Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson

 Có một miền đất nhiều vách đá, khô cằn và khắc nghiệt ở bắc đảo Briland, đất nước Scotland. Nó không lớn và cũng ít người. Dân ở đấy nghèo nhưng can đảm và chuộng tự do.  Người Scotland thường thêu trên lá cờ của mình những bông hoa nhỏ màu tím hồng của bụi trường xuân và cúc gai. Trường xuân là vật trang sức khiêm tốn của các sườn núi và bãi trống ven biển Scotland, còn cúc gai là hiện thân của sức sống kiên cường và mãnh liệt. Cũng như những cây ngưu bàng đã gợi cho Lép Tônxtôi, nhà văn Nga, suy nghĩ về những con người ở miền núi Đaghextan, những bụi trường xuân và cúc gai chính là tượng trưng của sức sống dẻo dai của người Scotland. Người Anh đã chiếm Scotland, nhưng không chỉ ở những thế kỷ trước, ngày nay người Scotland vẫn đấu tranh đòi tách đất nuớc mình ra khỏi Vương quốc Anh. Mặc dù giai cấp thống trị Scotland thoả hiệp và đầu hàng, có kẻ còn quên cả tiếng mẹ đẻ nhưng dân tộc Scotland vẫn không đầu hàng. Trong cuốn "Những người con của thuyền trưởng Grant", Giuyn Vécnơ, nhà văn Pháp đã ca ngợi những người Scotland thường luôn hướng về tổ quốc mình. Nghệ thuật Scotland không tàn lụi. Các bài ca của nó đã dược Beethoven, nhạc sĩ thiên tài người Đức nâng niu, được Oante Xcot, nhà văn Scotland đưa vào tiểu thuyết của mình. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Nghề cướp biển hồi đó rất thịnh hành. Bọn cướp biển người Anh đặc biệt đặc biệt hăng hái trong việc cướp bóc các thương thuyền của Ý chở vàng từ Mêhicô, Pêru và Ấn Độ. Các tàu cướp được hợp pháp hoá, được phép treo cờ Anh. Vua Anh sẵn sàng tiếp nhận của cải của bọn hải tặc dâng lên song cũng phẩy tay quay đi khi chúng rơi vào tai họa. "Đảo giấu vàng" phê phán nạn cướp biển, ca ngợi chiến thắng của cái thiện đối với cái ác. "Mũi tên đen" được viết muộn hơn khi Stevenson đã trở nên nổi tiếng. Câu chuyện lùi lại những sự kiện xảy ra vào thế kỷ XV, thời kì đuợc gọi là cuộc chiến tranh Hoa Hồng Trắng và Hoa Hồng Đỏ của hai dòng họ lớn đều có tham vọng giành ngai vàng của nuớc Anh: York và Lancaster. Cuộc tranh giành kéo dài ba mươi năm này đã cuốn vào khói lửa không biết bao nhiêu con người và làm cho nứơc Anh kiệt quệ. Nhân dân không chờ mong điều gì tốt lành của những bên tham chiến, họ đã tự tổ chức phòng thủ hoặc trả thù các lãnh chúa phong kiến cưỡng bức mình. Họ trở thành các cung thủ tự do, thành "Jhon - trả - thù - cho - tất cả". Họ lập đảng "Mũi Tên Đen". Những người ban đầu bị cuốn hút vào chiến tranh như tiểu công tử Dick Shelton cũng mau chóng tỉnh ngộ và rời bỏ cái ác. Stevenson phê phán các cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ông tạo dáng ghê sợ cho những kẻ làm điều ác. Tên Silver thọt chân trong "Đảo giấu vàng", gã người gù khắc nghiệt và khát máu Richard York trong "Mũi Tên Đen".   Cái ác bị vạch trần đến tận cùng trong tiểu thuyết chín muồi nhất của Stevenson: "Master of Ballantrae". Vẻ ngoài của nó cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Các cuộc mạo hiểm trên biển, chuyến du lịch tới Ấn Độ, Bắc Mỹ… làm hấp dãn người đọc. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của nó là phô bày sự phân hoá của một gia đình Scotland. Vinh quang đến với Stevenson nhưng bệnh tật ngày càng trầm trọng. Một lần nữa nhà văn lại tìm đến nơi khí hậu dễ chịu hơn, đó là Xamoa, một hòn đảo nằm giữa mênh mông trùng sóng Thái Bình Dương. Tại đây ông đứng về phía người bản xứ, bảo vệ họ và chống lại bọn thực dân xâm lược người Anh, Mỹ, Đức. Nhân dân Xamoa gọi ông bằng cái tên kính trọng: "Người viết ra lịch sử".   