Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson

 Có một miền đất nhiều vách đá, khô cằn và khắc nghiệt ở bắc đảo Briland, đất nước Scotland. Nó không lớn và cũng ít người. Dân ở đấy nghèo nhưng can đảm và chuộng tự do.  Người Scotland thường thêu trên lá cờ của mình những bông hoa nhỏ màu tím hồng của bụi trường xuân và cúc gai. Trường xuân là vật trang sức khiêm tốn của các sườn núi và bãi trống ven biển Scotland, còn cúc gai là hiện thân của sức sống kiên cường và mãnh liệt. Cũng như những cây ngưu bàng đã gợi cho Lép Tônxtôi, nhà văn Nga, suy nghĩ về những con người ở miền núi Đaghextan, những bụi trường xuân và cúc gai chính là tượng trưng của sức sống dẻo dai của người Scotland. Người Anh đã chiếm Scotland, nhưng không chỉ ở những thế kỷ trước, ngày nay người Scotland vẫn đấu tranh đòi tách đất nuớc mình ra khỏi Vương quốc Anh. Mặc dù giai cấp thống trị Scotland thoả hiệp và đầu hàng, có kẻ còn quên cả tiếng mẹ đẻ nhưng dân tộc Scotland vẫn không đầu hàng. Trong cuốn "Những người con của thuyền trưởng Grant", Giuyn Vécnơ, nhà văn Pháp đã ca ngợi những người Scotland thường luôn hướng về tổ quốc mình. Nghệ thuật Scotland không tàn lụi. Các bài ca của nó đã dược Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức nâng niu, được Oante Xcot, nhà văn Scotland đưa vào tiểu thuyết của mình. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Nghề cướp biển hồi đó rất thịnh hành. Bọn cướp biển người Anh đặc biệt đặc biệt hăng hái trong việc cướp bóc các thương thuyền của Ý chở vàng từ Mêhicô, Pêru và Ấn Độ. Các tàu cướp được hợp pháp hoá, được phép treo cờ Anh. Vua Anh sẵn sàng tiếp nhận của cải của bọn hải tặc dâng lên song cũng phẩy tay quay đi khi chúng rơi vào tai họa. "Đảo giấu vàng" phê phán nạn cướp biển, ca ngợi chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. "Mũi tên đen" được viết muộn hơn khi Stevenson đã trở nên nổi tiếng. Câu chuyện lùi lại những sự kiện xảy ra vào thế kỷ XV, thời kì đuợc gọi là cuộc chiến tranh Hoa Hồng Trắng và Hoa Hồng Đỏ của hai dòng họ lớn đều có tham vọng giành ngai vàng của nuớc Anh: York và Lancaster. Cuộc tranh giành kéo dài ba mươi năm này đã cuốn vào khói lửa không biết bao nhiêu con người và làm cho nứơc Anh kiệt quệ. Nhân dân không chờ mong điều gì tốt lành của những bên tham chiến, họ đã tự tổ chức phòng thủ hoặc trả thù các lãnh chúa phong kiến cưỡng bức mình. Họ trở thành các cung thủ tự do, thành "Jhon - trả - thù - cho - tất cả". Họ lập đảng "Mũi Tên Đen". Những người ban đầu bị cuốn hút vào chiến tranh như tiểu công tử Dick Shelton cũng mau chóng tỉnh ngộ và rời bỏ cái ác. Stevenson phê phán các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông tạo dáng ghê sợ cho những kẻ làm điều ác. Tên Silver thọt chân trong "Đảo giấu vàng", gã người gù khắc nghiệt và khát máu Richard York trong "Mũi Tên Đen".   Cái ác bị vạch trần đến tận cùng trong tiểu thuyết chín muồi nhất của Stevenson: "Master of Ballantrae". Vẻ ngoài của nó cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Các cuộc mạo hiểm trên biển, chuyến du lịch tới Ấn Độ, Bắc Mỹ… làm hấp dãn người đọc. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của nó là phô bày sự phân hoá của một gia đình Scotland. Vinh quang đến với Stevenson nhưng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Một lần nữa nhà văn lại tìm đến nơi khí hậu dễ chịu hơn, đó là Xamoa, một hòn đảo nằm giữa mênh mông trùng sóng Thái Bình Dương. Tại đây ông đứng về phía người bản xứ, bảo vệ họ và chống lại bọn thực dân xâm lược người Anh, Mỹ, Đức. Nhân dân Xamoa gọi ông bằng cái tên kính trọng: "Người viết ra lịch sử".   