗi đau - tình cảm - niềm vui - và những điều ngang trái, đến nỗi nó bùng cháy trong cảm xúc (Monica Morgan). Tờ Daily Telegraph của Anh đã bình chọn Vợ Người Du Hành Thời Gian là một trong những cuốn sách hay nhất trong 25 năm qua, chỉ đứng sau Harry Potter. Sách bán được hơn 7 triệu bản trên toàn thế giới và được dựng thành phim với sự tham gia của Eric Bana và Rachel McAdams, được đánh giá là một trong những bộ phim tình cảm hay nhất năm 2009. Tại Việt Nam, bộ phim được trình chiếu với tên “Chồng ảo”. Tác Giả: Audrey Niffenegger Audrey Niffenegger (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1963 tại Nam Haven, Michigan) là một nhà văn Mỹ, nghệ sĩ Cô cũng là một giáo sư trong sách Chương trình MFA thuật liên ngành tại Trung tâm Chicago Cao đẳng Columbia cho Sách và giấy nghệ thuật. Cô là thành viên sáng lập của T3 hoặc văn bản 3, một nghệ sĩ và nhóm nhà văn mà cũng thực hiện và triển lãm ở Chicago. Niffenegger cũng là mộtthành viên giảng viên tại North Shore Nghệ thuật Liên đoàn nơi cô dạy Hội thảo Printmaking Trung cấp và nâng cao. Mời các bạn đón đọc Vợ Người Du Hành Thời Gian của tác giả Audrey Niffenegger.