Tác phẩm của Stevenson đầy lạc quan, sự sảng khoái, vui vẻ, đầy chiến thắng. Có độc giả nghĩ ông là một anh chàng phong lưu, lớn lên bằng bí-tết và dồi, lúc nào cũng khoác áo đuôi tôm màu đỏ rong ruổi trong rừng, đi săn không biết mệt. Sự thực, sức khoẻ của ông ông mỗi lúc một suy sụp. Chính ở Xamoa, Stevenson đã trút hơi thở cuối cùng, vào ngày 03 tháng 12 năm 1894 khi mới bốn mươi lăm tuổi. Ngừơi ta mai táng ông trên một quả đồi nhỏ, trên mộ ghi những dòng kết của bài thơ "Khúc tưởng niệm" mà ông đã viết, trong đó có đoạn: Xin viết những dòng để nhớ về tôi: "Ông ta nằm đây, nơi ông ta muốn Người thuỷ thủ trở về từ biển lớn Người đi săn trở về từ giữa núi đồi". Stevenson hằng mơ ước những quyển sách của mình là bạn đường yêu quí của mỗi thuỷ thủ, mỗi người lính, mỗi nhà du lịch để họ thêm can đảm và có niềm vui, có chuyện kể cho nhau nghe trong những đêm dài trực canh, hay bên đống lửa xua tan gió rét. Mơ ước của nhà văn thật giản dị và ấm cúng. Trong các cuốn sách hay nhất của mình - trong đó có "Mũi Tên Đen" - Stevenson đã thực hiện được điều đó. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. *** - Tôi cũng muốn được như ngài nói. Tôi đồng ý câu nói của ngài. Ở ngài, lòng nhiệt tình của tuổi trẻ có nhiều hơn tội ác. Giá nếu mà hiệp sĩ Daniel không phải là một thế lực hùng mạnh của bên chúng tôi, thì tôi sẽ bảo vệ được ngài. Tôi đã dò hỏi và nhận bằng chứng rằng người ta sẽ xử sự khắc nghiệt với ngài. Tôi phải xin lỗi ngài về việc đó. Nhưng thưa ngài, tôi là lãnh tụ của phái ủng hộ nhà vua, nên dù cho tôi là một người công bằng, thậm chí có khuynh hướng thiên về tha thứ, bây giờ tôi cũng cần phải hành động theo quyền lợi của phe đảng mà giữ ngài Deniel bên phía chúng tôi. - Thưa đại nhân - Dick đáp lời - Ngài đừng cho tôi là hỗn láo và cho phép tôi đưa lời cảnh báo ngài. Chẳng lẽ ngài tin tưởng vào sự trung thực của Daniel hay sao? Theo tôi, hắn ta quá nhiều lần đổi chỗ từ phe này sang phe nọ. - Phải, người ta thừơng hay hành động như vậy ở nước Anh, vậy ngài muốn thế nào? - Bá tước hỏi. - Có điều ngài đã đánh giá không công bằng với hiệp sĩ vùng Tunstall, ông ta trung thành với chúng tôi, với phe Lancaster ở chừng mực thích ứng với thời dại không đáng tin hiện nay. Ông ta không phản bội ngay cả trong các thất bại nặng nề gần đây nhất của chúng tôi. - Nếu Bá tước cho là như thế thì mời Bá tước hãy xem lá thư này. Ngài sẽ thay đổi được chút ít trong nhận xét của mình - Dick chìa cho Bá tước lá thư của Daniel gửi cho Whensleydale. Khuôn mặt của Bá tước thay đổi. Ông trở nên dữ tợn như một con sư tử đang điên khùng, bàn tay thì nắm vào cán dao găm một cách không tự nhiên. - Anh cũng đã đọc lá thư này? - ông hỏi. - Tôi đã đọc, ngài thấy đấy, ông ta đề nghị cầu hoà bằng toàn bộ lãnh địa của ngài cho Whensleydale. - Đúng, anh nói đúng, bằng lãnh địa của tôi! - Bá tước đáp - Tôi là con nợ của anh qua lá thư này. Nó đã chỉ ra cho tôi cái hang cáo. Anh hãy ra lệnh cho tôi đi, tiểu công tử Shelton! Tôi sẽ không chậm trễ đáp lại ơn anh - dù cho anh là York hay Lancaster, dù cho anh là người lương thiện hay tên trộm cắp thì tôi cũng sẽ bắt đầu bằng việc trả