Tác phẩm của Stevenson đầy lạc quan, sự sảng khoái, vui vẻ, đầy chiến thắng. Có độc giả nghĩ ông là một anh chàng phong lưu, lớn lên bằng bí-tết và dồi, lúc nào cũng khoác áo đuôi tôm màu đỏ rong ruổi trong rừng, đi săn không biết mệt. Sự thực, sức khoẻ của ông ông mỗi lúc một suy sụp. Chính ở Xamoa, Stevenson đã trút hơi thở cuối cùng, vào ngày 03 tháng 12 năm 1894 khi mới bốn mươi lăm tuổi. Ngừơi ta mai táng ông trên một quả đồi nhỏ, trên mộ ghi những dòng kết của bài thơ "Khúc tưởng niệm" mà ông đã viết, trong đó có đoạn: Xin viết những dòng để nhớ về tôi: "Ông ta nằm đây, nơi ông ta muốn Người thuỷ thủ trở về từ biển lớn Người đi săn trở về từ giữa núi đồi". Stevenson hằng mơ ước những quyển sách của mình là bạn đường yêu quí của mỗi thuỷ thủ, mỗi người lính, mỗi nhà du lịch để họ thêm can đảm và có niềm vui, có chuyện kể cho nhau nghe trong những đêm dài trực canh, hay bên đống lửa xua tan gió rét. Mơ ước của nhà văn thật giản dị và ấm cúng. Trong các cuốn sách hay nhất của mình - trong đó có "Mũi Tên Đen" - Stevenson đã thực hiện được điều đó. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** - Tôi cũng muốn được như ngài nói. Tôi đồng ý câu nói của ngài. Ở ngài, lòng nhiệt tình của tuổi trẻ có nhiều hơn tội ác. Giá nếu mà hiệp sĩ Daniel không phải là một thế lực hùng mạnh của bên chúng tôi, thì tôi sẽ bảo vệ được ngài. Tôi đã dò hỏi và nhận bằng chứng rằng người ta sẽ xử sự khắc nghiệt với ngài. Tôi phải xin lỗi ngài về việc đó. Nhưng thưa ngài, tôi là lãnh tụ của phái ủng hộ nhà vua, nên dù cho tôi là một người công bằng, thậm chí có khuynh hướng thiên về tha thứ, bây giờ tôi cũng cần phải hành động theo quyền lợi của phe đảng mà giữ ngài Deniel bên phía chúng tôi. - Thưa đại nhân - Dick đáp lời - Ngài đừng cho tôi là hỗn láo và cho phép tôi đưa lời cảnh báo ngài. Chẳng lẽ ngài tin tưởng vào sự trung thực của Daniel hay sao? Theo tôi, hắn ta quá nhiều lần đổi chỗ từ phe này sang phe nọ. - Phải, người ta thừơng hay hành động như vậy ở nước Anh, vậy ngài muốn thế nào? - Bá tước hỏi. - Có điều ngài đã đánh giá không công bằng với hiệp sĩ vùng Tunstall, ông ta trung thành với chúng tôi, với phe Lancaster ở chừng mực thích ứng với thời dại không đáng tin hiện nay. Ông ta không phản bội ngay cả trong các thất bại nặng nề gần đây nhất của chúng tôi. - Nếu Bá tước cho là như thế thì mời Bá tước hãy xem lá thư này. Ngài sẽ thay đổi được chút ít trong nhận xét của mình - Dick chìa cho Bá tước lá thư của Daniel gửi cho Whensleydale. Khuôn mặt của Bá tước thay đổi. Ông trở nên dữ tợn như một con sư tử đang điên khùng, bàn tay thì nắm vào cán dao găm một cách không tự nhiên. - Anh cũng đã đọc lá thư này? - ông hỏi. - Tôi đã đọc, ngài thấy đấy, ông ta đề nghị cầu hoà bằng toàn bộ lãnh địa của ngài cho Whensleydale. - Đúng, anh nói đúng, bằng lãnh địa của tôi! - Bá tước đáp - Tôi là con nợ của anh qua lá thư này. Nó đã chỉ ra cho tôi cái hang cáo. Anh hãy ra lệnh cho tôi đi, tiểu công tử Shelton! Tôi sẽ không chậm trễ đáp lại ơn anh - dù cho anh là York hay Lancaster, dù cho anh là người lương thiện hay tên trộm cắp thì tôi cũng sẽ bắt đầu bằng việc trả lại tự do cho anh. Anh hãy đi đi vì danh sáng của Đức Mẹ! Nhưng anh đừng có tiếc rằng tôi sẽ giữ lại và treo cổ anh bạn Lawless của anh. Tội ác đã thực hiện trước công chúng, thì sự trừng phạt vẫn cần phải thi hành trước công chúng. - Thưa đại nhân, đây là đề nghị thứ nhất của tôi đối với ngài. Ngài hãy tha thứ cả cho anh ta - Dick yêu cầu. - Đó là một tên lưu manh già đời, tên lang thang và trộm cắp, anh Shelton ạ! - Bá tước nói - Từ lâu giá treo cổ đã chờ đợi hắn. Nếu người ta không treo cổ hắn sáng ngày mai thì hắn cũng sẽ được treo cổ muộn hơn một chút mà thôi. Thế thì tại sao lại không treo cổ hắn lên vào ngay ngày mai đi? ... Mời các bạn đón đọc Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xóm Vắng