lại tự do cho anh. Anh hãy đi đi vì danh sáng của Đức Mẹ! Nhưng anh đừng có tiếc rằng tôi sẽ giữ lại và treo cổ anh bạn Lawless của anh. Tội ác đã thực hiện trước công chúng, thì sự trừng phạt vẫn cần phải thi hành trước công chúng. - Thưa đại nhân, đây là đề nghị thứ nhất của tôi đối với ngài. Ngài hãy tha thứ cả cho anh ta - Dick yêu cầu. - Đó là một tên lưu manh già đời, tên lang thang và trộm cắp, anh Shelton ạ! - Bá tước nói - Từ lâu giá treo cổ đã chờ đợi hắn. Nếu người ta không treo cổ hắn sáng ngày mai thì hắn cũng sẽ được treo cổ muộn hơn một chút mà thôi. Thế thì tại sao lại không treo cổ hắn lên vào ngay ngày mai đi? ... Mời các bạn đón đọc Mũi Tên Đen - Robert Louis Stevenson

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Vợ Độc Lập
Tan nát trái tim sau khi bị chính người chồng mà mình hết mực tôn thờ bỏ rơi, Sarah Jerome quyết định thay đổi bản thân mình. Không những đổi tên, cô cũng thay đổi từ hình dáng đến tính cách. Từ một cô gái trầm lặng, nhút nhát, cô đã trở thành một người phụ nữ mạnh mẽ, độc lập, gợi cảm. Từ đây cô phát hiện ra mình có thể sống mà không cần đến người chồng kia. Nhưng 7 năm kể từ sau khi chia tay, định mệnh một lần nữa nhảy xổ vào đời cô. Người chồng cũ của cô xuất hiện và yêu cầu cô nối lại cuộc hôn nhân. Sarah, bây giờ là Sallie sẽ quyết định như thế nào? Từ bỏ cuộc sống của một phóng viên quốc tế đầy thú vị và độc lập để quay trở về với vai trò của một người vợ hiền. Hay cô sẽ từ bỏ tình yêu duy nhất của cô mà khoảng cách 7 năm cũng không thể nào làm phai nhạt? *** Review Bella Hoàng - fb/hoinhieuchu: Câu chuyện là về cô nàng Sarah tròn ủm, dịu dàng. Nàng kết hôn với phóng viên chiến trường Rhy - hàng xóm của nàng. Hôn nhân là những chuỗi ngày xa cách, hờn dỗi, mệt mỏi vì những chuyến công tác xa nhà của Rhy. Trái tim Sarah luôn luôn thắt lại mỗi khi nghe dc nhữg tin xấu từ chiến trường về, vì sợ bỗng một ngày nào đó Rhy trở thành 1 tờ giấy báo tử. Bất mãn trước yêu cầu thay đổi công việc từ Sarah, Rhy bỏ đi, ngoài việc gởi tiền trợ cấp về đều đặn thì Rhy ko hề liên lạc với Sarah trong nhiều năm. Sarah bị bỏ lại. Khóc lóc đau khổ nhiều ngày liền khiến nàng mệt mỏi. Nàng quyết định đi học lại. Nàng phát hiện bản thân học ngoại ngữ rất khá và nàng tìm được nhiều niềm vui khác từ cuộc sống. Cuộc hôn nhân thất bại đó dần trở thành lãng quên. 7 năm sau, nàng trở thành phóng viên cộm cán của tờ tạp chí lớn với tên gọi thời con gái Sallie. Nàng cuối cùng cũng hiểu được sự đam mê của Rhy với công việc này. Những cung bậc cảm xúc được kích thích cao độ khi tác nghiệp như là thuốc phiện đối với mỗi phóng viên. Nàng cần sự kích thích đó như cần khí oxi mỗi ngày bơm vào người vậy. Một ngày ko hẳn là đẹp trời lắm, tạp chí nơi nàng làm có chủ mới - một người đàn ông đẹp trai với hơi thở đầy hoang dã lẫn trong bộ vest nghiêm chỉnh. Sallie phát hoảng và trốn biệt ở ngăn làm việc của nàng vì chồng nàng đã tới cửa rồi. Giờ đây Rhy đã chán ngán với nhữg nguy hiểm, kích thích do nghề phóng viên mang lại. Rhy chuyển hướng làm kinh doanh và quay lại tìm con chim câu bé nhỏ - Sarah của mình. Nhưng Sarah giờ đây lại trở thành 1 phiên bản của anh ngày xưa, đam mê với nghề đã cắm sâu vào máu thịt cô. Câu chuyện diễn biến còn rất hấp dẫn. Sự mạnh mẽ, độc lập của Sallie làm độc giả cực yêu mến. Sự trừng phạt nào cho Rhy khi đã bỏ mặc Sarah 7 năm trời. Mn coi tiếp trong truyện nhé! *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. Linda Howard nói rằng từ lâu sách đã đóng một vai trò to lớn trong cuộc đời bà, dù là để đọc hay viết. Tác giả tiểu thuyết lãng mạn đầu tiên bà đọc là Margaret Mitchen và kể từ đó trở đi bà đọc rất nhiều với tất cả đam mê. Trong những năm gần đây, mối quan tâm của bà tập trung chủ yếu vào dòng tiểu thuyết lãng mạn, bởi bà “dễ dàng thấy chán chuyện giết người, bạo lực và chính trị”. Sau hai mươi mốt năm viết truyện chỉ để mua vui cho mình, rốt cuộc Howard đã gom đủ dũng cảm để gửi một tiểu thuyết tới nhà xuất bản - và lập tức thành công. Nhà văn gốc Alabama giờ đã trở thành người nhiều lần xuất hiện trong danh sách tác giả sách bán chạy nhất của tờ New york Times. Tác phẩm của Linda Howard gồm có: Against The Rules (Tiếng Việt) Almost Forever (Tiếng Việt) An Independent Wife (Tiếng Việt) Angel Creek (Tiếng Việt) Băng Đá Bluebird Winter (Tiếng Việt) Cầu Vồng Lúc Nửa Đêm Con Gái Của Sarah Con Trai Của Bình Minh Đêm Định Mệnh Đừng Nói Mãi Mãi Duncan's Bride (Tiếng Việt) Đường Về Nhà Giã Từ Nước Mắt Hẹn Hò Theo Kiểu Của Em Kill And Tell (Tiếng Việt) Lời Dối Gian Chân Thật Người Vợ Độc Lập Những Điều Hào Nhoáng Núi Tình Quý Bà Miền Tây Quý Ông Hoàn Hảo Sắc Đẹp Chết Người Sắc Màu Hoàng Hôn The Cutting Edge (Tiếng Việt) Thiên Sứ Tử Thần Thiêu Hủy Tội Ác Trong Mơ Trăng Xanh Tưởng Chừng Mãi Mãi Vịnh Kim Cương ... *** Điện thoại trên bàn đổ chuông một hồi dài nhưng Sallie không rời mắt khỏi máy tính hoặc tỏ ra một dấu hiệu nào cho thấy cô chú ý đến tiếng chuông. Brom thở dài, vươn người qua bàn và nhấc máy. Sallie vẫn tiếp tục gõ đều trên bàn phím, lông mày cau lại chứng tỏ cô đang tập trung ghê gớm. “Của cô đấy, Sal”, Brom nói giọng khô như ngói, Sallie trông lên và thấy Brom đang nằm bò ra bàn giơ điện thoại hướng về cô. “Ôi! Tôi xin lỗi! Brom, tôi chẳng nghe thấy gì hết”, cô nhe răng cười với vẻ hối lỗi khi cô nhận điện thoại từ anh. Anh vẫn thường đùa bảo rằng cô lúc nào cũng như người cõi trên, và điều đó thực ra cũng không sai gì mấy so với sự thực, cho nên anh bắt điện thoại của cô thường xuyên như của anh, bởi vì cô thường tập trung đến mức không nghe thấy tiếng chuông reo. Anh nhe răng cười lại với cô khi anh trở lại chỗ ngồi và nói, “Greg đấy” “Sallie nghe đây”, Sallie nói vào ống nghe với giọng vui mừng Giọng Greg Downey, anh chàng biên tập tin tức lè nhè trong điện thoại “Vào gặp tôi đi, bé con” “Ok, tôi đến liền”, cô nhiệt tình nói rồi cúp máy Khi cô tắt máy tính và lấy áo khoác, Brom hỏi: “Lại đi nữa à cưng?” “Tôi mong là thế”, Sallie trả lời, khẽ hất nhẹ bím tóc trên vai ra sau. Cô thích những chuyến công tác nước ngoài. Đối với cô, chúng cũng hấp dẫn ngang với bánh mì và bơ. Cô sống nhờ chúng. Trong khi những đồng nghiệp khác bơ phờ vì say máy bay, Sallie lại phơi phới như được hồi sinh. Dường như trong cô tồn tại nguồn năng lượng vô tận và tính hài hước bầm sinh. Trong khi lao tới chỗ Greg, Sallie có thể cảm nhận hoóc môn adrenalin đang tuôn chảy trong các mạch máu, kích thích cô mạnh mẽ, khiến trái tim cô đập nhanh hơn, và toàn thân cô náo nức trong sự kỳ vọng. Greg ngẩng đầu lên khi cô gõ lên cánh cửa phòng đang mở và một nụ cười dịu dàng hiện ra trên khuôn mặt thô cứng khi anh nhìn thấy cô. “Cô vừa chạy đấy à?” Anh chàng hỏi bằng một giọng khô khan khi anh đứng dậy và bước ngang qua cô, đóng cánh cửa phía sau cô. “Tôi chỉ vừa mới cúp máy xuống thôi mà” “Tốc độ thường ngày ấy mà”, Sallie trả lời, phá lên cười giống như anh. Nụ cười rạng rỡ làm đôi mắt màu xanh sẫm của cô sáng bừng lên, khắc sâu thêm đôi lúm đồng tiền trên gò má ửng màu hoa đào. Greg nhìn xuống khuôn mặt nhỏ bé rạng rỡ như mặt trời sớm mai của cô và vòng đôi tay thô cứng ôm lấy Sallie giây lát rồi buông ra. “Anh có gì cho tôi thế”. Cô hỏi với vẻ háo hức.   