Sương bước lên cầu, đứng dựa lan can nhìn làn nước trong xanh lặng lờ trôi giữa giòng sông. Ánh nắng lung linh trong ánh nước. Nàng đứng thẫn thờ nhìn dòng sông, rồi lại nhìn cảnh đồng ruộng bao la trước mắt. Nàng thở dài, không hiểu tại sao mình đến đây và đến để làm gì? Bên kia cầu, một ngôi cổ tự nằm im lìm dưới rặng dương cao vút, và xa xa rải rác những thôn trang đang sưởi mình dưới nắng. Sương bước qua cầu, đi thẳng về phía thôn xóm tiêu điều. Trời tháng năm, ánh nắng càng lúc càng gay gắt, khó chịu. Mồ hôi nhễ nhãi, đôi chân nặng nề nhưng Sương vẫn cố lê chân bước tới. Hai bên đường, dấu vết chiến tranh còn in hẳn nét tang thương. Đây đó cây cối xác xơ, cành rơi lá đổ. Ngoài xa, những vườn rau, các luống hoa lài vừa mới vun bồi, gầy dựng lại. Sương thở dài, tiếp tục lê chân. Nàng bỗng ngạc nhiên dừng lại trước một ngôi nhà đổ nát bên đường. Có lẽ ngôi nhà này bị phá hủy từ lâu, sao đến bây giờ chưa có ai sửa sang lại? Ngôi nhà cất theo lối mới, kiến trúc thật đẹp, tỉ mỉ, cứ nhìn qua những bức tường đổ nát và vườn tược còn sót lại chung quanh, cũng nhận thấy đó thuộc một gia đình vào hàng phong lưu, khá giả. Sương bước rẽ vào cổng nhà, trên cột trụ xi-măng tấm bảng đồng vẫn còn nguyên vẹn: "Mai Trang". Khung cửa sắt chỉ khép hờ, bên trong, lá khô đổ đầy mặt đất, cành gãy, gạch vụn rơi tứ tung, dây leo bám đầy vách. Nhìn cảnh "Mai Trang" hoang tàn đổ nát, lòng Sương buồn lâng lâng. Nơi đây chắc đã có một thời êm đẹp lắm. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Chủ nhân của ngôi nhà này và luôn cả gia đình không còn một người sống sót chăng? Sương lách mình qua cánh cửa sắt bước vào trong, ngồi nghỉ chân trên bực thềm. Ánh chiều đã xuống, nắng vàng còn lảng vảng trên mấy bức tường màu xám xịt. Mấy đóa hoa hồng cố vươn mình giữa đám cỏ hoang lắc lư dưới cơn gió chiều. Nhìn cảnh hoang tàn, thê lương bất giác Sương thở dài. Đâu đây có tiếng sột soạt trên lá khô khiến Sương giật mình lo sợ. Phía sau bức tường đổ, trong đám dây leo rậm rạp, có một chàng thanh niên từ từ đứng dậy. Sương suýt kêu lên một tiếng kinh hoàng, vì nàng không ngờ trong cảnh hoang tàn này lại còn có người ở. Có lẽ người ấy đã nằm trong góc tường từ lâu và sống như một bóng ma. Nàng đưa tay bụm miệng, cố ngăn không cho tiếng la xuất phát ra ngoài. Nàng trố mắt nhìn chàng trai đang lững thững bước đi. Chàng đưa tay lần theo vách tường đổ, còn một tay chống gậy cồm cộp trên mặt đất, đi ngay về phía nàng. Tim Sương đập thình thịch, nàng đang đứng giữa khoảng trống phía trước sân nhà, không một chỗ nào khuất để lẩn tránh. Thanh niên đã nhìn thấy rõ ràng và có lẽ đã trông thấy rõ nàng từ lâu nhưng Sương đã lầm, chàng ta quờ quạng bước tới, tay chống gậy dò đường, một tay lần vách. Rõ ràng là một người mù, mặc dầu đôi mắt chàng vẫn không khác gì người thường. Nàng thở một hơi dài trước hoàn cảnh đáng thương ấy. Nàng nhìn chàng trân trân, theo dõi từng bước đi của người tàn tật giữa cảnh hoang tàn đổ nát. Nhìn kỹ đó là một chàng thanh niên đứng tuổi, có lẽ đã xấp xỉ cỡ 40. Nét mặt chàng in rõ vẻ ưu tư sầu khổ, có lẽ trong đời chàng đã gặp quá nhiều sóng gió. Rồi Sương lại thấy thích những nét mặt dày dặn, rắn rỏi, có nhiều sức chịu đựng như thế. Chàng ăn mặc chỉnh tề, y phục may rất khéo, đó là một điều rất lạ đối với người đã bị tàn phế. Nhìn qua dáng điệu, nàng cũng đoán biết chàng là một người trong gia đình khá giả, nhưng tại sao lại đến nơi hoang vắng này? Chàng lần dò từng bước giữa những đống gạch vụn. Có lúc bị vấp chân, chàng loạng choạng muốn ngã. Bóng chàng nằm dài dưới ánh nắng chiều... Thỉnh thoảng lại chớp chớp đôi mi như suy nghĩ điều gì khó khăn lắm. Bóng người cô đơn tàn phế giữa cảnh hoang tàn khiến Sương xúc động, đôi mi nàng ươn ướt lúc nào không hay. Bỗng nhiên chàng vấp phải một mẩu gạch to, người lảo đảo về phía trước suýt té. Sương giựt mình không kịp suy nghĩ gì cả, vội chạy tới đỡ chàng: - Ý... Coi chừng. Thanh niên giựt mình kinh ngạc, rồi chớp chớp đôi mi như cố nhìn Sương: - Ai đó? Giọng chàng trầm ấm nghe rất dễ có cảm tình... Sương không trả lời ngay được, mà chỉ ngẩng mặt nhìn chàng trân trân. Đã ngoài 30 tuổi rồi, đây là lần thứ nhất nàng mới nhìn thấy một gương mặt thanh niên in rõ nét đau khổ, xót xa và chan chứa những hy vọng tha thiết trong lòng. Không nghe nàng trả lời, chàng lại hỏi tiếp: - Ai vậy? Vừa... Vừa giúp tôi đó? Sương thở ra nhè nhẹ, trấn tĩnh tinh thần: - Dạ tôi. - Tôi?... Mà là ai? *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Xóm Vắng của tác giả Quỳnh Dao.