Mời các bạn đón đọc Người Vợ Độc Lập của tác giả Linda Howard.
Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc
Vũ Hạnh tên thật là Nguyễn Đức Dũng, sinh năm 1926 tại xã Bình Nguyên, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nho học. Ông tham gia Mặt trận Việt Minh huyện Thăng Bình, từ tháng 3-1945 học ban tú tài phần II. Năm 1955, ông tham gia đấu tranh đòi hiệp thương Bắc Nam và bị bắt giam ở nhà lao Thăng Bình rồi nhà lao Hội An. Vũ Hạnh là cán bộ văn hoá Khu uỷ Sài Gòn - Gia Định, hoạt động công khai ở nội thành Sài Gòn (hoạt động đơn tuyến). Trong hoàn cảnh viết trên sách báo công khai dưới chế độ ở miền Nam, ông đã có cách viết khéo léo để vẫn đưa được những thông điệp tiến bộ đến quần chúng mà không bị kẻ thù đàn áp. Sau năm 1975, ông làm Tổng thư ký Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên ban chấp hành Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh." *** Tác phẩm chính;   Các tập truyện: Vượt thác (1963), Mùa xuân trên đỉnh non cao (1964), Chất ngọc (1964), Ngôi trường đi xuống (1966), Bút máu (1971), Con chó hào hùng (1974), Cô gái Xà Niêng (1974), Ăn Tết với một người điên (1985), Sông nước mênh mông (1995),... Tiểu thuyết: Lửa rừng (1972) Hồi ký: Cái tết khó quên (1990), Một chặng đường bút mực (2000) Tiểu luận: Người Việt cao quý (1965), Đọc lại Truyện Kiều (1966), Tìm hiểu văn nghệ (1970),... *** Tiếng hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha. Ông chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế. Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà. Tiếng hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ, giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa. Có lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng. Gió khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng. Ông Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương, hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm. Ông chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài. Tiếng hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn. Khi ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang. Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng màng tai, xoắn lấy não tủy. Như cây gáo già sống trước cổng buôn gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng, ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn khiếp đảm hãi hùng hay sao? Ông già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm "dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn. Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu. Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ. Lên đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề, trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân cằm. Ông già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn: - Ai đó? Mời các bạn đón đọc Tiếng Hú Trên Đỉnh Non Chà Hóc của tác giả Vũ Hạnh.
Người Đẹp Sao Hỏa
Ở phố Bình Minh Đỏ, xuất hiện một bản thông báo kì lạ: đó là một tờ giấy nhỏ, màu xám, đóng vào bức tường nhiều chỗ đã long hết lớp vữa của một ngôi nhà hoang vắng. Khi đi qua, phóng viên một tờ báo Mỹ là Arsiban Xcail trông thấy một phụ nữ trẻ tuổi, chân đi giầy không bít tất, mặc chiếc áo liền váy bằng vải hoa sạch sẽ đang đứng trước tờ thông báo. Chị mấp máy môi đọc. Gương mặt mệt mỏi và xinh xắn của chị không lộ vẻ ngạc nhiên, đôi mắt lãnh đạm. Chị vuốt mái tóc quăn ra sau tai, nhấc làn rau dưới đất lên rồi sang bên kia đường. Bản thông báo đáng được chú ý nhiều hơn thế. Xcail tò mò đọc một lần, rồi tiến lại gần thêm, đưa một tay lên dụi mắt, đọc lần nữa: Twenty three; - Cuối cùng ông ta nói. Như vậy có nghĩa là: “Quỷ tha ma bắt mình với tuốt tuột mọi thứ của mình đi”. Bản thông báo viết: Kĩ sư M. X. Los mời những người muốn bay lên Sao Hỏa cùng với ông vào ngày 18 tháng tám đến gặp ông để bàn bạc riêng từ 6 giờ đến 8 giờ tối. Đường bờ sông Jdanovxcaia, nhà số 11, ở ngoài sân. Bản thông báo được viết một cách bình thường và đơn giản, bằng bút chì graphít. Bất giác Xcail đưa tay lên tự bắt mạch mình: mạch ông bình thường. Ông nhìn đồng hồ: lúc ấy là bốn giờ mười phút, ngày 17 tháng 8 năm 192... Với một lòng dũng cảm, bình tĩnh, Xcail đón chờ mọi thứ chuyện xảy ra trong cái thành phố điên rồ này. Nhưng bản thông báo đóng trên bức tường vữa tác động đến ông ta cực kì mạnh mẽ. Gió thổi hun hút trên đường phố Bình Minh Đỏ vắng vẻ. Cửa sổ các ngôi nhà nhiều tầng, ô thì bị vỡ kính, ô thì bị bịt kín, bằng những tấm gỗ, trông như bên trong không có người ở - không thấy một cái đầu nào thò ra phố. Người phụ nữ trẻ tuổi đặt làn xuống vỉa hè, đứng bên kia đường nhìn Xcail. Gương mặt xinh xắn của chị trông bình thản và mệt mỏi. Hai gò má Xcail hơi động đậy. Ông ta lấy chiếc phong bì cũ, ghi lại địa chỉ của Los: vừa lúc đó có một người cao lớn, vai rộng dừng lại trước bản thông báo. Người này không đội mũ, căn cứ vào quần áo mà xét, thì đây là một anh lính, anh ta mặc áo nỉ không có đai lưng, chân quấn xà cạp. Hai tay anh ta chẳng biết làm gì nên đút vào hai túi. Cái cổ chắc nịch căng ra khi anh ta bắt đầu đọc bản thông báo. – Gớm nhỉ, bay lên tận Sao Hỏa cơ à! - Anh ta nói với vẻ thích thú, rồi ngoảnh gương mặt vô tư rám nắng về phía Xcail. Thái dương anh ta có một vết sẹo trăng trắng chạy chéo xuống. Mắt anh ta màu nâu và cũng như ở phía người phụ nữ kia, có một ánh tinh nghịch. (Từ lâu, Xcail đã nhận thấy nét đó trong đôi mắt người Nga, thậm chí ông ta còn nhắc tới nét ấy trong một bài báo: “... Mắt họ không biểu lộ một điều gì rõ ràng, khi thì giỡn cợt, khi thì kiên quyết đến táo bạo, và cuối cùng, có khi lại biểu lộ một vẻ bề trên khó hiểu - những cái đó tác động cực mạnh đến người châu Âu”. – Kể bay một chuyến với ông ta cũng đơn giản thôi nhỉ, - người lính lại nói, anh ta mỉm cười hồn nhiên đồng thời nhìn Xcail từ đầu đến chân. Bỗng anh ta nheo mắt, nụ cười tắt hẳn trên môi. Anh ta chăm chú nhìn người phụ nữ bên kia đường vẫn đang đứng không nhúc nhích bên cạnh làn rau. Anh ta hất cằm bảo: – Masa, sao em đứng đó hả? (Chị chớp mắt nhanh một cái). Thôi về nhà đi chứ. (Chị có vẻ bồn chồn, hai bàn chân bé nhỏ đầy bụi bặm đứng không yên, chị thở dài và cúi đầu xuống). Em về đi, về đi, anh sẽ về ngay thôi. Người phụ nữ xách làn lên rồi cất bước. Anh lính nói: – Tôi về lực lượng dự bị là do bị thương. Buồn quá nên đi lang thang đến