Người Đàn Bà Trên Cầu Thang
Trong một phòng tranh ở Sydney, người đàn ông tình cờ bắt gặp bức tranh vẽ cô gái đã từng khiến ông sẵn sàng vứt bỏ hết thảy để rồi ngoạn mục biến khỏi đời ông. Sau đó, như từ bóng tối bước ra sân khấu, những nhân vật chính mắc kẹt trong cuộc tình tay bốn năm xưa đều xuất hiện. Họa sĩ nổi tiếng thế giới, nhà tài phiệt, và luật sư tái ngộ cùng cô gái trong tranh trên một bờ vịnh Úc, mong muốn giành lại thứ họ nghĩ phải thuộc về mình. Nhưng chuyện đời không đơn giản - đối với một tác phẩm nghệ thuật mà mọi bảo tàng thế giới đều săn lùng, cũng như đối với Irene mà cuộc đời có nhiều góc khuất, khi tuổi tác của tất cả họ đều đã về chiều, và định mệnh thì thường khắc nghiệt... *** Người đàn bà trên cầu thang của tác giả Bernhard Schlink, một câu chuyện tình lãng mạn, thậm chí có phần “sến sẩm". Nhưng qua đó, mỗi người đọc đều có thể tìm cho mình kho tàng kiến thức đáng quý, về một thời đã qua của nước Đức, ẩn sau những tình tiết, câu chữ đầy mê hoặc. Cuốn tiểu thuyết vừa mới được giới thiệu tới độc giả Việt Nam trong buổi ra mắt sách diễn ra tại Viện Gothe. Dịch giả của cuốn sách – Lê Quang cùng biên tập viên Trần Kiều Vân là 2 diễn giả chính trong buổi tọa đàm này. Thông qua Người đàn bà trên cầu thang, qua câu chuyện xoay quanh chuyện tình tay bốn giữa họa sĩ nổi tiếng thế giới, nhà tài phiệt, luật sư và cô gái, Bernhard Schlink đã phơi bày bức tranh sự thật về thực tế lịch sử của nước Đức. Đó là thời kì mà bức tường Berlin đã chia cắt nước Đức thành 2 nửa Tây và Đông Đức. Và nhân vật cô gái trong truyện, vì chạy trốn sự truy nã của nhà cầm quyền Cộng hòa liên bang Đức do tham gia một tổ chức khủng bố, đã rời bỏ người chồng tài phiệt giàu có, cùng với anh họa sĩ trốn sang Cộng hòa Dân chủ Đức ở phía Đông. Cô gái đã kịp nhận ra vẻ đep của một Đông Đức mà trước đó cô chưa hề nhận thấy, cho đến khi bức tường Berlin sụp đổ đảo chiều tất cả. Quang cảnh buổi giới thiệu "Người đàn bà trên cầu thang" Tác giả Bernhard Schlink là một luật sư, ở ông có sự khô khan và thực tế. Nhưng đọc truyện của ông, người đọc vẫn có thể thổn thức với sự gợi cảm mà ở đó, từng chi tiết và câu từ được ông vuốt ve thật mượt mà. Với biệt tài mổ xẻ những ẩn ức tăm tối trong lòng người, Bernhard Schlink đã viết nên một tiểu thuyết về tình yêu thật cuốn hút, mê hoặc. Và dịch giả Lê Quang, với sự am hiểu về ngôn ngữ cùng văn hóa Đức, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Người đàn bà trên cầu thang là câu chuyện mà với người đọc “hăng hái“ có thể lướt qua nó trong vòng 2 ngày. Nhưng có lẽ, đó khó có thể là một câu chuyện mà bất kì ai có thể cảm nhận được hết giá trị chỉ với một lần mở sách, về những ý nghĩa, kiến thức mà tác giả đã lồng ghép đầy tinh tế qua từng câu từ", dịch giả Lê Quang nói. Đây không phải là một cuốn tiểu thuyết tình cảm nhẹ nhàng, để ta mang theo khi du lịch, vừa đọc vừa thư giãn dưới ánh đèn mờ rồi bỏ nó lại khách sạn sau những ngày nghỉ. “Người đàn bà trên cầu thang” ẩn chứa nhiều vấn đề khiến người ta phải suy ngẫm. Nó mang nhiều giá trị, ý nghĩa và lợi ích cho độc giả mà ai cũng có thể rút ra được một chút kiến thức (nói một cách khiêm tốn) cùng bài học đáng quý. Bernhard Schlink (sinh 1944 ở Đức) là giáo sư Luật và thẩm phán Tòa án hiến pháp cấp bang, đã viết gần 20 tác phẩm, được trao nhiều giải thưởng văn học trong và ngoài nước Đức. Ông nổi tiếng với tiểu thuyết Người đọc (1995) - giải Prix Laure Bataillon cho văn học dịch của Pháp, giải Grinzane Cavour của Ý... Tiểu thuyết mới nhất Người đàn bà trên cầu thang vừa xuất bản đã lọt vào danh sách bestseller của tác chí Der Spiegel, và bán bản quyền dịch cho hơn 10 nước trên thế giới. Bernhard Schlink hiện đang sống ở Berkshire (Massachusetts) và Berlin.    *** Bernhard Schlink (sinh 1944 ở Đức), là giáo sư luật và là thẩm phán tòa án hiến pháp cấp bang, đã viết gần 20 tác phẩm, được trao nhiều giải thưởng văn học trong và ngoài nước Đức. Ông nổi tiếng với tiểu thuyết "Người đọc" (1995) - giải Prix Laure Bataillon dành cho văn học dịch của Pháp, giải Grinzane Cavour của Italia... Tiểu thuyết "Người đàn bà trên cầu thang" của ông vừa xuất bản đã lọt vào danh sách bestseller của tạp chí Der Spiegel, đã bán bản quyền dịch cho đối tác tại hơn 10 quốc gia. Trong "Người đàn bà trên cầu thang", tình tiết xoay quanh các nhân vật chính gồm một họa sĩ nổi tiếng thế giới, một nhà tài phiệt, một luật sư - cả ba cùng yêu một cô gái. Với biệt tài mổ xẻ ẩn ức trong lòng người, cách hành văn dễ hiểu, trong trẻo và trí tuệ, Bernhard Schlink đã viết nên một tiểu thuyết cuốn hút, khiến bạn đọc ngẫm ngợi về thân phận con người. *** Có thể một hôm nào đó mọi người sẽ thấy bức tranh. Nó mất tích đã lâu rồi, nay đột ngột xuất hiện, và bảo tàng nào cũng săn đuổi. Chả gì thì Karl Schwind giờ đây cũng là họa sĩ nổi danh nhất và đắt giá nhất thế giới. Vào dịp sinh nhật thứ bảy mươi của ông, tôi thấy mặt ông trên mọi tờ báo và kênh tin tức, dù là phải ngắm mất một lúc mới nhận ra chàng trai ngày nào sau gương mặt già nua hôm nay. Nhưng bức tranh thì tôi nhận ra được ngay. Tôi bước vào gian cuối của phòng tranh, nó treo ở đó và làm tôi choáng váng như ngày nào, khi tôi vào phòng khách nhà Gundlach và thấy nó lần đầu. Một cô gái đang xuống thang. Chân phải cô đặt lên bậc dưới, chân trái còn chưa rời bậc trên nhưng đã dợm vào bước tiếp theo. Cô gái khỏa thân, da xanh tái, gò vệ nữ và mái đầu phủ vàng rơm, tóc cô lóng lánh phản chiếu ánh sáng. Khỏa thân, xanh tái, vàng rơm - trên nền xanh xám của những bậc thang và tường vẽ mờ ảo, cô bồng bềnh nhẹ trôi về phía người thưởng lãm, nhưng đồng thời cặp đùi thon dài, phần hông nở tròn trịa và hai bầu vú săn chắc lại trĩu nặng đam mê. Tôi chầm chậm tiến lại gần bức tranh. Tôi ngượng ngùng, và đó cũng là cảm xúc giống ngày nào. Hồi ấy tôi ngượng ngùng vì cô gái trước đó một hôm còn ngồi trước mặt tôi trong quần bò, crop top và áo khoác, nay hiện ra trần trụi trước mắt. Hôm nay tôi ngượng ngùng vì bức tranh nhắc tôi nhớ đến những gì xảy ra ngày đó, những gì tôi sa vào và sau đó chỉ muốn xóa khỏi trí nhớ thật nhanh. “Người đàn bà trên cầu thang”, tấm biển nhỏ cạnh bức tranh ghi vậy, và cho biết tác phẩm được mượn về. Tôi tìm ông giám tuyển và hỏi ai là người cho phòng tranh nghệ thuật này mượn. Ông đáp, ông không được phép nói tên. Tôi nói, tôi quen người phụ nữ trong tranh và chủ nhân tác phẩm, và có thể báo trước cho ông rằng sẽ có tranh cãi về quyền sở hữu bức tranh. Ông nhíu mày nhưng không đổi ý, không được phép cho tôi biết tên. Chuyến bay trở về Frankfurt của tôi được đặt vào chiều thứ Năm. Sau khi kết thúc các thương lượng ở Sydney vào sáng thứ Tư, lẽ ra tôi có thể đổi chuyến bay sang chiều thứ Tư. Song tôi thích đến Vườn Bách thảo vào chiều hôm ấy. Tôi định ăn trưa ở đó, nằm lăn ra cỏ và tối đến Nhà hát nhạc kịch xem vở Carmen. Tôi thích Vườn Bách thảo, nó giáp với một nhà thờ lớn về phía bắc, còn phía nam nằm kề Nhà hát nhạc kịch, trong đó có Phòng trưng bày nghệ thuật và Nhạc viện, và từ đỉnh đồi ấy có thể phóng tầm mắt xuống vịnh. Vườn Bách thảo có các khu trồng cọ, hồng và thảo mộc, có ao hồ, khu ngồi nghỉ dưới tán cây, tượng và nhiều bãi cỏ với cây cổ thụ, có ông bà và các cháu, có những người đàn ông và đàn bà cô đơn dắt chó, các nhóm picnic và đôi tình nhân, người đọc sách và người nằm ngủ. Trên bao lơn của nhà hàng giữa vườn, thời gian như ngừng trôi: cột nhà cổ kính bằng gang đúc, lan can sắt và các cây to có chồn bay, chim chóc với bộ lông sặc sỡ và mỏ cong. Tôi đặt đồ ăn rồi gọi điện cho bạn đồng nghiệp. Ông ta là người chuẩn bị vụ sáp nhập doanh nghiệp về phía Úc, tôi làm bên phía Đức. Như trong các vụ sáp nhập doanh nghiệp, hai chúng tôi vừa là đối tác lại vừa là đối thủ. Nhưng chúng tôi cùng tuổi, đều là chuyên gia thuộc một trong những phòng luật lớn chưa bị người Mỹ hay người Anh thôn tính, cả hai đều góa vợ và thân nhau. Tôi hỏi ông về dịch vụ thám tử mà phòng luật của ông sử dụng, và ông cho tôi biết tên. “Chúng tôi có thể giúp gì cho ông không?” “Không có gì đâu, chỉ chút tò mò từ lâu, nay cần giải đáp.” Tôi gọi điện đến dịch vụ thám tử, cần biết ai là chủ sở hữu bức tranh của Karl Schwind trong Phòng tranh New South Wales, có phải đó là một phụ nữ tên họ khai sinh là Irene Gundlach hoặc khi lấy chồng mới lấy họ Gundlach theo chồng, và có phụ nữ nào tên như thế sống ở Úc không. Ông giám đốc phòng thám tử hy vọng sẽ cung cấp tin cho tôi sau vài ngày. Tôi hứa sẽ thưởng nếu ngay sáng mai có thông tin. Ông ta cười. Hoặc hôm nay lấy được thông tin từ phòng tranh nghệ thuật, hoặc vài hôm nữa mới có, thưởng hay không thưởng cũng vậy thôi. Ông hứa sẽ gọi lại. Mời các bạn đón đọc Người Đàn Bà Trên Cầu Thang của tác giả Bernhard Schlink & Lê Quang (dịch).