đây, lại đọc thấy bản thông báo này. – Anh định đến đường bờ sông ghi trong tờ thông báo này đấy à? - Xcail hỏi. – Nhất định tôi sẽ đến đó. – Nhưng bay năm mười triệu kilômet trong khoảng không gian không có không khí thế nào được. Đó là một chuyện nhảm nhí. – Tất nhiên là xa lắm rồi. – Đó là một chuyện bịp bợm hoặc một chuyện mê sảng. – Thì chuyện gì chả có thể xảy ra! Xcail, bấy giờ cũng nheo nheo mắt nhìn anh lính từ đầu đến chân. Anh lính đang nhìn ông ta, đúng như thế: giễu cợt, với một vẻ bề trên khó hiểu. Xcail tức giận đi về phía sông Neva. Ông bước những bước dài, vững vàng. Đến một vườn hoa, ông ngồi xuống chiếc ghế đá, thọc tay vào túi. Như tất cả những tay nghiện thuốc và bận nhiều công việc, ông để thuốc ngay trong túi. Chỉ bằng một động tác của ngón tay cái, ông đã nhồi được thuốc vào tẩu, châm lửa, rồi duỗi thẳng chân ra. Những cây bồ đề già trong vườn xào xạc. Không khí ẩm ướt và ấm áp. Trên đống cát có một cậu bé mặc chiếc áo bẩn thỉu, may bằng vải chấm hạt đỏ, không mặc quần. Có lẽ trong cả vườn hoa này chỉ có một mình cậu, và cậu ngồi đây chắc đã lâu. Thỉnh thoảng, một làn gió lại thổi tung mái tóc mềm mại màu sáng của cậu lên. Tay cậu cầm một đầu sợi dây, đầu dây kia buộc vào chân một con quạ già bù xù. Con quạ có vẻ bất bình và tức giận, nó cũng giương mắt nhìn Xcail như cậu bé. Bỗng nhiên - chỉ trong một khoảnh khắc thôi - dường như có một đám mây mù lướt qua ý thức Xcail, ông cảm thấy chóng mặt: hay ông trông thấy tất cả những thứ vừa rồi chỉ là trong một giấc mơ?... Cậu bé, con quạ, những ngôi nhà bỏ không, những đường phố hoang vắng, ánh mắt kì lạ của những người qua đường và tờ thông báo đóng bằng đinh lên tường mời mọi người bay vào khoảng không gian bao la... Xcail rít mạnh một hơi thuốc. Ông ta mở tấm bản đồ Pet rograd ra, lấy đầu chiếc tẩu dò dẫm tìm đường bờ sông Jdanovxcaia. Mời các bạn đón đọc Người Đẹp Sao Hỏa của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.
Bóng Tối Thiên Đường
Tại Việt Nam, Remarque bắt đầu được bạn đọc biết đến từ năm 1962 qua bản dịch Phía Tây không có gì lạ của Lê Huy, rồi sau đó các tác phẩm khác của nhà văn lần lượt được chuyển ngữ ở cả hai miền Nam, Bắc. Cho đến nay đã có tổng cộng khoảng hai mươi bản dịch của chín tác phẩm Remarque, trong đó có cuốn có tới bốn bản dịch với các tựa khác nhau như Phía Tây không có gì lạ. Qua các tác phẩm này, độc giả Việt Nam đã bị rung động bởi thứ văn chương của những tâm hồn non nớt tinh khôi, chưa kịp trưởng thành đã vội vàng già cỗi, chưa kịp thấy cuộc đời tươi đẹp đã thấu suốt tang thương. Nhiều thế hệ đã cùng bầu bạn và trưởng thành với những nhân vật của Remarque; những nhân vật luôn ấp ủ niềm thương nhớ về một thế gian bất biến, cái thế gian chàng thanh niên Remarque đã vĩnh biệt khi vừa tròn mười tám niên hoa. Để tái hiện lại thế giới ấy của Remarque, chúng tôi quyết định tái bản các tác phẩm tiêu biểu của ông. Đây là tám bản dịch được yêu thích nhất chọn lọc qua toàn bộ các bản dịch đã xuất hiện ở Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng nhân dịp này, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch Phía Tây không có gì lạ hoàn toàn mới, cùng tác phẩm lần đầu tiên ra mắt ở Việt Nam là Đường về, đều được dịch từ nguyên bản tiếng Đức bởi dịch giả Vũ Hương Giang, người đã chuyển ngữ thành công tác phẩm Ba người bạn. Như thế, với bộ hợp tuyển này, hi vọng bạn đọc sẽ có cơ hội thưởng thức trọn vẹn tài năng văn chương của một trong những nhà văn Đức được yêu mến nhất thế kỉ 20. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Bia mộ đen (Der schwarze Obelisk – 1956) một lần nữa cho thấy thiên bẩm của Remarque trong việc nhìn ra được niềm vui, lạc quan và những điều tốt đẹp giữa khổ đau, tuyệt vọng và xấu xí. Nhận xét về tác phẩm này, cây bút F.T. Marsh của tờ New York Herald Tribune từng viết: “Dí dỏm nhưng đượm buồn, vừa nghiêm túc lại có chút giang hồ, tuyệt diệu trong từng câu chữ nhưng vẫn khó nắm bắt vô vùng”. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Bóng Tối Thiên Đường *** Vào thời điểm chiến tranh sắp sửa kết thúc, số phận đã ném tôi sang New York. Phố 57 và vùng phụ cận, đối với tôi - một kẻ bị trục xuất (mấy từ này rất khó giải thích ở xứ sở tôi mới tới) - đã trở thành tổ quốc thứ hai của mình. Tôi để lại phía sau lưng cả một chặng đường dài ẩn chứa đủ mọi hiểm nguy, tai họa - Via Dolorosa* - chặng đường của những kẻ chạy trốn khỏi chế độ của Hitler. Con đường này bắt nguồn từ Đức, sang Hà Lan, qua Bỉ và miền bắc nước Pháp rồi khi tới Paris nó phân ra làm hai ngả: một ngả chạy qua Lyon đến bờ biển Địa Trung Hải, ngả kia qua Bordeaux và Pyrénées dẫn đến Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, đến cảng Lisbon. Via Dolorosa: Chặng đường thống khổ. Là tên con phố ở Jerusalem mà Chúa Jesus đi qua để đến nơi bị đóng đinh (tiếng Tây Ban Nha). Tôi trải qua chặng đường này như những người khác trốn chạy khỏi nanh vuốt của bọn Gestapo*. Ở những nước mà chúng tôi đi qua, chúng tôi không hề cảm thấy yên ổn bởi lẽ chỉ có một số ít người trong chúng tôi có giấy thông hành chính thức hoặc chiếu khán phòng thân. Chỉ cần đụng phải cảnh sát, chúng tôi sẽ bị nhốt sau lưới thép, rồi bị kết án và đưa đi phát vãng. Nhưng dầu sao ở một số nước vẫn còn tồn giữ được cách cư xử theo tình người, dù có bị bắt chúng tôi cũng sẽ không bị trả lại Đức để nhận lấy cái chết cầm chắc trong tay tại các trại tập trung. Gestapo: viết tắt của Geheime Staatspolizei, lực lượng cảnh sát bí mật thành lập năm 1933 của Đức Quốc xã. Chỉ có một số ít trong bọn tôi xoay xở được hộ chiếu, vì vậy cuộc trốn chạy của chúng tôi không bao giờ có điểm cuối cùng. Thêm vào đó, nếu không có giấy tờ hợp thức chúng tôi sẽ không kiếm nổi việc làm ở bất cứ đâu. Phần đông bọn tôi đều trở thành những kẻ đói khát, rách rưới và cô độc. Đấy, vì sao chúng tôi gọi chặng đường những cuộc viễn du của chúng tôi là Via Dolorosa. Những trạm bưu điện tại các thị trấn bé nhỏ và những dãy bờ rào quét sơn trắng dọc theo các con đường trải nhựa đã trở thành nhà ga của chúng tôi. Tại các trạm bưu điện chúng tôi có thể chờ những bức thư của người thân và bạn bè mà chúng tôi đã gửi số hòm thư về, còn những dãy hàng rào đã thay thế cho những chiếc bảng gỗ dán cáo thị. Với phấn và than củi, chúng tôi viết lên đất họ tên của những người bị mất tích, của những người đang tìm kiếm nhau, những dòng địa chỉ, những lời dặn dò cần phải phòng xa, những lời chỉ dẫn. Những lời kêu gọi bị ném vào khoảng không và vào những năm tháng mà sự thờ ơ, bàng quan ngự trị khắp mọi nơi thì nối tiếp theo những lời kêu gọi đó đã xuất hiện ngay một thời buổi hoàn toàn phi nhân tính, thời đại của các cuộc chiến tranh, khi cả bọn Gestapo, cả bọn mật vụ và cảnh sát cùng hùa nhau vào một công việc chung: săn lùng chúng tôi - những người bị trục xuất tội nghiệp. ... Mời các bạn đón đọc Bóng Tối Thiên Đường của tác giả Erich Maria Remarque.