Alabama Song (Tiếng Việt)
Có những kẻ ẩn mình để trộm cắp, để giết chóc, để bội phản, để yêu thương, để hưởng thụ. Tôi thì phải ẩn mình để viết. Vừa tròn hai mươi tôi đã rơi vào vòng chi phối - chế ngự - của một người đàn ông lớn tuổi hơn đôi chút, người ấy muốn định đoạt cuộc đời tôi và đã tiến hành chuyện đó hết sức bất lương. *** Montgomery, Alabama, 1918. Zelda Sayre, con gái một gia đình quyền quý, gặp viên trung úy Scott Fitzgerald, một cuộc gặp gỡ định mệnh. Với những rạo rực của một cô gái trẻ bước vào đời, mong muốn vượt thoát mọi ràng buộc của xã hội tỉnh lẻ miền Nam, Zelda cùng Scott lao mình về phía thiên đường. Thành công vang dội của cuốn tiểu thuyết đầu tay của viên trung úy sau này được ca tụng là nhà văn lỗi lạc nhất nhì thời đại đã biến cặp đôi thành đứa con cưng của giới thượng lưu New York. Vậy nhưng thiên đường có là vô tận khi tiếp nối chuỗi những dạ tiệc xa hoa, hội hè rực rỡ là những cơn say triền miên, là chứng tâm thần phân lập, là những giày vò giằng xé lẫn nhau đưa đến cái kết của một bi kịch phủ nhung? Hóa thân thành Zelda Fitzgerald trong cuốn tự truyện hư cấu, Gilles Leroy hé lộ phần nào số phận bí ẩn và bi thảm của cặp đôi từng là hai ngôi sao sáng chói trên vòm trời văn chương phương Tây những năm 20 thế kỷ trước: Scott Fitzgerald, tác giả The Great Gatsby và Zelda, vợ ông. Alabama Song đã mang lại cho tác giả giải Goncourt 2007.   “Leroy kể lại nỗi đau của một người đàn bà mà để trở thành nàng thơ của một thiên tài đã từ từ bước xuống địa ngục.”– L'Express *** “Cuốn tự truyện hư cấu này được dẫn dắt bởi một bàn tay bậc thầy.” – Le Point   “Tác giả hóa thân tuyệt vời trong giọng điệu của một người phụ nữ đổ vỡ. Người đọc chạm đến sự tinh tế tuyệt đỉnh.” – Danielle Laurin - Radio-Canada   “Tài năng của Gilles Leroy là không dùng tưởng tượng mà lên đường đến tận Montgomery để mang đến cho người đọc mùi hương nồng nàn của hoa mộc lan, giọng điệu xúc động của người đàn bà đứng đằng sau một cây viết vĩ đại.” – Elle *** Gilles Leroy sinh năm 1958 tại Bagneux (Haute-de-Seine), có bằng cử nhân văn chương hiện đại năm 1979. Ông đã từng làm nhiều nghề trước khi trở thành nhà báo. Năm 1996, Gilles Leroy rời Paris về sống ở nông thôn để chuyên tâm viết văn và tự nghiên cứu văn học Mỹ cùng văn học Nhật. Xuất bản năm 2007, Alabama Song đã giành được giải Goncourt trong năm đó. ***     Bỗng nhiên, thành phố lơ mơ ngái ngủ của chúng tôi bị xâm chiếm bởi hàng nghìn thanh niên trai tráng, phần lớn là những gã trai thảm hại, bị lôi ra khỏi trang trại, đồn điền, quầy hàng của họ, từ khắp các bang miền Nam trong khi các sĩ quan mới tốt nghiệp trường quân sự của họ lại xuống từ phương Bắc, từ vùng Hồ Lớn và từ các thảo nguyên (kể từ nội chiến đến giờ người ta chưa khi nào thấy ngần ấy bọn yankee trong thành phố, mẹ bảo tôi như vậy). Trẻ như thế, hừng hực như thế, các chiến binh tươi cười ồn ã sà xuống chúng tôi và đổ dồn theo những con phố của chúng tôi tựa như những đám mây chim chóc dày đặc trong bộ lông màu xanh lơ hoặc xám hoặc xanh lục, một số có mào bằng vàng hoặc bằng bạc, điểm đốm mắt bằng những ngôi sao cho lòng quả cảm và những phù hiệu nhiều màu - nhưng tất cả, lũ chim hạng lính tổng động viên cũng như lũ chim hạng sĩ quan chuyên nghiệp, những kẻ chủ trương ly khai hay những người ủng hộ phong trào phế nô, rốt cuộc cũng liên kết lại, nếu không phải là hòa giải với nhau, tất cả chẳng bao lâu sẽ lại lên đường cho một chuyến đi dài vượt Đại dương về phía châu Âu già cỗi, vẫn chưa phải châu Âu trong mơ của chúng tôi mà là châu lục của một nỗi kinh hoàng lạ lẫm, sự lạ lẫm nằm ở chỗ người ta phải chết trong một cuộc chiến ngoại quốc. Nếu có sợ đi chăng nữa, họ cũng không để lộ ra ngoài. Những buổi khiêu vũ diễn ra khắp nơi trên phố, tại các khu sân bay bao quanh thành phố và trong các trại huấn luyện. (Đó là sự lạ, quả đúng vậy, một sự hi hữu, chưa được lý giải: không một thành phố nào diện tích khiêm tốn như Montgomery lại có chừng ấy sân bay. Và vậy là thành phố nực cười của chúng tôi được chọn làm nơi huấn luyện hàng loạt các cậu bé mà người ta sẽ giao nộp cho chiến trận - Cuộc chiến, họ gọi thế, Trận chiến.) Tôi còn nghe thấy từ họ phát ra những âm thanh lộn xộn đầy cuồng nhiệt: tiếng giày nhà binh kiêu hãnh gõ đôm đốp xuống mặt đường, tiếng gào rống và tiếng ly cốc chạm vào nhau, như thể hai mươi nghìn gã trai đang tạo thành một cơ thể to lớn duy nhất, một người khổng lồ với các mạch máu nóng bỏng nơi người ta có thể nghe thấy chất ađrênalin sôi ùng ục và một bầu nhựa sống căng tràn không thể kìm nén. Như thể mối nguy cận kề và niềm tin chắc vào những cú sốc khác, vào những cơn quá khích khác, những cú sốc và những cơn quá khích chết người, đã khiến những gã đàn ông này thêm phần quậy phá ồn ĩ, thơ trẻ và sảng khoái lạ thường. Và chúng tôi, những Mỹ nhân miền Nam, tôi không rõ những cậu trai này nhìn chúng tôi như thế nào: một đàn ong phát tiếng vo vo, có lẽ vậy, hay một chuồng chim ruồi và vẹt mái hốt hoảng cũng nên. Lý do duy nhất để thức dậy và sống, đó là chờ đợi cuộc duyệt binh mới trong thành phố, và, đối với những cô gái may mắn như tôi, không bị bố mẹ kìm giữ bằng vòng mũi để vực ngựa, thì là chờ đợi buổi vũ hội tiếp theo tại Country Club hoặc tại phòng ăn của doanh trại Sheridan. Bố đã hết sức cố gắng giam lỏng tôi trong nhà chừng nào các đội quân vẫn lưu lại trong thành phố. Ông, vị viên chức nhà nước xanh rớt và rụt rè, vị luật gia khắc khổ tối nào cũng ngủ cùng lúc với mặt trời, dĩ nhiên là ông chỉ nhìn ra trong đám lính hung hãn vô kỷ luật một lũ thô lậu đồi bại đầy ám muội, những tên tội phạm cưỡng dâm và sát nhân. Minnie - cảm ơn mẹ - đã cho phép tôi tới Country Club, chứ không phải bất kỳ một vũ hội nào khác, một khán phòng nào khác, cho phép đi tới nửa đêm. Bà thức đợi tôi về mới đi ngủ, lúc đó đã quá mười hai giờ đêm từ lâu. Trung úy Fitzgerald hai mươi mốt tuổi và đã bộc lộ nhiều tài năng. Anh khiêu vũ rất tuyệt tất cả các điệu thịnh hành, dạy tôi nhảy turkey trot, maxie và aeroplane; anh viết những truyện ngắn trong nay mai sẽ được đăng báo, anh chắc chắn về điều ấy; anh sạch sẽ và lịch lãm, anh biết tiếng Pháp - chính nhờ thạo tiếng Pháp mà anh được đào tạo thành trung úy lục quân sau khi tốt nghiệp Princeton, những người nói tiếng Pháp đều được hưởng quyền ưu đãi đẩy họ lên tới hàng sĩ quan - và nhất là anh lại sạch sẽ và chải chuốt, cách ăn vận của anh đỏm dáng chẳng khác nào một dandy*. Bộ quân phục của anh được cắt may tại tiệm anh em nhà Brooks ở New York. Đi cùng chiếc quần cưỡi ngựa màu xanh lá mạ của anh, thay vì đôi ghệt bằng vải như thường thấy là đôi giày ống cao, màu vàng rơm, với những chiếc đinh thúc ngựa đem lại cho anh một dáng vẻ không thực lắm của một người hùng trên báo ảnh. • Dandy là từ dùng để chỉ những người đặc biệt kỹ tính và có gu trong ăn mặc. (Các chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch) Anh thấp bé, đúng vậy, nhưng khiếm khuyết thiếu vài centimet này được bù lại bằng một thân hình cân đối được tôn bật nhờ chiếc áo vest ôm sát người của bộ quân phục, bằng một vầng trán cao và một cái-gì-tôi-không-rõ (lòng tự tin vì đang là một ai đó, sự chắc chắn vào bản thân, ý thức rằng một định mệnh vô song đang chờ đợi), bằng một dáng vẻ phi thường, cái thực ra đã nâng anh cao thêm một cái đầu. Lũ đàn bà sửng sốt và lũ đàn ông cũng vậy. Một ngày nào đó tôi sẽ phải suy ngẫm về cái sự kỳ quái này: không một ai trong số các đồng đội ganh ghét với anh hay tức tối. Không hề, như thể những gã đàn ông khác đều chấp nhận sức lôi cuốn của anh và cổ vũ cho điều đó... Càng làm tôi bối rối bao nhiêu anh càng trêu ngươi tôi bấy nhiêu! Đoạn tuyệt với những giấc mơ của mi đi. Ngay lập tức. Mời các bạn đón đọc Alabama Song (Tiếng Việt) của tác giả Gilles Leroy.
Săn Và Bẫy Thú
Từ trước đến nay những câu chuyện về săn thú, bẫy thú thường rất hấp dẫn. Từ chuyện đi dụ voi rừng, đánh hổ bằng đòn xóc tới chuyện đào hang con trút, rồi ngay cả việc bẫy chim, thổi ống xì đồn bắn cá tràu bông đều có những lý thú riêng biệt. Tập này gồm 6 truyện: săn rái cá, săn khỉ, săn gấu, săn chồn vàng, săn lợn rừng …. Ở mỗi truyện đều có những nét hấp dẫn và phong phú. Là người đi săn, ai cũng mong bắt, bắn được thú, nhưng có khi săn hụt vẫn đem lại niềm vui cho con người. Các con thú đều có cái tinh khôn riêng, nhưng dù to như gấu, hung dữ như hổ, tất thảy đều thua trí thông minh con người. Các bạn sẽ tìm thấy ở đây một số kiến thức bổ ích về thú vật, về săn bắn và bẫy thú. *** Trưa ấy, trên đường trở về cơ quan, Thiện và Đối, anh bạn tí hon rất xông xáo ấy, nghỉ chân ở một bìa rừng ăn nốt phần cơm nắm còn lại. Thiện ăn xong trước. Anh tìm lối đi xuống bờ suối lấy nước lên nấu uống. Uống với nụ vối rừng chín tươi mới hái vàng như hoa ngâu thì rất ngọt cổ. Vốn là tay quen nghề săn bắn nên bước đi của anh đã thành thói quen, bước thật nhẹ nhàng. “Hắn đi như mèo đi”, anh em thường bảo đùa vậy. Chưa đến bờ suối, bỗng anh nghe rõ ở dưới kia có những tiếng lõm bõm lạ tai, giống như có con vật gì đang ăn chùm quả chín làm rơi rụng đôi trái xuống mặt nước suối. Thiện càng bước khẽ, không đặt chân vào lá khô, một tay nắm khéo chiếc cà – mèn không cho nó chạm vẹt vào cành cây hay tảng đá, cũng không cho phần quai sắt đu đưa lắc lư qua về trên miệng cà – mèn. Đã ở trong quân đội qua ba năm chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên, lại thêm chuyên nghề săn bắn, anh có nhiều kinh nghiệm trong lối phục kích giặc – cũng như phục kích thú săn. Chỉ nghe qua tiếng động, anh phân biệt chính xác từng lối đi con thú ... Đó, đó là cả đoàn voi: bước đi ào ào như máy ủi cây, kiểu đi luôn hiên ngang, ỷ đến sức mạnh không chỉ riêng vào từng con mà chung cả bầy, vừa bước vừa ném vòi vít cành vít ngọn bẻ rắc những thân cây nào ngang tầm vòi với tới, và trước khi tống cả túm là vào miệng còn huơ vòi đập vào chân mình bên này bên kia mấy cái để phủi kiến, phủi sâu, y như kẻ nhổ mạ xong vội quay đập túm rễ vào chân mình cho văng bớt bùn, bớt đất. Đó là con hổ: đi dè dặt khoan thai để dễ bề trở quẻ, rất cảnh giác đề phòng, hai chân trước mỗi chân vững, khoẻ gấp đôi so với mỗi chân sau, nhưng phép đặt bước lại quá hiền, quá êm, không gây thành tiếng động, đang đi bình thường mặc dù chẳng gặp một lá non nào cản trở, cũng dừng lại “phè gió” một cái lấy oai rồi mới bước tiếp. Đó là con heo rừng, heo một: dám đi ăn giữa ban ngày ban mặt, đôi nanh như đôi kiếm ưỡn cong, bước đi lúm chúm, vừa đi vừa hất hất mặt như muốn sinh sự với tất cả, ỷ vào cái mũi rất thính của mình nên không cần dè dặt lắm, bước được mấy bước lại dừng lại hướng mặt lên cao nghe ngóng như điệu đi của những người mù, luôn với tư thế sẵn sàng xốc tới. Đó là con chồn đèn: con vật chuyên ăn đêm, sở dĩ phải đi ra ban ngày là vì vừa rồi chắc gặp phải con thú khác săn đuổi, bước đi rất đắn đo, vừa bước vừa ngửi đất đánh hơi, mũi thính có thể phân biệt được cách đây khoảng ba hôm, trên lối mòn này đã có chân con cọp hay con beo bước qua. Chồn đi thường không dám theo vết đường mòn mà chỉ xuyên rừng xuyên bụi, cứ gần đến một lối mòn cắt ngang trước mặt thì chuẩn bị thật cẩn thận chu đáo, giỏng đôi tai ngang song song với cái mặt đưa ra trước, nhìn qua nhìn về xong là phóng vút như ném con thoi ... Mời các bạn đón đọc Săn Và Bẫy Thú của tác giả Trần Thanh Địch.